*NNK 30- Đường Thi - Chủ Đề Biên Tái Kỳ 5 Của Nguyễn Ngọc Kiên (Hà Nội- VN)

 

Nhà Thơ Nguyễn Ngọc Kiên

 

ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI

(Kì 5)

 TS. Nguyễn Ngọc Kiên  chọn dịch và giới thiệu thơ

Lí Bạch

塞下曲其四

塞下曲其四

白馬黃金塞,

雲砂繞夢思。

那堪愁苦節,

遠憶邊城兒。

螢飛秋窗滿,

月度霜閨遲。

摧殘梧桐葉,

蕭颯沙棠枝。

無時獨不見,

淚流空自知。

 

Phiên âm:

TÁI HẠ KHÚC KÌ 4 – Lí Bạch

Bạch mã Hoàng Kim tái,

Vân sa nhiễu mộng tư.

Na kham sầu khổ tiết,

Viễn ức biên thành nhi.

Huỳnh phi thu song mãn,

Nguyệt độ sương khuê trì.

Tồi tàn ngô đồng diệp,

Tiêu táp sa đường chi.

Vô thời độc bất kiến,

Lệ lưu không tự tri.

 

Dịch nghĩa:

 TÁI HẠ KHÚC KÌ 4

Ngựa trắng phi trên ải Hoàng Kim

Mây cát cuốn theo giấc mộng

Sá kể chi nỗi đau khổ

Xa nhớ trẻ ngoài biên cương

Mùa thu, đom đóm bay đầu cửa sổ

Sương lạnh, trăng chầm chậm qua buồng the

Lá ngô đồng tàn rụng

Cành sa đường xác xơ

Trông ngóng luôn nhưng nào có thấy

Một mình tuôn lệ âm thầm

 

Dịch thơ: 

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 4) 

 Ngựa trắng phi Hoàng ải

Giấc mộng theo cát mây

Sá kể gì đau khổ

Nhớ trẻ biên ải này

Thu, đóm qua cửa sổ

Sương lạnh trăng qua đây

Lá ngô đồng tàn rụng

Cành sa đường lá bay

Trông ngóng nào có thấy

Một mình lệ tuôn đầy!

 

塞下曲其五

塞虜乘秋下,

天兵出漢家。

將軍分虎竹,

戰士臥龍沙。

邊月隨弓影,

胡霜拂劍花。

玉關殊未入,

少婦莫長嗟。

 

Dịch thơ: 

TÁI HẠ KHÚC KÌ 5

Tái lỗ thừa thu há,

Thiên binh xuất Hán gia.

Tướng quân phân hổ trúc,

Chiến sĩ ngọa Long Sa.

Biên nguyệt tùy cung ảnh,

Hồ sương phất kiếm hoa.

Ngọc Quan thù vị nhập,

Thiếu phụ mạc trường ta.

 

Dịch nghĩa:

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 5)

Gặp tiết thu giặc ngoài ải tràn xuống

Binh trời ra từ nhà Hán

Tướng quân chi ấn hổ trúc

Binh sĩ nằm lăn trên bãi Bạch Lonh Đôi

Trăng ngoài ải theo lẩn bóng cung

Sương đất Hồ thấm ướt lưỡi kiếm

Ngọc Quan chưa vào được

Vợ trẻ chớ nên than dài

 

Dịch thơ:

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI

Thu giặc tràn xuống ải

Nhà Hán xuất binh trời

Tướng nhận ấn hổ trúc

Chiến sĩ nằm Long Đôi

Trăng ải, cung theo ảnh

Sương Hồ ướt kiếm thôi

Ngọc Quan chưa vào được

Thiếu phụ chớ than dài.

 

塞下曲其六

烽火動沙漠,

連照甘泉雲。

漢皇按劍起,

還召李將軍。

兵氣天上合,

鼓聲隴底聞。

橫行負勇氣,

一戰靜妖氛。

 

Phiên âm:

HẠ TÁI KHÚC KÌ 6

Phong hoả động sa mạc,

Liên chiếu Cam Tuyền vân.

Hán hoàng án kiếm khởi,

Hoàn triệu Lý tướng quân.

Binh khí thiên thượng hợp,

Cổ thanh lũng để văn.

Hoành hành phụ dũng khí,

Nhất chiếm tĩnh yêu phân.

 

Dịch nghĩa

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 6)

Khói lửa rung động ngoài sa mạc

Soi đến tận mây Cam Tuyền

Vua Hán chống kiếm dậy

Lại vời Lý tướng quân

Khí quân tụ cả trên trời

Tiếng trống vang dậy ngoài cõi

Tung hoành đầy khí thế

Yêu quái một trận dẹp tan

 Dịch thơ:

KHÚC HÁT DƯỚI ẢI (KÌ 6)

Khói lửa rung sa mạc

Soi mây Cam Tuyền lan

Vua Hán chống kiếm dậy

Lại vời Lý tướng quân

Trên trời khí quân tụ

Ngoài cõi tiếng trống vang

Tung hoành đầy khí thế

Yêu quái một trận tan.

 

 SẦM THAM (715-770)  

                                 

Sầm Tham là người Nam Dương, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc). Cha ông từng làm Thứ sử (hai lần), và đã qua đời lúc Sầm Tham còn nhỏ.

Nhà nghèo, ông phải tìm cách tự học. Năm 744 đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), Sầm Tham thi đỗ Tiến sĩ lúc 29 tuổi, được bổ làm một chức quan nhỏ là Binh tào Tham quân.

Năm 749, ông theo tướng Cao Tiên Chi đến An Tây  (ra biên ải lần thứ nhất), nhưng chẳng bao lâu lại trở về kinh đô Trường An.

Năm 754, ông ra biên ải lần thứ hai, làm Phán quan cho Tiết độ sứ An Tây là Phong Thường Thanh. Thời kỳ này, ông sáng tác rất nhiều thơ về chủ đề "biên tái".

Sau loạn An Sử (755-763), từ Tửu Tuyền (nay thuộc Cam Túc), Sầm Tham đến Phượng Tường (nay thuộc Bảo Kê, Thiểm Tây) là nơi Đường Túc Tông (ở ngôi: 756-762) đang ở. Được bạn thân là nhà thơ Đỗ Phủ và Phòng Quân tiến cử, ông được giữ chức Hữu bổ khuyết.

Thời Đường Đại Tông (ở ngôi: 762-779), Sầm Tham lại ra biên ải (lần thứ ba). Năm 766, ông được bổ làm Thứ sử Gia Châu (nên ông xưng là Sầm Gia Châu), nhưng sau đó bị bãi chức .

Lâm cảnh đói nghèo, năm 770, Sầm Tham mất trong quán trọ tại Thành Đô (nay là tỉnh lỵ tỉnh Tứ Xuyên) lúc 55 tuổi.

Tác phẩm của ông để lại có Sầm Gia Châu thi tập (Tập thơ của họ Sầm ở Gia Châu) gồm 8 quyển.

                                (Theo Từ điển mở Kiwipedia tiếng Việt)

磧中作

走馬西來欲到天,

辭家見月兩回圓。

今夜不知何處宿,

平沙萬里絕人煙。

 

 Phiên âm:

THÍCH TRUNG TÁC

Tẩu Mã tây lai dục đáo thiên,

Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên.

Kim dạ bất tri hà xứ túc,

Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên.

 

Dịch nghĩa:

VIẾT TRONG SA MẠC

Giục ngựa chạy về phía Tây, muốn đến tận chân trời

 Rời nhà ra đi, đã thấy trăng hai lần tròn

 Đêm nay không biết ngủ ở đâu

 Trên sa mạc muôn dặm, tuyệt không thấy bóng người và khói bếp.

 

Dịch thơ:

CẢM TÁC TRONG SA MẠC

Ngựa sải về Tây muốn tới trời

Xa nhà chốc đã hai mùa rồi

Đêm nay chẳng biết  tìm đâu ngủ

Vạn dặm cát xa chẳng khói, người.

 

見渭水思秦川

渭水東流去,

何時到雍州.

憑添兩行淚,

寄向故園流.

 Phiên âm:

KIẾN VỊ THỦY TƯ TẦN XUYÊN

Vị thuỷ đông như khứ,

Hà thời đáo Ung Châu.

Bằng thiêm lưỡng hàng lệ,

Ký hướng cố viên lưu.

 

Dịch nghĩa:

THẤY SÔNG VỊ NHỚ TẦN XUYÊN

Song Vị chảy về đông

Bao giờ tới châu Ung

Nếu chở thêm được hai dòng lệ

Xin gửi đưa giùm về quê hương

 

Dịch thơ:

THẤY SÔNG VỊ NHỚ TẦN XUYÊN

Sông Vị chảy về Đông

Bao giờ tới châu Ung

Nếu thêm đôi dòng lệ

Xin gửi về cố hương.

 

逢入京使

故園東望路漫漫,

雙袖龍鐘淚不乾。

馬上相逢無紙筆,

憑君傳語報平安。

 

Phiên âm:

PHÙNG NHẬP KINH SỨ

Cố viên đông vọng lộ man man,

Song tụ Long Chung (1) lệ bất can.

Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,

Bằng quân truyền ngữ báo bình an.

 

Dịch nghĩa:

GẶP SỨ GIẢ VÀO KINH

Ngóng về hướng đông nơi quê nhà, đường dài hun hút

Hai tay áo thõng, nước mắt không cạn

Ở trên lưng ngựa gặp nhau, không có bút trong tay

Nhờ anh gửi lời nhắn tin báo rằng tôi vẫn được bình yên.

 

 Dịch thơ:

GẶP SỨ GIẢ VÀO KINH

Đông ngóng quê nhà, chốn mênh mang

Hai tay áo thõng, nước mắt giàn

Gặp trên lưng ngựa không giấy bút

Nhắn hộ rằng tôi vẫn  bình an.

 

Nguyễn Ngọc Kiên

 

Kommentar schreiben

Kommentare: 0

 

Một Kiếp Người

 

Anh đã cho em nửa cuộc đời

Cho con phân nửa của phần tôi

Phần tôi phân nửa, phần phân nửa

Cho thơ làm tựa viết thành lời

 

Thế là, tôi đã cho, cho hết

Xin người, thơ phú chớ phụ tôi

Ngày mai khi trở về cát bụi

Bia tôi xin tạc  "Một Kiếp Người" .

 

Thủy Điền