*NNK 44 - Đường Thi- Chủ Đề Biên Tải Kỳ 17 (Bài Viết ) Nhà Thơ Nguyễn Ngọc Kiên (Hà- Nội- VN)

 

Nhà Thơ Nguyễn Ngọc Kiên

 

17ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI

(Kì 17)

 TS. Nguyễn Ngọc Kiên  chọn dịch và giới thiệu thơ

NHÀ THƠ LÍ ÍCH – 李益 – Trung Đường

Lý Ích 李益 (748-829) tự Quân Ngu 君虞, người Cổ Tang, Lũng Tây (nay thuộc huyện Vũ Uy, tỉnh Cam Túc), thi nhân đời Trung Đường.

 




 

Phiên âm:

 Dạ thướng Thụ Hàng thành

 văn địch (I) – Lí Ích

Hồi Nhạc phong tiền sa tự tuyết
Thụ Hàng thành ngoại nguyệt như sương
Bất tri hà xứ xuy lô quản
Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương.

 

Dịch nghĩa:

Đêm lên thành Thụ Hàng,

nghe tiếng sáo (1) – Lí Ích

Trước núi Hồi Nhạc cát trắng như tuyết
Ngoài thành Thụ Hàng ánh trăng như sương
Không biết tiếng sáo lau thổi ở nơi nào
Làm một đêm nay tất cả các kẻ chinh nhân đều nhớ về quê nhà.

 

Dịch thơ:

Đêm lên thành Thụ Hàng,

nghe tiếng sáo (1)

Bản dịch 1:

Trước Hồi  Nhạc cát bay như tuyết

Ngoài  Thụ Hàng ánh nguyệt như sương

Tiếng sáo lau cứ vấn vương

Làm chinh nhân nhớ cố hương đêm rày.

 

Bản dịch 2:

Trước Hồi Nhạc cát trắng tựa tuyết

Ngoài Thụ Hàng trăng sáng như sương

Tiếng sáo lau  từ đâu dìu dặt

Chinh nhân đêm ấy  nhớ cố hương.

 

西

西宿

滿

 

Phiên âm:

Dạ thướng Tây Thành thính

 Lương Châu khúc kỳ 1

Hành nhân dạ thượng Tây Thành túc,
Thính xướng Lương Châu song quản trục.
Thử thời thu nguyệt mãn quan san,
Hà xứ quan san vô thử khúc.

 

 Dịch thơ:

ĐÊM LÊN TÂY THÀNH NGHE

KHÚC LƯƠNG CHÂU (KÌ 1)

 

Hành nhân đêm ngủ Tây Thành 

Bỗng nghe song quản bài hành Lương Châu

Trăng thu soi sáng một màu

Tiếng tiêu văng vẳng dãi dầu quan san. 

 

 

西




 

Phiên âm:

Dạ thướng Tây Thành thính

Lương Châu khúc kỳ 2 – Lí Ích

Hồng nhạn tân tòng bắc địa lai,
Văn thanh nhất bán khước phi hồi.
Kim hà thú khách trường ưng đoạn,
Cánh tại thu phong bách xích đài.

 

Dịch thơ:

ĐÊM LÊN TÂY THÀNH NGHE KHÚC LƯƠNG CHÂU (KÌ 2)

Nhạn hồng mới từ bắc đến thôi

Mới nghe nửa khúc đã bay rồi

Sông Kim khách thú lòng như đứt

Chỉ tại gió thu trăm thước đài

 

NHÀ THƠ SẦM THAM

Sầm Tham 岑參 (715-770) tổ tiên ở Nam Dương sau di cư tới Giang Lăng, dòng dõi của tể tướng Sầm Văn Bản 岑文本 (595-645), thi nhân đời Đường đại biểu cho thơ biên tái cùng với Cao Thích 高適. Tác phẩm có "Sầm Gia Châu thi tập" 岑嘉州詩集.

 

岑參

西


 

Phiên âm:

Hiến Phong đại phu phá Bá Tiên

khải ca kỳ 1 – Sầm Tham

Hán tướng thừa ân tây phá Nhung,
Tiệp thư tiên tấu Vị Ương cung.
Thiên tử dự khai lân các đãi,
Chỉ kim thuỳ sổ Nhị Sư công.

 


Chùm thơ này được viết năm 754. Bá Tiên tức trấn Bá Tiên, thành Thả Mạc cũ, nay là thành Xa Nhĩ, huyện Thả Mạt, Tân Cương, nằm phía bắc sông Hoàng Hà. Phong đại phu tức tướng Phong Thường Thanh
封常清. Tác giả làm việc dưới quyền ông này, đã đi theo hành quân tại Cam Túc, Tân Cương nhiều lần.

 

Dịch thơ:

Bài ca chiến thắng kính tặng Phong

đại phu  phá giặc ở Bá Tiên kỳ 1 – Sầm Tham

Tướng Hán thừa ân tây phá Nhung

Thắng trận tin loan trước Vị cung.
Vua định mở Kỳ Lân tiếp đãi
Bằng tướng Nhị Sư để thưởng công.

 

 

 

岑參

西


竿

 

 

Hiến Phong đại phu phá

 Bá Tiên khải ca kỳ 2 – Sầm Tham

Quan quân tây xuất quá Lâu Lan,
Doanh mạc bàng lâm nguyệt quật hàn.
Bồ hải hiểu sương ngưng mã vĩ,
Thông sơn dạ tuyết phác tinh can.

 

Dịch nghĩa:

Bài ca chiến thắng kính tặng Phong

đại phu  phá giặc ở Bá Tiên kỳ 2 – Sầm Tham

Quan quân đi về phía tây qua khỏi Lâu Lan,
Trăng lên hạ trại gần một cái hang, trời lạnh.
Sương sớm bên hồ Bồ đọng trên lông đuôi ngựa,
Tuyết đêm trên núi Thông treo trên cột cờ.

 

Dịch thơ:

Bài ca chiến thắng kính tặng Phong

đại phu  phá giặc ở Bá Tiên kỳ 2 – Sầm Tham

Về Tây, quan lính khỏi Lâu Lan

Trời lạnh trăng lên trại cạnh hang

Sương đọng hồ Bồ trên đuôi ngựa

Đêm cột cờ Thông tuyết đóng băng

 

 

 

岑參




 

Hiến Phong đại phu phá

 Bá Tiên khải ca kỳ 3 – Sầm Tham

Minh già điệp cổ ủng hồi quân,
Phá quốc bình Phiên tích vị văn.
Trượng phu thước ấn dao biên nguyệt,
Đại tướng long kỳ xiết hải vân.

 

Dịch nghĩa:

Bài ca chiến thắng kính tặng Phong

đại phu  phá giặc ở Bá Tiên kỳ 3 – Sầm Tham

Kèn trống vang lừng đón tiếp đoàn quân chiến thắng trở về,
Tiêu diệt nước nhỏ, bình định nước ngoài, từ xưa chưa từng nghe.
Ấn tín của người hùng lung lay cả mặt trăng nơi biên ải,
Cờ hiệu của đại tướng như kéo cả mây biển đi theo.

 

Dịch nghĩa:

Bài ca chiến thắng kính tặng Phong

đại phu  phá giặc ở Bá Tiên kỳ 3 – Sầm Tham

Kèn trống lừng vang đón quân về

Diệt tan nước nhỏ chửa từng nghe

Ấn người hùng lay trăng biên ải

Cờ hiệu đại tướng kéo  mây che

 

岑參




 

Phiên âm:

Hiến Phong đại phu phá

 Bá Tiên khải ca kỳ 4 – Sầm Tham

Nhật lạc viên môn cổ giốc minh,
Thiên quần diện phọc xuất Phiên thành.
Tẩy binh Ngư Hải vân nghênh trận,
Mạt mã Long Đôi nguyệt chiếu doanh.

 

Dịch nghĩa

Bài ca chiến thắng kính tặng Phong

đại phu  phá giặc ở Bá Tiên kỳ 4 – Sầm Tham

Buổi chiều trống thúc tù và thổi trước cổng doanh trại,
Ngàn tù binh bị dẫn ra khỏi thành người Phiên.
Quân sĩ tập trận bên đầm Ngư Hải bao la mây trời.
Trăng chiếu cảnh ngựa ăn trong doanh trại trên gò Long Đôi.

 

Dịch thơ:

Bài ca chiến thắng kính tặng Phong

đại phu  phá giặc ở Bá Tiên kỳ 4 – Sầm Tham

Chiều trống thúc, tiếng tù trước trại

Ngàn tù binh dẫn khỏi  thành Phiên

Quân đầm Ngư nước mây liền

Trăng thanh ngựa gặm cỏ trên đất gò.

 

岑參


滿


 

Phiên âm: 

Hiến Phong đại phu phá Bá Tiên khải ca kỳ 5 Sầm Tham

Phiên quân dao kiến Hán gia doanh,
Mãn cốc liên sơn biến khốc thanh.
Vạn tiễn thiên đao nhất dạ sát,
Bình minh lưu huyết tẩm không thành.

 

Dịch thơ:

Bài ca chiến thắng kính tặng Phong

đại phu  phá giặc ở Bá Tiên kỳ 5 – Sầm Tham

Trại Hán quân Phiên ở xa trông

Khắp rừng đầy lũng tiếng khóc ròng

Vạn tên, dao một đêm giết sạch

Sáng ra máu đổ với thành không. 

 

 

 

岑參




 

Hiến Phong đại phu phá Bá Tiên khải ca kỳ 6 Sầm Tham

Mộ vũ tinh kì thấp vị can,
Hồ yên bạch thảo nhật quang hàn.
Tạc dạ tướng quân liên hiểu chiến,
Phiên quân chỉ kiến mã không an.

 

Dịch thơ: 

Bài ca chiến thắng kính tặng Phong

đại phu  phá giặc ở Bá Tiên kỳ 5 – Sầm Tham

Mưa chiều ướt đẫm lá cờ hồng

Cỏ trắng khói hồ ánh nhật quang

Quân tướng đánh đêm liền tới sáng

Quân Phiên chỉ thấy ngựa không cương

 

 

  岑參




 

Sơn phòng xuân sự kỳ 1 – sầm Tham

Phong điềm nhật noãn đãng xuân quang,
Hí điệp du phong loạn nhập phòng.
Sổ chi môn liễu đê y hành,
Nhất phiến sơn hoa lạc bút sàng.

 

Dịch nghĩa:

 Nét xuân ở nhà trong núi (kỳ 1) – sầm Tham

Gió yên, tiết trời ấm áp, nắng xuân nhảy múa,
Bướm nhởn nhơ, ong lãng đãng bay loạn vào phòng.
Vài cành của cây liễu trồng trước cửa rủ xuống mắc áo,
Một cánh hoa rơi trên cái giá gác bút.

 

Dịch thơ:

Nét xuân ở nhà trong núi (kỳ 1) – Sầm Tham

Bản dịch 1:

Gió yên, trời ấm, nắng vui đùa

Ong lượn vào phòng bướm nhởn nhơ

Cành liễu rủ vờn trêu mắc áo

Một cánh hoa rơi gác bút xưa.

 

Bản dịch 2:

Gió yên, trời ấm,  nắng đầy

Bướm nhởn nhơ, ong lãng đãng bay vào phòng

Liễu rủ mắc áo như thường

Giá bút kia đóa hoa vương một nhành.

 

岑參




 

Phiên âm: 

Sơn phòng xuân sự kỳ 2 – Sầm Tham

Lương viên nhật mộ loạn phi nha,
Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia.
Đình thụ bất tri nhân khứ tận,
Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa.

 

Dịch nghĩa:

Nét xuân ở nhà trong núi kỳ 2 – Sầm Tham

Trong vườn Lương, lúc chiều tà những con quạ bay hỗn loạn
Cố trông hết tầm mắt cũng chỉ thấy vài ba nhà tiêu điều
Cây trong sân không biết rằng người ta đà đi hết
Xuân về lại nở những bông hoa thời xa xưa.

 

Dịch thơ:

Nét xuân ở nhà trong núi (kỳ 2) – Sầm Tham

Bản dịch 1:

Quạ loạn vườn Lương buổi chiều tà

Xa trông xơ xác chỉ mấy nhà

Cây sân không biết người đi hết

Xuân đến như xưa …. vẫn nở hoa

 

Bản dịch 2:

Vườn Lương quạ náo chiều tà

Xa trông chỉ thấy mấy nhà xác xơ

Cây sân người vắng bao giờ

Xuân về hoa tự thưở xưa nở bừng.

 

 

 

 

Kommentar schreiben

Kommentare: 0

 

Một Kiếp Người

 

Anh đã cho em nửa cuộc đời

Cho con phân nửa của phần tôi

Phần tôi phân nửa, phần phân nửa

Cho thơ làm tựa viết thành lời

 

Thế là, tôi đã cho, cho hết

Xin người, thơ phú chớ phụ tôi

Ngày mai khi trở về cát bụi

Bia tôi xin tạc  "Một Kiếp Người" .

 

Thủy Điền