*VCL 24 -Về Nguồn (Truyện Ngắn) Nhà Văn Võ Công Liêm (Canada)

 

Nhà Văn Võ Công Liêm

 

 

VỀ NGUỒN

 

     Mùa nước nổi hằng năm thường vào cuối tháng tám, trời trút xuống làng Sình những trận mưa gió ào ạt, nhà cửa cây cối tơi bời, lũ chim trốn biệt không còn nghe hót dưới những bụi cây hay trên đọt tre; không gian lặng đứng cảnh vật thêm hoang vắng, lòng người se lại chẳng còn ai muốn làm ăn. Đất Sình khó thâm canh, nương rẫy sản xuất cây xanh cũng chậm phát triển, dân làng chuyên nghề đan thúng mủng, lớp trai trẻ hầu hết kéo nhau vào xí nghiệp, hảng xưởng để làm, một số khác tha phương cầu thực, hy vọng thay đổi nếp sống mới. Dù ở hay đi tình quê của họ là cây cổ thụ từ bấy lâu nay.

Điển đứng trong nhà nhìn qua khung cửa sổ, bên ngoài da trời màu xám tro, cảnh vật buồn xơ xác, con đường dẫn ra lộ chính bầy nhầy, sũng ướt. Điển nhìn đôi chim sẻ cánh vàng nhảy trong lồng như muốn đòi bay. Cặp chim này là giấc mơ xưa nay của Điển; chàng đã đánh đổi được giá với lão Cù ngày hôm qua ở chợ huyện. Điển đặc lồng chim trên bàn ăn, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn thích thú và thỏa mãn. Một thú chơi chim mà chàng bỏ công nghiên cứu từ lâu. Điển ngoài bốn mươi, ít nói và trầm lắng, gương mặt ngầu trông dữ dằn nhưng có một tâm hồn nhân hậu đối với mọi người. Không vợ không con chỉ thổ lộ, tâm tình với chim như người bạn đời. Điển ngậm thuốc trên môi, tay cầm tách cà phê nhả từng cuộn khói như đợi chờ. Có ai mà đợi với chờ. Trong lòng Điển cảm thấy chộn rộn một nỗi gì.

 

Dương Triện giám đốc xưởng giấy. Ngồi thừ người trên bàn viết, không mấy cởi mở như lệ thường, mặt thụng xuống với nét buồn, hai con mắt chìm đắm chứa đựng một suy nghĩ riêng tư. -Ông đọc và ký văn bản này; chúng tôi đã duyệt xong. Viên trợ lý nói. Triện lược qua và hạ bút ký không ngần ngừ, khác mọi khi. -Anh gọi Điển tôi muốn gặp. Triện nói. Giám đốc Triện nhìn xuyên qua cửa kính, mười giờ sáng trời hực nắng, mấy hàng cây ngoài sân xưởng đùa với gió vô tư; Triện suy nghĩ mông lung…

Điển đưa mắt nhìn và nhếch mép cười với Sáu Thiệt. Nàng ngoắt mắt như khiêu dâm. -Giám đốc muốn gặp anh.Tùy phái Ích nói. Điển buông tay đứng dậy tiến về phòng giám đốc.Chẳng phải suy nghĩ vấn đề. Điển là người Triện tin tưởng coi như thân ruột thay mặt trông coi xưởng giấy xưa nay.

-Anh gọi tôi. Điển nói. -Ừ! lặng câm như người mất hồn. Anh dùng trà. Triện nói. Hai người ngồi im nhắp trà chẳng nói nên lời. Giọng nói trầm xuống. -Liên chết sáng nay. Triện nói. Điển đưa chén trà lên miệng nuốt ực; đoạn nói: -Tôi nói chuyện với Liên hôm qua và kể cho nhau nghe nhìều chuyện cũ ở quê và chuyện tình si của tôi đối với Liên; dù hai chúng tôi là người trong họ, chuyện xẩy ra trước một ngày Liên khăn áo về làm vợ anh. Cả hai chúng tôi yêu nhau lúc đó. Điển kể. -Liên có nói cho tôi biết đêm động phòng như lời thú tội, bởi; nàng cho đó là phạm tục lệ và ngoại tình tư tưởng. Tôi không buồn về việc này mà nghi ngờ lòng dạ của Liên. Người vợ chân thật của tôi. Triện nói.

Liên tên cúng cơm là Xiên người Thái trắng ở vùng tây cao nguyên cạnh biên Lào, Thái con gái duy nhất của tộc trưởng A-Níu. Xiên đẹp toàn diện, ít nói và cả thẹn, lớn lên ở độ trăng tròn, trổ mã làm cho nhiều trang thanh niên trong bản dòm ngó. Tới hai mươi Xiên đổi sắc, đẹp lạ qua nước da màu nếp trắng, tóc huyền cân xứng với khuôn trang. Xiên người có hồn thơ và lãng mạn.-Tôi ngâm thơ cho Liên nghe đêm hôm đó. Điển nói. -Tôi có nghe vợ tôi nói anh nhà thơ. Triện nói. Chuyện đó cả hai biết từ lâu và từ chỗ đó họ không cho là kỳ phùng địch thủ trước nhan sắc của người thiếu nữ đẹp; cả hai đều tôn trọng và coi nhau như anh em. Điển thường khi ghé nhà dùng cơm với vợ chồng Triện. Càng thân tình càng qúy nhau. Chuyện nhỏ, chuyện lớn họ trao đổi với nhau, nương tựa vào nhau không bao giờ là tình địch. -Cớ sự gì đưa tới cái chết cho Liên. Điển hỏi. -Sáng dậy tôi mới hay vợ mình đã ra đi. Triện nói. Cả hai ra khỏi phòng trong bước đi chậm rãi. Điển gật gù như đồng tình với cái chết của vợ giám đốc, cái chết không cố ý hay đả thương mà chết đột ngột như sự thật. Bởi họ tin nhau và hiểu nhau từng lời nói, cử chỉ. Triện coi Liên như người tình hơn người vợ. Điển coi Liên là người em họ đã để lại dấu ấn trong lòng Điển. Vừa bà con, vừa là tình nhân trong thoáng chốc đã là kỷ niệm để đời và từ đó Điển sống cô độc. -Anh báo cho mọi người ở xưởng biết việc này chưa? Điển nói. Triện trầm ngâm trong tư thế của một người đang đứng trước tuyệt vọng, đôi mắt hoen mờ, lời thì thầm tợ như không chú ý. -Chỉ có anh biết. Triện nói. Điển đặc tay lên vai Triện vỗ về, an ủi. Gió tạt qua đưa ngọn khói vào mắt Triện, lấy tay chụi tưởng như muốn khóc dài. -Nhìn vợ nằm xuôi, tay chân rã rời, bất động, toàn thân Liên nhão nhoẹt, tôi ôm mặt Liên và hôn lên người nàng trước khi đến sở.Triện nói. Tình tiết như vậy làm Điển động lòng và nghĩ rằng Xiên sống đẹp với nhan sắc và chết đẹp với thể xác và linh hồn. Mười năm chung sống bên nhau như một cuộc tình lớn, không một mảy may, không một gợn sóng. Liên ngoan hiền và Triện một thanh niên người Kinh gặp nhau tình cờ ở suối nước Pành-Xu và sau đó thành vợ chồng. -Trước ngày ‘đại đăng khoa’ và sau cái ‘tiểu đăng khoa’ là thủ tục ‘xét mình’ do bà mụ trong bản ‘vén màn’ xông hương sả, phả khói thông, tẩm nước hoa, chải chuốt cho mượt mà để trọn tình thủy chung; đó là sợi khói, ‘sợi tơ hồng’ giữa vợ chồng đan kết vào nhau: mặn nồng có nhau và đau khổ có nhau cho tới đầu bạc răng long. -Đó là thủ tục và nghi lễ của bản em, của tổ tiên em. Liên kể lại. Và; lời kể của vợ như một khắc ghi niềm tin cho Triện. Ra khỏi chòi lá lúc đó, trăng vằng vặc soi; Xiên gặp Điển trong bóng đêm. Họ không nói. -Điển thấy gì ở mình không? Xiên nhủ thầm. Những lời kể lại của Liên là trang tình thư, là niềm tin mà Triện sẽ không bao giờ quên…dù cho mười năm không có một mụn con; nhưng họ coi nhau như tình nhân. Với ba mươi tuổi đời Liên đến và đi như mơ, như thần tiên. Và; Triện nhớ đã một lần tắm rượu mèn (một thứ rượu ủ vị thảo mộc gia truyền) lên người lên tóc Liên. Ôi! giây phút tuyệt vời cho đôi tình nhân Kinh Thượng và họ làm tình say đắm sau đó. Hai người đàn ông cảm thấy như mất mát điều gì to lớn trong đời. Trời đã ngả xuống hoàng hôn. Điển búng điếu thuốc cháy dở ra ngoài khoảng trống và quay lưng đi. -Ngày mai anh lấy chiếc Dodge đưa tôi và thi thể Liên lên bản điạ Hà-Mông. Triện nói.

Xe ngừng lại ở chợ Củi, tìm mua vài thùng rượu mèn trắng (thứ rượu đế trắng), ve dầu thơm, mấy thước củi thông chẻ dài như đòn gánh, chất lên xe và trực chỉ về quê cũ của Xiên. Đôi chim sẻ cánh vàng được Điển mang theo, chúng nhảy nhót. Điển nhìn và mỉm cười. Cả hai ngồi trong bụng xe chả nói năng, chả tỏ bày, cả hai trầm lắng như đang mơ. -Hai con chim sẻ của anh đang nói chuyện. Triện nói. -Vâng chúng đang nói với nhau. Điển nói. Xe lăn bánh ngon; họ nhìn ra bên ngoài, cảnh trời buồn dã dượi với núi rừng. Sau thùng xe xác Liên rung rinh theo gió chiều. Tới bản thì trời đã nhá nhem tối.

Đặc xác Liên lên giường, cởi hết quần áo, một đống thịt trắng như bột nhồi nằm trơ, đôi vú căng tròn rung rinh mỗi khi lay động trên giường. Triệu làm theo tập tục cổ truyền của dân tộc Hà-Mông, Điển đưa chiếc lược sừng trâu cho Triện và từ tốn chải tóc vợ. Thau nước suối để rửa người với chiếc khăn trắng vải thô đang chờ đợi. Triện lau mặt, tay chân, lau đôi vú hồng, trân qúy trong tay, lau khắp, lau tới cuối bụng. Điển xông sả tươi, khói thông và rảy lên mình dầu thơm như thuở ban đầu ở buổi lễ ‘hợp cẩn’.Triện cúi đầu hôn lên bụng dưới, lấy tay xoa vào ‘nơi’ của Liên lần cuối trước khi quấn khăn trắng, toàn thân trông như xác ướp Ai Cập. Trong buổi tẩm liệm chỉ có Triện và Điển tự tay sắp xếp và làm đúng như lời dặn dò của Liên trước đây. Thi thể vợ đặc nằm trên một phiến đá màu đen dưới chân núi Chu-Pong; ở đây không xa con suối Pành-Xu mà mười năm trước họ đã gặp nhau. Sáng hôm sau đưa xác Liên lên giàn hỏa. Họ đã dùng rượu men tưới lên thi thể, tưới hết vào đống củi thông, nhen lửa và lửa phật cháy, tiếng lửa hòa với gió tạo nên một âm thanh nghe như rên và buồn thảm. Lửa, khói mỗi lúc mỗi dâng cao như ngọn tháp. Ánh sáng của lửa soi mặt hai người đàn ông trên vũng nước đọng, chỉ còn nghe tiếng lửa nổ ngắn ngủi đến chiều thì tắt hẳn và còn lại nắm tro tàn, xương trắng lẫn vào nhau. Hai người đàn ông cào, xúc đổ vào ba bao cát, không để lại một dấu vết nào nơi đó mà chỉ thấy một khoảnh đất đen còn hơi ấm. Gió rừng xông tới để quét sạch những tàn tro vừa mới hỏa thiêu.

Tới suối Triện rải hết xương cốt cho dòng nước cuốn ra biển. Người ta kéo đến tiễn đưa Xiên về với chân mây trên đất nước xứ Hà-Mông.Chiều xuống;Triện nhìn dòng nước uốn quanh mà đau nỗi nhớ ./.

 

 

VÕ CÔNG LIÊM  (ca.ab.yyc. đầu tháng 8/2017)

Kommentar schreiben

Kommentare: 0

 

Một Kiếp Người

 

Anh đã cho em nửa cuộc đời

Cho con phân nửa của phần tôi

Phần tôi phân nửa, phần phân nửa

Cho thơ làm tựa viết thành lời

 

Thế là, tôi đã cho, cho hết

Xin người, thơ phú chớ phụ tôi

Ngày mai khi trở về cát bụi

Bia tôi xin tạc  "Một Kiếp Người" .

 

Thủy Điền