*CT 10- Đọc Ngũ Ngôn Tình Thơ Trần Mai Ngân (Lời Bình) Nhà Thơ Châu Thạch (Đà Nẵng- VN)

 

Nhà Thơ Châu Thạch

 

 

Ảnh Nhà Thơ Trần Mai Ngân

 

ĐỌC “NGŨ NGÔN TÌNH”

THƠ TRẦN MAI NGÂN.

                  Châu Thạch

NGŨ NGÔN TÌNH

Ngày không mưa không nắng

Tôi chẳng vui chẳng buồn

Thời gian không gian...lặng

Một nhịp sầu đang tuôn!

Mây không trôi dừng lại

Im ắng trắng tinh khôi

Lời xa xôi không nói

Có nói cũng vậy thôi!

Ngày không Đông không Hạ

Sao sốt lạnh trong ta

Mấy cánh hoa giã biệt

Bỗng thành người lạ xa...

Thoáng mây mưa đã qua

Hai bàn tay rỗng tuếch

Bám tìm vào không trung

Tưởng mộng cũ trùng phùng...

                   Trần Mai Ngân

                      27-11-2017

Cảm nhận của Châu Thạch:

Trước hết, đọc cài đầu đề của bài thơ là “Ngũ Ngôn Tình” cho ta hiểu đây là thứ ngôn ngữ của tình yêu. “Ngũ Ngôn Tình” hiểu theo nghĩa hẹp là bài thơ sáng tác theo thể ngũ ngôn (năm chữ) nói về tình yêu. “Ngũ Ngôn Tình” hiểu theo nghĩa rộng là 5 thứ ngôn ngữ có trong kho báu của tâm hồn để hai người yêu nhau đem tặng nhau và làm giàu lâu đài tình ái của mình. Lời nói yêu thương, quà tặng ý nghĩa, thời gian cho nhau, hành động cao thượng và cử chỉ trao nhau là 5 ngôn ngữ tình yêu cần và đủ để cuộc tình thăng hoa mà các nhà nghiên cứu đã rút ra từ kinh nghiệm tình trường, qua bao nhiêu thế hệ con người.

Nhà thơ Trần Mai Ngân trong ẩn ý, muốn đề cập đến ngôn ngữ đó trong quá khứ cuộc tình, thứ ngôn ngữ mà không thể lấy “tam đoạn luận” để hiểu nó được. Cho nên khi đọc thơ “Ngũ Ngôn Tình Yêu” ta cũng không thể đi vào thơ bằng cái suy luận “Tam Đoạn”, thứ cơ bản mà thầy đã khai trí khi ta còn ấu trỉ mới tập tò học triết.

Thật vậy, đọc khổ đầu bài thơ, dễ có kẻ đã phản đối vì chưa cảm thụ được cái hay của “Ngũ Ngôn Tình”:  

Ngày không mưa không nắng

Tôi chẳng vui chẳng buồn

Thời gian không gian...lặng

Một nhịp sầu đang tuôn!

Có người đánh dấu hỏi ngay vào câu thơ “Một nhịp sầu đang tuôn!”. Họ sẽ hỏi rằng:  Tâm trạng  người thơ lúc ấy ”chẳng vui, chẳng buồn” sao lại cảm nhận được “Có một nhịp sầu đang tuôn!”. Họ sẽ lý luận rắng: “Tôi đã vô cảm ,không buồn không vui, thế thì theo “tam đoạn luận” mọi vật quanh tôi sẽ cũng không buồn, không vui như tôi.”

Để  giải thích cho hợp lý câu hỏi trên, trước hết ta phải hiểu với nhau rằng, “chẳng vui, chẳng buồn” không phải là vô cảm. “ chẳng vui chẳng buồn” là tâm trạng xảy ra giữa sự buồn và sự vui mà thôi. Khi Kiều ngồi trước Lầu Ngưng Bích, nàng nhớ cha mẹ, nhớ người tình, buồn cho tấm thân của mình đến độ ngồi trên cao mà nàng nghe “Ầm ầm tiếng sóng kếu quanh ghế ngồi”. Lúc đó mới chính là lúc Kiều  như ngất đi và trở thành vô cảm.

Ngược lại khi Kiều chẳng vui chẳng buồn, đàn cho khách chơi hoa nghe thì nàng không thấy hứng thú gì, nhưng sự cảm nhận thế giới chung quanh  thì không mất được.

Ta hãy nghe một lần  Bùi Giáng trong tâm trạng chẳng vui  chẳng buồn:

Mùa xuân lại với chim về đã mỏi

Với cá về mây nước cũng lang thang

Anh nằm im nhắm con mắt mơ màng

Mở con mắt cũng mơ màng cỏ lá.

    (Không đủ gọi)

Có phải chăng nhắm con mắt hay mở con mắt nhà thơ đều mơ màng, có nghĩa là nhà thơ đang chìm trong tâm trạng “chẳng vui chẳng buồn”. Thế nhưng  Bùi Giáng vẫn nghe được “Mùa xuân lại với chim về đã mỏi” và “Với cá về mây nước cũng lang thang”. Phải chăng những điều đó là “một nhịp sầu đang tuôn” mà Trần Mai Ngân cũng như Bùi Giáng, đã nghe ở trong không gian và trong cả thời gian , nhưng Trần Mai Ngân đã diễn đạt trong thơ mình một cách khác mà thôi.

“Chẳng vui chẳng buồn” có khi là lúc tâm hồn trống rổng nhưng cũng có khi là lúc tâm hồn bình an nhất. Các nhà sư thiền định,  khi họ “chẳng vui chẳng buồn” là đã đạt được  sự bình an, tâm tư lắng đọng, không bị cảnh bên ngoài chi phối, vượt lên sự buồn vui thường tình, thực sự vững chắc an trú trong trong hạnh phúc tỉnh lạc của mình. Lúc đó nếu ta nói các thiền sư “chẳng vui chẳng buồn” là vô cảm thì xin lỗi, phải nói nặng một câu là “tư duy còn ngắn”. Ai cũng biết rằng Phật và các vị Bồ Tát rong chơi trong cõi Thường Hằng, họ “chẳng vui chẳng buồn” nhưng họ vẫn nghe  “một nhịp sầu đang tuôn” trong cõi ta bà của nhân loại trong từng phút từng giây.

Tất nhiên người viết bài nầy không bao giờ dám dùng cái tâm trạng “chẳng vui chẳng buồn” của Trần Mai Ngân đề so với các bậc tu hành. Thế nhưng  chủ ý của người viết là đem các vị ấy ra để minh chứng cho khổ thơ “Ngày không đông không hạ/ Tôi chẳng vui chẳng buồn/Thời gian không gian … lặng/Một nhịp sầu đang tuôn” là một khổ thơ hay, đặt cảm xúc ngưng tụ giữa vui buồn của nội tâm mình một cách hợp lý trong  cuộc tình sầu dài năm tháng,  dài như dòng sông tuôn chảy lặng lờ qua bao thế kỷ mà người thơ luôn nghe trong tận cùng tâm cảm của mình dầu đã đóng cả cửa tâm hồn mình lại.

Qua hai khổ thơ sau, nhà thơ Trần Mai Ngân thổ lộ rõ hơn nữa, cái “chẳng vui chẳng buồn” chính  là sự hờn giận, trách móc chất chứa trong tim yêu nhiều, yêu lắm. Ta hiểu thêm, “chẳng vui chẳng buồn”  là một cách nói ý nhị của nguời con gái đã  yêu và yêu sâu đậm:

Mây không trôi dừng lại

Im ắng trắng tinh khôi

Lời xa xôi không nói

Có nói cũng vậy thôi!

Ngày không Đông không Hạ

Sao sốt lạnh trong ta

Mấy cánh hoa giã biệt

Bỗng thành người lạ xa...

Có người lấy câu thơ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của Nguyễn Du để trách Trần Mai Ngân đã nghịch lý khi thổ lộ mình  chẳng buồn chẳng vui mà lại đế cảm xúc tràn lên trong mỗi câu thơ.

Người hiểu như thế thì chưa thấu đáo sự tác động khác nhau giữa tâm hồn ra ngoại cảnh và ngoại cảnh vào tâm hồn. .

Khi viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Nguyễn Du chỉ đề cập đến tâm trạng của người tác động vào mắt mình khi nhìn ngoại cảnh. Thế nhưng có khi nhờ cảnh làm cho người buồn hóa vui mà cũng có khi tại cảnh làm cho người vui hóa buồn. Ở câu thơ trên Nguyễn Du chỉ đề cập đến cảnh bị thụ động bởi tâm trạng người. Ngược lại tâm trạng người bị thụ động bởi cảnh thuộc về một vế khác mà Nguyễn Du không đề cập đến. 

Ở bài thơ nầy Trần Mai Ngân viết “Ngày không mưa không nắng”, “Mây không trôi dừng lại”, “Ngày không đông không hạ” làm cho nhà thơ nghe “Có một nhịp sầu đang tuôn” và thấy “”Hai bàn tay rỗng tuếch” là đem cảnh tác động vào tâm hồn người, nghĩa là tâm trạng người bị thụ động bởi cảnh, khác với việc người buồn làm cảnh buồn theo. Thế nhưng dầu tác động từ trong lòng ra hay từ ngoại cảnh vào thì nhân vật trong thơ cũng đã có sẳn nỗi ưu tư trong lòng, từ đó cảnh sẽ sinh tình, cho nên khi “Ngày không mưa không nắng” đã làm cho “Tôi chẳng vui chẳng buồn”.

 

Nhà thơ La Thụy đã nói: “Thơ có những cái nghịch mà Hàn Mạc Tử khi viết bài Tình Quê “Gió chiều quên ngừng lại/ Dòng nước luôn trôi đi/ Ngàn lau không tiếng nói/ Lòng anh dường đê mê”. Khi “gió chiều quên ngừng lại” thì làm sao “ngàn lau không tiếng nói được”.

Nếu đem “Tam đoạn luận” vào đây để bình, có lẽ Hàn Mạc Tử bi ném đá là nhà thơ ngớ ngẩn chăng? Hay là người dùng thứ tam đoạn luận đã nhầm?  

Nhà thơ La Thụy viết thêm:”Thơ viết bằng tâm cảm, thể hiện tâm cảnh”.

Hiểu như thế ta sẽ thấy rằng Trần Mai Ngân  đã hòa nhập tâm cảm của mình trong tâm cảnh của vạn vật, cho  tất cả đều ngưng tụ lại bên tình yêu, nhưng tình yêu ấy không ngưng tụ, nó như dòng sông buồn vẫn tuôn chảy tháng năm.

Khi ta đứng bên dòng sông nào đó, để tâm hồn lắng đọng cùng với vạn vật yên bình, ta sẽ hiểu câu thơ của Trần Mai Ngân  bằng tâm cảm của ta, thì sẽ thấy rằng câu thơ vô cùng tuyệt mỹ.  

Ở khổ thơ chót, vẫn trong tâm trạng không vui không buồn, Trần Mai Ngân đã sống lại với quá khứ bằng một mơ ước rất hảo huyền:

Thoáng mây mưa đã qua

Hai bàn tay rỗng tuếch

Bám tìm vào không trung

Tưởng mộng cũ trùng phùng...

Chỉ “Mộng cũ trùng phùng thôi” còn tình cũ chắc không bao giờ quay lại!

Nhà thơ đã tìm trong cái mông lung vô định của không trung và bám vào đó bằng đôi bàn tay rỗng tuếch của mình.

Đọc như thế mỗi chúng ta đều hiểu được ý thật của câu nói “Tôi chẳng vui chẳng buồn”.

Trần Mai Ngân nói “Tôi chẳng vui chẳng buồn” bởi vì người ấy đã “Lời xa xôi không nói”, “Mấy cánh hoa giã biệt/Bổng thành người xa lạ”. Đây là lời của một kẻ muốn đóng con tim nhưng con tim lại cứ nghịch với mình. Con tim ấy cứ mở ra cho dỗi hơn thổn thức, cho nỗi đau làm vạn vật ngưng lại trong tâm cảm mình, nhưng thực ra mọi vật vẫn vận hành và con tim thì tê tái, vì thế nó mới thành thơ “Ngũ Ngôn Tình” được.

Bài thơ ngũ ngôn của Trần Mai Ngân tất nhiên không để ca tụng thứ ngũ ngôn tình theo nghĩa làm thăng hoa cho những mối tình trai gái, Thế nhưng nếu cuộc tình không được thụ hưởng thứ ngôn ngữ tình thăng hoa đó, thì không khi nào nó biến thành một bài thơ được. Trần Mai Ngân đã dùng bài thơ ngũ ngôn (5 chữ) để nói về cuộc tình có đầy đủ năm ngôn ngữ của tình ở một thuở nào đó mà nay đã mất đi.

Bài thơ được viết sâu nhiệm trong những ẩn dụ, bằng những ngôn từ tiềm tàng tri thức, tưởng như người thơ đóng hết ngũ quan lại nhưng thật sự mở ra bằng ngôn ngữ tình thơ vô vàn cảm xúc và đầy ý nghĩa muôn đời.

 

Châu Thạch

Kommentar schreiben

Kommentare: 2
  • #1

    Nguyen Lac (Dienstag, 04 Juni 2019 23:59)

    Xin được vài hàng góp ý bài này- Đã post trên BK va VNQT
    Tác giả phê bình thơ thì lo phê bình thơ, còn lôi người khác vào làm gì, dùng những lời "khía cạnh" để "hạ nhục" người .Giỏi là tự mình ngoi lên chứ đừng đạp người xuống cho mình cao hơn. Tôi biết ông này để cập tới tôi, Nguyên Lạc vì có liên quan đến Trần Mai Ngân (thi sĩ mà tôi chỉ viết lời comment vui với ý xây dựng chứ không phải một bài viết phê bình), Luận đề "Tam Đoạn Luận" và góp ý của nhà thơ La Thụy.
    1. Trược hết xin nói rõ: Comment đến Thi sĩ TMN chỉ vui và xây dựng, không phải là bài viết phê bình mà ông Châu Thạch lại "moi" cố tình "chụp lấy" để "phục thù". Để công tâm, mời các Facebooker đọc STT của tôi, nó cũng có xuất hiện trên trang FB của Phú Đoàn - La Thụy
    CÂU CHUYỆN VĂN CHƯƠNG VỀ TÍNH LOGIC TRONG THƠ
    https://www.facebook.com/stevngy50/posts/1456131857861167
    2. Sau đây tôi xin góp ý 2 trong rất nhiều điều "cần bàn lại" trong bài viết của Châu Thạch
    a. "Cho nên khi đọc thơ “Ngũ Ngôn Tình Yêu” ta cũng không thể đi vào thơ bằng cái suy luận “Tam Đoạn”, thứ cơ bản mà thầy đã khai trí khi ta còn ấu trỉ mới tập tò học Triết" - CT
    -- "...thứ cơ bản mà thầy đã khai trí khi ta còn ấu trỉ mới tập tò học Triết" - CT
    Tôi biết các chữ "khi ta còn ấu trỉ mới tập tò học Triết" là CT muốn "cạnh khóe" tôi. Xin CT cho biết lởp nào ta "mới tập tò học Triết" ?
    Nhớ trước 75, chỉ đến lớp Đệ nhất (12) mới bắt đầu học Triết: Tâm lý học và Luận Lý Học. Trong Luận Lý Học có dạy Tam Đoan Luận. Nền GD/XHCN thì chắc chắn là không có dạy nó, chỉ có dạy Chính Trị, ở đại học thì không biết sao.
    Ông CT có học Triết ở trung học không mà "cạnh khóe" là tôi "ấu trỉ"? Nhiều người đã nói với tôi, trong đó có cả nhà lão thành CVM rằng CT vừa đậu Tú Tài 1 là vào trường Sĩ quan Bộ binh Thủ Đức ngay, ra trường Chuẩn uý, đến 75 cấp bậc Đại uý, đâu có học đến lớp Đệ nhất.
    Để chứng minh CT có học Triết, rành Tam Đoạn Luận, để người ta không cho là NÓI DỐC, xin ông đưa ra chứng chỉ hay băng̀̀ cấp lớp Đệ nhất- Tú tài 2. Nếu ông không đưa ra thì những điều ông nói từ đây về sau chẳng ai tin nữa.
    À mà lạ, Đ/u mà sao không đi HO qua Mỹ ông? Không có "học tập cải taọ"? Gia đình có công CM?

    b. "Lúc đó nếu ta nói các thiền sư “chẳng vui chẳng buồn” là vô cảm thì xin lỗi, phải nói nặng một câu là “tư duy còn ngắn”
    Ai cũng biết rằng Phật và các vị Bồ Tát rong chơi trong cõi Thường Hằng, họ “chẳng vui chẳng buồn” nhưng họ vẫn nghe “một nhịp sầu đang tuôn” trong cõi ta bà của nhân loại trong từng phút từng giây"- CT
    -- Tôi biết “tư duy còn ngắn” là ông ám chỉ tôi. Xin vài lời cùng ông:
    Nếu tôi không phải là tín đồ Chúa, tôi không thể hiểu rõ về "đạo pháp Chúa" thì tôi không dám nói về đạo pháp này. Nếu tôi không phải là tín đồ Phật, nghiên cứu rành Phật pháp, thì tôi không dám nói về Phật pháp. Không rành Phật pháp mà giảng Phật thì người ta cười cho.
    c. - Chúa đã dạy BÁC ÁI và tôi thấy ông thường giảng đạo Chúa trên FB, nhớ đừng làm ngược lời Chúa
    Vài hàng cùng ông. Trân trọng

  • #2

    Nguyen Lac (Mittwoch, 05 Juni 2019 12:11)

    Hôm qua tôi đã nói: "Không rành Phật pháp mà giảng Phật thì người ta cười cho". Ông "khía cạnh" tôi “tư duy còn ngắn" về THIỀN, vậy tôi xin hỏi ông rành về THIỀN nào?
    - Bắc tông Đaị thừa -bánh xe lớn, đầy huyề bí - từ Đại Hán -Tăng Sán- phương Bắc vào VN
    - hay Nam tông - Nguyên thủy, Tiểu thừa, bánh xe nhỏ- từ hướng Nam lên
    - Thiền từ Thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi vào Việt Nam sau năm 582, ở tại chùa Pháp Vân Tự
    - Thiền từ Vô Ngôn Thông 759?-826, Năm 820, qua Việt Nam, ở tại chùa Kiến Sơ ngày nay thuộc Hà Nội, thành lập phái thiền Vô Ngôn Thông.
    - Hay là Thiề VN từ Thiền phái Trúc Lâm là một dòng thiền Việt Nam hình thành từ thời nhà Trần, do Vua Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm vốn là hiệu của Trần Nhân Tông
    Đó là nhưng dòng THIỀN, xin cho tôi biết rồi chê tôi “tư duy còn ngắn"
    Người xưa thường nói: "Biết thì nói, không biết thì dựa cột mà nghe" nói "tầm phào" tôi e... Chào ông

 

Một Kiếp Người

 

Anh đã cho em nửa cuộc đời

Cho con phân nửa của phần tôi

Phần tôi phân nửa, phần phân nửa

Cho thơ làm tựa viết thành lời

 

Thế là, tôi đã cho, cho hết

Xin người, thơ phú chớ phụ tôi

Ngày mai khi trở về cát bụi

Bia tôi xin tạc  "Một Kiếp Người" .

 

Thủy Điền