CHU VƯƠNG MIỆN
VIẾT VỀ BÀ CHÚA THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
Chu Vương Miện
Vài hàng về Chu Vương Miện
Tên thật Nguyễn Văn
Thưởng
Bút hiệu khác Phương
Hoa Sử
Sinh ngày 21-11-1941
tại Phục Lễ, Thủy Nguyên, Kiến An .
Vào Nam năm
1954.
Từng theo học tại
trường Trung Học Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi…
Từ 1962 đến 1966 : Hạ
sĩ quan trừ bị ngành truyền tin
Năm 1966 : Giải ngũ –
Công chức hành chánh
Đến Hoa Kỳ năm
1984.
Bắt đầu cầm bút từ đầu
thập niên 1960, tác phẩm đăng trên nhiều Tạp chí tại Sài Gòn: Thời Nay, Bách Khoa, Văn Học, Tiền Phong…
TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN
:
Ðêm Ðen Hai Mươi Tuổi
(1964)
Tiếng Hát Việt Nam
(1965)
Trường Ca Việt Nam
(1966)
Phía Mặt Trời Mọc
(1968)
Ðất Nước
(1987)
Văn Học Dân Gian
(1988)
Tác Phẩm, Tác Giả
(1988)
Bằng Hữu
(1987).
• NHỮNG VÒNG HOA MUỘN
Kính Viếng Nữ Thi Hào
Hồ Xuân Hương
Viết xong ngày… min
nớp xăng cà cộ.
Nguyễn hương
sư…
Xã Khê Chanh, tổng Hà
Bắc, quận Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên.
Ghi
chú:
Nội tổ chúng tôi cách
đây 6 đời có giao tình với thầy tổng Cóc và được thầy Tổng Cóc nhờ soạn dùm cho thầy “một khúc tâm tình” với nữ thi hào Hồ Xuân Hương, nội dung thời thầy tổng Cóc kể và nội tổ chúng tôi nghe
xong thời chuyển thành văn vần (bằng chữ Nôm) gồm một số đoạn làm chơi không nhận thù lao, một bản viết tay duy nhất, sau đến đời con của thầy tổng Cóc đọc qua thấy quá vớ vẩn và rất là không
cần thiết hữu dụng để lưu chiểu, nên mang tập di cảo này trao lại cho đời sau của nội tổ chúng tôi. Truyền đời cũng gần 200 năm, vì là chữ Nôm nên trong gia đình chúng tôi rât ít người đọc
được (không rõ là đơn thuốc hay văn tự điền địa) nay đang trong tình trạng chờ việc làm, chúng tôi mang di cảo này chuyển từ tiếng Nôm qua chữ Quốc ngữ và có hiệu đính lại cho dễ hiểu. Trước
là hiểu thêm về mối chân tình của thầy Tổng Cóc với nữ thi hào Hồ Xuân Hương để đời sau hưỡn thì đọc chơi. Còn chuyện chuyển ngữ từ Nôm qua Quốc ngữ chỉ là chuyện nhỏ, không đáng bàn
tới.
Vô Môn Chủ
Nhân
lò mía đường Trấn
Biên
Tiết mạnh đông, năm Ất
Dậu (1945)
GHEN TUÔNG
(Bản tin dán ở Cổ nguyệt đường theo lời kể lại của thầy Tổng Cóc)
buổi sáng lên huyện
đường
nộp thuế đinh thuế
điền cùng tiền hối lộ
quan phân tri nửa
Lê nửa Tây Sơn
kẻ bảo đứng kẻ bảo
về kẻ bảo ngồi lên ghế
uống một chung trà
Thái Đức
rồi cáo lui lên
ngựa ra roi
đến cổng nhà thời
thấy tờ hoa tiên
dán trên tường
gạch
“hỡi chàng
ơi
thiếp bén duyên
chàng có thế thôi
nòng nọc đứt đuôi
từ đây nhé
nghìn vàng khôn
chuộc dấu bôi vôi”
vừa đi vừa dẫn ngựa
vừa rã rời
nhà trước nhà sau
vắng hơn chùa Bà Đanh
cất tờ giấy đưa
ngựa bỏ vào tàu
uống bát trà vối đi
ra thủy tạ đình
thiệt đúng là ngẫu
lục tang thương
bà cả nằm thẳng
cẳng giữa cầu váy tốc
bà hai nằm xấp đầu
ngoi xuống nước
bên cạnh là hai con
dao phay
bên cạnh dao phay
là cặp dùi đục
tên mặt hồ bản thảo
đoạn trường tân thanh
cùng cung oán ngâm
khúc
của Nguyễn Gia
Thiều và Nguyễn Tiên Điền
dưới chân cầu là
thủ bút Chiêu Hổ Tốn Phong
tranh Vương Duy
giấy hoa tiên bút lông thỏ
cá dồ cá lóc cá
trầu liên miên đớp
nhà thủy tạ tan
tành xí quách
trơ ra toàn là
tranh vụn và cây?
mà thi hào Hồ Xuân
Hương chẳng còn đây?
chắc cũng đã theo
mây ngàn hạc nội
ta Tổng Cóc vốn vô
tình vô tội
cây ngay đứng thẳng
ở giữa trời?
xin bà chúa thơ Nôm
xá tội cho tôi
thứ ếch nhái nằm
trong đáy giếng !
ta có trái tim tấm
lòng nhưng không có miệng
trái phải tình đời
không dám nói ra !
thôi thiên tài xí
xóa cho qua
trách làm chi ? bọn
phàm phu tục tử
ta bất hạnh vô
duyên cùng thục nữ
gửi nơi đây, thâm
tạ một mối tình!
GHI THEO LỜI KỂ CỦA NGƯỜI BỎ GIÀ
sáng
7 giờ thầy vừa leo ngựa
con
cũng vừa uống sữa cà phê
bà
ba ngồi thưởng thức trà
thiết
quan âm trong ấm pha ngọc bội
thế
rồi tự dưng phong ba cơn gió nổi
bà
cả thời hai tay hai dùi đục
bà
hai thời hai tay hai dao phay
bà
ba thấy động nhẩy ra thủy tạ ngay
cuộn
bức tranh Vương Duy làm Thái a kiếm
thế
là alaxô ba bà nhẩy vào cuộcchiến
hai
chọi một, bà ba lưỡng đầu thọ địch
kẻ
trước người sau kẻ dao người đục
võ
rừng võ tự do võ giang hồ!
đánh
chả bao nhiêu mà miệng mở thật to
toàn
võ nói võ mồm và võ chửi
một
tay cầm guốc một tay cầm tranh đỡ lại
bà
cả vô tình quại một đục vào đầu bà hai
bà
hai tá hỏa tam tinh gục xuống nằm dài
khi
không bị loại ra ngoài trận đánh
bà
cả thừa thắng xông lên
phang
một đục ngay vào ngao thuốc phiện
cùng
bàn đèn dọc tẩu rớt xuống ao
Hồ
Xuân Hương lấy thế tựa hàng rào
làm
một cước cuối cùng trong thảo ngọc trản
bà
cả trúng đòn vào lưng nằm thẳng cẳng
gió
vô tình thổi ngược tốc váy lên
thi
hào tài hoa nhìn lại hiện trường
kẻ
bị thương kẻ nằm rũ liệt
tam
thập lục kế tẩu vi thượng sách
thôi
thơ văn nhảm nhí xướng hoạ quẳng xuống ao
với
bút nghiên giấy hoa tiên trộn lẫn rong bèo
thời
loạn lạc thơ văn dùng chùi bếp
thôi
Tổng Cóc không ly mà biệt
nếu
còn duyên còn nợ hẹn kiếp sau!
ôi
đồng tiền đáng giá (nhưng mua được tình đâu?)
ngồi
nhắm rượu nhâm nhi mà nghĩ lại
đâu
có phải Nguyễn Trãi Phi Khanh
mà
khóc ngoài quan ải?
THƯ GỬI BÀ CHÚA THƠ NÔM
hôm
về đến nhà thì bà Chúa thơ nôm dông mất
Cóc
đi lòngvòng trong nhà rồi lại ra sân
đến
bờ hồ nhìn cầu thủy tạ phát run
cô
hai vỡ đầu nằm vắt ngang mà thác
cô
cả nằm quay cu đơ váy thời tốc ngược
trúng
cú đá của võ Tây Sơn thảo ngọc trản
uyên
ương cước trúng lưng
văn
phòng tứ bảo rời rạc lung tung
thứ
trên sàn thủy tạ thứ lềnh bềnh mặt nước
Cóc
ngồi bên xác hai người liền bà mà không dám khóc
bà
chúa thơ nôm anh em thúc bá với chúa Tây Sơn
nên
dù mồm năm miệng mười, Cóc im hơn thóc
thôi
sống gửi thác về, chết thì đã chết!
đành
mang tẩm liệm ma chay
đánh
hụt đâu chả đánh đánh trúng vào mang tai
thế
là vận xui đi cả cặp
chả
phải rắn, chả phải đèn cầy ?
mà
giống vung với nồi đất
sống
ghen tuông mà chết có đôi
chôn
cất xong vài năm CảnhThịnh cũng xong đời
Gia
Long đi một lèo thống nhất
Cóc
là chánh tổng đi tù cái một
đếm
lịch vạn niên đếm tới đếm lui
16
năm sau Minh Mạng nối ngôi
Cóc
được ân xá tha về nguyên quán
nhà
không, tiền không, vợ con cũng không!
Cóc
đành làm nghề hoạn lợn
hoạn
mấy năm càng ngày càng thấy ớn
nên
chuyển ngành buôn và vá nồi đồng
thiên
hạ bốn vùng nam bắc tây đông
gánh
hai cần xé vừa nồi niêu xoong chảo
trời
mưa nắng bữa cơm bữa cháo
lúc
trở trời bữa đói bữa no
chỉ
rất chán cái đời là không được nghe ngâm thơ
không
được đánh cờ người những đêm thanh vắng
chả
ăn ớt hiểm (chả ngậm trái bồ hòn)
và
vẫn cay với đắng
lâu
lâu có ghé Cổ nguyệt đường mấy bận
nhà
cũng không, mà người thất tán nơi nao?
phường
Thụy Khê, đường Cổ Ngư phơ phất mấy dẫy đào
toàn
một thứ đào cây đào lá
còn
đào của ta trăm phương nghìn ngả
biết
tìm nàng thơ tìm ở nơi đâu?
bên
Tàu có Tiêu Tương giang có vĩ có đầu
đây
không sông lấy gì mà cố
kinh
nhà Phật câu đầu “vạn sự khổ”
ta
lớp ba trường làng ấm ớ ương ương
thời
binh biến chó đớp nhằm ruồi làm chánh tổng
giống
cậu bé lên ba làng Phù Đổng
vươn
vai một cái cưỡi ngựa cầm quân
mà
ôi thôi toàn bé cái lầm
làm
quan – làm thiến heo thời cũng vậy
thư
này là từ đáy lòng “thứ thiệt” Cóc phô ra đấy
vậy
Xuân Hương đọc xong cảm động xin về
Cóc
nguyện từ bây giờ một thiếp không thê
để
lúc trăng thanh gió mát
mình
làm thơ xướng họa
Cóc
có sắm cần câu chúng mình đi câu cá
ở
hồ Trúc Bạch, hồ Ngọc Sơn
để
lâu lâu ghé lại Cổ nguyệt đường
nhìn
cơ ngơi chìm xuống Hồ Tây mất hút
thư
quá dài viết càng nhiều
(càng
mau rơi nước mắt)
SẮC SẮC LẠI ZÉRO ZÉRO (năm 1822)
đời lên voi xuống
chó là chuyện vặt
khi
giầu nằm trên phản khi nghèo nằm dưới đất
nằm
giường nằm võng ngồi thức đêm?
người
học hành chữ nghĩa đọc (dưới mái Tây hiên)
người
bình dân hát hò văn chương truyền khẩu
có
những thầy khóa thi hoài chả đậu
thành
tú mềm tú kép tú đơn
có
thầy làm nghề dậy trẻ thầy thuốc thầy bói thầy đờn
có
thầy hát chầu văn để lên hầu bóng
ta
cũng nhà nghèo tổ tiên cày ruộng
tích
đức để đời bắt ốc mò cua
cuối
triều Lê giặc nổi bốn mùa
giặc
trong có kiêu binh tam phủ
giặc
ngoài thì bủa xua cả đàn cả lũ
lớp
theo quận he Nguyễn Hữu Cầu
rồi
Tây Sơn ra bắc loạn ngập đầu!
hết
Đinh Tích Nhưỡng lại phe Nguyễn Hữu Chỉnh
cõng
rắn cắn gà nhà đón Tôn Sĩ Nghị, Sầm Nghi Đống
rồi
tri phủ Điền Châu là Hứa Thế Hanh
vào
ra như chốn không người chốn Thăng Long
dân
đen lê dân vô cùng gian khổ
góp
bao nhiêu gió thành cơn bão tố
nào
Long Nhượng tướng quân, nào VũvănNhậm
Ngô
Thời Nhậm, Ngô Văn Sở
nào
chiến đoàn voi chiến đoàn ngựa uy hùng
có
mấy ngày xuân dẹp hết lũ giặcThanh
gò
Đống Đa xương thù phơi thành bãi!
chưa
yên được mấy năm Gia Long đánh lại
lại
máu xương Nam Bắc đổ ra
năm
1802 thống nhất sơn hà.
ta
kéo thân tù gần 18 năm chẵn
xưa
ngủ chung với giai nhân giờ ngủ chung với rệp rận
ngẫm
cho cùng cũng chả có chi vui!
tù
từ vua cha (vua con đăng cơ thả ra ngoài)
lại
tự do thêm vài năm nữa
ta
hỏi thăm Cổ nguyệt đuờng không ai biết cả
chỉ
mơ hồ rằng nương tử đi tu
ta
từ đế đô xuống Hải Dương đi qua Nam Sách
mua
gói xôi mấy bánh đậu xanh, bánh khảo kẹp nách
vừa
đi vừa ăn đến sông Phú Lương
hỏi
thăm đường đến được chân núi Bạch Vân Sơn
bây
giờ gọi nôm na là Yên Tử
dẫy
núi vòng cung của huyện thành Uông Bí
leo
qua trọn núi là tỉnh Bắc Giang
nương
tử tu thành sư bà ở chùa Giải Oan
suốt
ngày ngoài hai bữa ăn ngồi diện bích
vô
cảm vô niệm vô giác (không tiếp khách)
có
gì đâu, đời tứ đại giai không!
Cóc
ngồi uống trà mạn ngoài cổng tam quan
nhìn
vào Phật đường rưng rưng nước mắt
một
người Phật gia, một người trần tục
có
cũng như không, có để làm gì?
chiếc
áo nâu sồng quẳng gánh lo đi
theo
chiếc lá cuối mùa rơi về gốc
ta
đâu có nghĩ ta là tổng Cóc
tóc
bạc phơ ngồi ở trước ngôi chùa
nghe
hồi chuông thu không vừa tỉnh vừa mơ
rất
lỡ cỡ giữa bến đò bến giác
rất
phân vân vàng giả và vàng thật
rất
nát lòng vì cuộc sống phù du
nương
tử ơi nàng cứ vậy mà tu
không
thơ văn xướng họa có khi thành chánh quả
ta
lục dục thất tình trong lòng nhiều quá
lại
tham sân si nặng bụng quá nhiều
bao
tội tình cũng chỉ tại vì yêu
nếu
bỏ được dễ đi tìm cõi phúc
bao
nhiêu nạn trút lên đầu tổng Cóc
trả
kiềp này không hết trả kiếp sau
Hồ
Xuân Hương, gặp nhau nữa, ở kiếp nào?
NƠI AN NGHỈ CUỐI CÙNG
(của bà chúa thơ nôm)
nàng
nằm an dưỡng nơi non sông cẩm tú
địa
linh nhân kiệt cõi Lĩnh Nam
ngay
chân núi Voi (Yên Tử sơn)
bên
phải dẫy núi vòm cung Đông Triều Chợ Cột
có
chùa Quỳnh Lâm ngang ngang dăm tháp
leo
qua núi đến Lạng Sơn Bắc Giang
đi
đường bằng đến thị xã Hải Dương
lên
phía bắc ráp ranh Trung Quốc
đất
đai này phần dã miền đông bắc
xuôi
về nam Hải Phòng Kiến An
thuốc
lào Tiên Lãng Vĩnh Bảo hút thả dàn
hút
cho đã nằm ngay đơ cán gáo
cải
táng (xây mồ dựng bia cho phải đạo)
vừa
tình người tình đất núi và non?
trên
đỉnh Bạch Vân Sơn nhìn qua Ngũ Lĩnh
11
chùa, hàng trăm am chùa Đồng ở trên đỉnh
cao
trọc trời cơ ngơi Thiền Trúc lâm
mấy
trăm năm các vua nhà Trần
về
an dưỡng hưởng phước trời phước Phật
cửa
ông vịnh Bái Tử Long bốn mùa xanh mướt
lui
đường xuôi Hòn Gai vạ cháy
bển
lài lài nhìn chóa mặt vịnh Hạ Long
nàng
ngơi nơi đây? trời đất đồng rừng
đúng
bà Chúa thơ nôm một mình một cõi
nơi
quê hương anh hùng Trần Quốc Tuấn
Trần
Quốc Tảng, Trần Quang Khải
tên
chữ xa xưa là Quảng An Châu
ở
chốn này nhìn qua xã Quỳnh Lâu
là
nơi sau này nhân tài lắm lắm
bên
trái hoành bồ bên phải mạo khê tràng bạch
một
phần đời nửa khí khái nửa đàohoa
phước
mỏng tài hèn tổng Cóc là ta?
chút
nhang khói quanh năm bốn mùa có cả
bão
than lộ thiên ở ngoài Cẩm Phả
nơi
cơ ngơi tổng Cóc buổi xế chiều?
Một
thời để chết một thời để yêu?
mà
thời nào cũng là lộnxộn
với
tấm thân tình (với lòng kính cẩn)
xin
gửi nơi đây một mối chân thành
giữa
đất cùng trời giữa núi cùng sông
(Tổng
Cóc và gia đình gồm:
Ếch,
Nháibén , Chão chàng , Chãochuộc ,
Ễnh
ương , Bù tọt và Nòng Nọc)
MÂY BAY NGÀN NĂM
núi
Voi vẫn còn đó
chùa
Giải Oan nơi đâu?
mây
bay càng xuống thấp?
dẫy
Đông Triều xiêu xiêu
ngôi
mộ không còn nữa?
chung
quanh một rừng lau
Nguyễn
Du ngơi trong đất
Tốn
Phong sống ra sao?
nắm
xương Trần Phúc Hiển
gửi
dưới cội hoa đào?
còn
mỗi ta sống sót
bồng
bềnh bèo trên ao?
chuyện
ngàn năm mây bay
đó
là chuyện thường ngày
toàn
là rau với cháo
con
trâu bò chiếc cày!
làm
người thời phải chết
không
trước thời cũng sau?
bà
Chúa thơ nôm hỡi
bây
giờ nàng nơi nao?
Nguyệt
Đường chìm đáy nước
Hồ
Tây sóng dạt dào
VĂN TẾ BÀ CHÚA THƠ NÔM
(Làm theo thể tán)
sông
một giòng
núi
một trái
một
thi xã Cổ nguyệt đường
nằm
mấp mé Hồ Tây
(gần
Hồ Gươm)
rượu
một chung
xôi
một đĩa
trà
một ly
nhớ
linh xưa
thói
thường tử biệt sinh ly
(sinh
ký tử qui)
ngàn
năm mây vẫn trắng
thênh
thang mấy cõi đi về ?
những
bài thanh tục
rạng
ngời bà chúa thơ
CHU VƯƠNG MIỆN
Kommentar schreiben