ĐƯỜNG DÀI

(THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN):

MỘT CHUYỆN TÌNH BUỒN ĐẸP

SAU LÚC HOÀNG HÔN

*

 ĐƯỜNG DÀI

- Yêu mến tặng Huyền Thương -

.

- Đừng mà.

Ở lại đi em

Ngoài kia

Trời đã buông rèm từ lâu.

.

- Chúng mình đến chẳng được đâu

Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì

Thôi thì cứ để em đi

Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân

Anh dù vì nghĩa, chả cần

ngó ngơ chi lũ dở đần dở khôn

Trái tim

sợ lắm bước dồn

Thôi.

Em về.

Kẻo lời đồn

khổ anh

Nhà nghèo

duyên phận mỏng manh

Em neo chữ nghĩa chữ tình với son

Anh dù chẳng vợ còn con

Cố chen em chỉ nước non phận hèn

Dằn lòng rồi cũng phải quen

Thôi.

Em về

kẻo

mờ đèn

phố xa

.

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Khăn đây

em quấn

Ngõ xa

đường dài.

*.

Hà Nội, đêm 13 tháng 05.2017

ĐẶNG XUÂN XUYẾN

LỜI BÌNH:

ĐƯỜNG DÀI, bài thơ mới nhất của Đặng Xuân Xuyến không dài nhưng đọc xong có cảm giác vừa đọc một chuyện tình buồn đẹp sau lúc hoàng hôn. Bài thơ chỉ có 3 lời thoại nhưng đã hiện lên đầy đủ không gian, thời gian, hoàn cảnh và tính cách nhân vật. Không gian là một nơi trong ngôi nhà của chàng trai, không quan tâm cụ thể đó là phòng khách, vườn hoa hay ban công hoặc nơi nào trong ngôi nhà đó. Thời gian là khoảng “Trời đã buông rèm từ lâu” nghĩa là sau lúc hoàng hôn và trời đã tối rồi. Nhân vật là một chàng trai với 2 lời thoại và một cô gái duy nhất chỉ có một lời. Không biết cô gái đến nhà chàng trai vào lúc nào và họ đã chuyện trò với nhau đã bao lâu, cũng không cần biết họ đã nói với nhau những gì bởi chuyện của trai gái với nhau từ nghìn đời nay đều là những chuyện đâu đâu, từ chuyện trên trời dưới biển đến chuyện thời tiết gió mưa, từ chuyện hoa trong vườn nhà đến cây ngoài đường phố, từ chuyện nỗi lòng mình đến chuyện nỗi lòng ai đó… nhưng tất cả đều huyền diệu muôn màu muôn vẻ diễm tình. Nhà thơ chắc cũng biết thế nên cũng đã không thừa chữ để viết dông dài.

Nhưng bây giờ hiển nhiên là hoàng hôn đã tắt vì “trời đã buông rèm từ lâu” và cô gái xem chừng tỏ ý muốn ra về khiến chàng trai vội vã van xin nằn nỉ:

- Đừng mà.

Ở lại đi em

Ngoài kia

Trời đã buông rèm từ lâu.

Cái hay trong câu nài nỉ này cho ta thấy, có thể cô gái đã nói, trời tối rồi, em về đây kẻo muộn. Nhưng chàng trai lại vin vào đó để bảo nàng: trời tối đã lâu rồi, em về làm gì, anh không muốn em trong “cảnh khuya thân gái dặm trường” nên anh mong “Ở lại đi em”!

Và chàng đã được cô gái trả lời:

Chúng mình đến chẳng được đâu

Anh còn khuấy sóng bể dâu làm gì

Một câu nói dấu bên trong một hơi thở nhẹ buồn báo hiệu những cảnh ngộ éo le của đôi lứa. Chúng mình không thể đến được với nhau đâu, anh bảo em ở lại cùng anh trong đêm nay có khác gì khuấy sóng bể dâu.

Và để chứng minh rằng mình nói đúng, cô gái lần lần nhắc chàng trai nhớ ra những cảnh ngộ éo le đó.

Trước hết, cô không ngần ngại tự bảo mình không còn trẻ trung gì nữa:

Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân

Hiểu theo cách nói của dân gian, hẳn cô đang chừng ba mươi tuổi và trong vòng 15 năm nữa trong cô sẽ không còn một nét xuân thì nào nữa. Thế thì ở lại đêm nay để rồi sẽ đến với nhau làm gì khi em đã là gái đang về già.

Và để làm rõ hơn cho lý do từ chối này, cô nói tiếp:

Anh dù vì nghĩa, chả cần

ngó ngơ chi lũ dở đần dở khôn

Trái tim

sợ lắm bước dồn

Thôi.

Em về.

Kẻo lời đồn

khổ anh

Em cảm ơn anh là người tình nghĩa, chả ngại gì miệng tiếng người đời với biết bao kẻ dở đần dở khôn nhưng em không muốn anh sẽ phải khổ vì những lời đồn đại thị phi không đẹp ấy.  

Là bạn gái của chàng trai, chắc cô gái đã biết có lần anh đã mượn thơ để nói rằng:

Sợ gì danh phận hư hao

Sợ gì thiên hạ trông vào nhỏ to

Sợ gì nhỉ? Chẳng phải lo!

Trai đơn gái lẻ … nhỏ to bằng thừa!

Và vì đã biết chàng là thế, cô phải nói ra luôn cái lý do nữa cho thêm sức nặng. Ấy là thân phận của cô:

Nhà nghèo 

duyên phận mỏng manh

Và thân phận của chàng:

Anh dù chẳng vợ còn con

Nên em biết anh yêu em và em cũng yêu anh. Nhưng cạp hai cảnh đó với nhau thì sao cho được. Vì vậy, em chỉ xin:

Em neo chữ nghĩa chữ tình với son

Vâng! Em xin nợ anh chữ nghĩa chữ tình và chữ sắt son. Nhưng em chỉ có thể cắm chặt những chữ ấy vào đáy lòng, không để cho nó trôi đi còn đến với anh thì không thể được, vì:

Cố chen em chỉ nước non phận hèn

Chen vào cuộc sống của anh, dù nay anh không còn người vợ cũ nữa nhưng còn con anh, làm thế khác nào phá vỡ sự bình yên trong ngôi nhà này, phá vỡ hạnh phúc con anh đang có và làm thế, khác nào tự em chuốc lấy cái phận hèn vào mình.

Dứt lời, cô gái quyết định:

Dằn lòng rồi cũng phải quen

Thôi.

Em về

kẻo

mờ đèn

phố xa

Không thấy có nước mắt nhưng câu thơ  có 8 tiếng mà xẻ ra thành 5 nhịp nghe nấc lên những tiếng nghẹn ngào khi cô gái dằn lòng mình để nói lời cuối và khi cô tự vẽ nên cái cảnh lạc lõng cô đơn buồn tủi của mình khi sẽ ra về trong cảnh “mờ đèn phố xa”.

Cách viết câu thơ 8 tiếng thành 5 dòng này có thể coi là một cách tân rất thành công của Đặng Xuân Xuyến về cách xẻ tiếng của câu thơ lục bát ra thành nhiều nhịp để diễn tả tâm trạng trữ tình của nhân vật trong thơ. Thành công này không chỉ một lần trong lời thoại của cô gái mà còn trong 2 lần lời thoại của chàng trai.

Nếu như khi nằn nì bạn gái đừng về, cả hai câu thơ chỉ bị cắt thành thành 4 nhịp:

- Đừng mà.

Ở lại đi em

Ngoài kia

Trời đã buông rèm từ lâu.

Thì trong lời thoại cuối, khi cô gái nhất quyết dằn lòng ra về, câu lục xẻ ra 3 nhịp và câu bát xẻ ra 4 nhịp

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Khăn đây

em quấn

Ngõ xa

đường dài

Khiến câu nói như mắc nghẹn trong cổ họng nhưng phải cố nói cho xong trong nỗi đau đành khoanh tay đón chịu duyên phận và nghĩ tới cảnh người con gái mình yêu sẽ lầm lụi ra về mà không thể làm gì hơn một việc là chỉ đưa một chiếc khăn để nàng quấn cho đỡ lạnh trên ngõ xa đường dài trong khi chính chàng đang thấy lòng mình tràn ngập hơi lạnh giá ở trong căn phòng sắp vắng bóng nàng, đúng như cảnh trong thơ Thế Lữ từ thế kỷ trước:

Ai lau nước mắt cô mình?

Dưới đây duy có một mình ta thôi.

Cầm khăn lòng những bồi hồi,

Lệ ta cũng chửa ai người lau cho.

Có thể nói, ĐƯỜNG DÀI là một bài lục bát hay nhất trong các bài lục bát của Đặng Xuân Xuyến mà tôi đã đọc. Tiếng thơ dịu êm như từng hơi gió nhẹ thổi nỗi buồn của đôi trai gái hòa tan vào trái tim người đọc.

Trong bài thơ, ta thấy cô gái rất nặng lòng với chàng trai, hẳn trong lòng cô cũng âm vang nỗi tiếc khi phài về:

Còn đêm nay nữa, anh đi,

Lượng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề (Ca dao)

Lượng vàng không tiếc nhưng tiếc những khi ngồi kề bên anh nên em sẵn sàng cam chịu sẽ neo tình yêu của anh vào tận đáy lòng nhưng không thể sống lứa đôi cùng anh vì lo sợ đường dài sẽ còn có biết bao ngăn trở.

Chàng trai cũng rất yêu cô gái và hẳn chàng rất biết:

Còn đêm nay nữa, mai về

Lạng vàng không tiếc, tiếc kề môi son (Ca dao)

Lạng vàng không tiếc nhưng tiếc những giây phút được kề môi son nên anh tôn trong những suy nghĩ của em mà chỉ dám ngỏ lời muốn níu kéo

Đừng mà.

Ở lại đi em

Nhưng rồi anh vẫn ngậm ngùi để em được tự giải thoát:

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Dù anh đau xót quặn lòng biết rằng em sẽ lạnh lùng buồn tủi trên ngõ xa đường dài đêm nay.

Ôi! ĐƯỜNG DÀI! Đó đâu chỉ là lối đi về của em tối nay mà đó chính là đường đời còn thăm thẳm nhiều hệ lụy trắng đen mà anh và em, chúng ta rất dễ dàng bị đánh gục trong khoảnh khắc khi chúng ta cảm thấy bất lực không vượt qua được những trở ngại trên con đường dài đó. 

Tôi, người yêu bài thơ này không có lạng vàng nào để tiếc nhưng rất tiếc cho cô gái và rất tiếc cho cả chàng trai.

Với cô gái, ta hãy bình tâm xem lại hai lý do chính cô gái đưa ra để em về kẻo phố xa đèn mờ.

Lý do thứ nhất:

Mười lăm năm nữa còn gì nét xuân

Tiếc cho cô sao không nhớ tới cô gái “Phiếu hữu mai” (Mai rụng) trong Kinh thi, một cô gái muộn chồng, nhưng trong trái tim luôn khát khao mong sớm đạt được nguyện ước “có chàng, có thiếp, như đũa có đôi”:

Mai em đã bắt đầu rơi

Mười phần hương sắc chỉ vơi ba phần

Ai người quân tử cầu thân

Trầu cau ngày tốt Tấn Tần kề vai

Một tình cảm thật táo bạo tựa như “cọc đi tìm trâu” nhưng thật đáng quý biết bao cô gái “Mai rụng” đó. Còn cô gái trong thơ Đặng Xuân Xuyến, bây giờ đang ngồi kề bên chàng trai rất yêu mình, năn nỉ cô ở lại cùng chàng nốt đêm nay nhưng sao cô cứ một mực đứng lên vì sợ đường dài

Lý do thứ hai:

Nhà nghèo 

 duyên phận mỏng manh

Em neo chữ nghĩa chữ tình với son

Anh dù chẳng vợ còn con

Cố chen em chỉ nước non phận hèn  

Ôi sao cô lại yếu lòng đến thế? Tiếc cho cô không nhớ ra cô gái trong “Bần nữ thán”. Cô ấy cũng rất nghèo và vì nghèo nên chẳng được ai ngó ngàng tới, mặc dầu cô ấy thông minh, giỏi và đẹp:

Vì một nỗi thua tiền, thua bạc,

Hóa cho nên thua sắc, thua tài

Nhưng sau bao lời tâm sự buồn than, cô gái nghèo ấy đã nhận ra ngay rằng mình chỉ:

Giận duyên nói bấy nhiêu lời

Rồi vững lòng tin vào phẩm giá của mình, của một cô gái nhà nghèo  trước cảnh đời:

Ngọc lành còn đợi giá cao,

Rồng còn uốn khúc ở ao đợi thì

Còn cô, cô gái trong thơ Đặng Xuân Xuyến, ngọc lành đâu còn phải đợi giá cao? Chàng trai ngồi kề bên cô đang năn nỉ níu kéo cô ở lại bên chàng, sao cô vẫn mặc cảm về “Nhà nghèo duyên phận mỏng manh” của mình mà dằn lòng đứng lên như thế?

Với chàng trai, chàng yêu nàng đến thế mà sao lại cố nói cho xong những lời nghẹn đắng trong lòng:

- Ờ ...

Thì...

Em trở lại nhà

Khăn đây

em quấn

Ngõ xa

đường dài

ĐƯỜNG DÀI! Sao lại sợ đường dài đến thế mà không nhớ tới câu:

Đường dài, ngựa chạy biệt tăm,

Người thương có nghĩa, trăm năm cũng về

Để mà níu bằng được đôi chân cô gái ở lại nốt đêm nay cùng nhau thỏa nguyện:

Tơ tằm đã vấn thì vương,

Đã trót dan díu thì thương nhau cùng.

Chính vì thế, bài thơ ĐƯỜNG DÀI của Đặng Xuân Xuyến có thể coi như một chuyện tình nhỏ bé và đơn giản nhưng chan chứa nỗi buồn nhưng là nỗi buồn rất đẹp xuất phát từ hai trái tim sâu thẳm yêu nhau nhưng chưa đến được với nhau thành đôi lứa vì chưa bước qua được những rào cản. Một chuyện tình buồn đẹp như câu thơ của Hồ ZDếnh:

Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở (Ngập ngừng).

Câu thơ cụ ZDếnh hay quá khiến tôi hy vọng rằng, những lời của chàng trai và cô gái trong bài thơ ĐƯỜNG DÀI của Đặng Xuân Xuyến chỉ là mấy câu buồn đẹp sau lúc hoàng hôn. Rồi đêm nay sẽ qua, ngày mai đẹp ánh ban mai sẽ đến, họ sẽ lại ngồi kề bên nhau để cho chuyện tình buồn đẹp của hai người sẽ mất đi chữ buồn mà chỉ còn lại chữ đẹp.

 Để cho:

ĐƯỜNG DÀI (THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN): MỘT CHUYỆN TÌNH BUỒN ĐẸP SAU LÚC HOÀNG HÔN

Thành:

ĐƯỜNG DÀI (THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN): MỘT CHUYỆN TÌNH ĐẸP…

*

Sài Gòn, 15 Tháng 05.2017

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn

Email: bnguyen37@gmail.com

.

 

Tác Giả: Nguyễn Bàng

 

 

 

Lối Đi Về

 

Vẫn bao năm cỏ tàn rồi cỏ mọc

Lối đi về đường đất vẫn còn y

Trời vẫn xanh, mây trắng vẫn bay bay

Chỉ có người mới là điều kỳ lạ

 

Bước xa quê tìm thị thành, phố xá

Có kẻ về và cũng có kẻ không

Không như mây, cây cỏ suốt năm ròng

Lối..cũng thế vẫn trung thành mãi mãi

 

Có nhiều đêm trở trăn ta khoắc khoải

Lòng lao chao và bất ổn thế nào

Rằng ! Lại thua vầng mây trắng trên cao

Và hèn mọn hơn những loài cây cỏ

 

Mong qua đêm chờ ngày vươn sáng tỏ

Ta thấy mình thua thật, thật là thua

Lối đi về ngày lại tiếp.. lưa thưa

Chỉ có cỏ, đất, trời là tồn tại.

 

Thủy Điền

20-04-2017

 

 

LỐI ĐI VỀ  (Thơ Thủy Điền)

VẪN CÒN Y NHƯNG SAO LÒNG THÌ BẤT ỔN?

 

 

Lối đi về là một hình ảnh quen thuộc trong thi ca Việt Nam, từ văn học dân gian đến văn chương bác học và âm nhạc . Đó là Đường làng em lắm cát dễ đi, mà hai tiếng làng emcó thể đổi thành một cái tên riêng khi ai đó nói về đường làng của mình: Đường Hiệp Hòa lắm cát dễ đi, Đường chợ Bưởi lắm cát dễ đi và giàu có sang trọng hơn như cái làng ở ven Kinh kỳ: Đường Yên Thái gạch lát dễ đi. Đó là lối đi về trong Truyện Kiều bất hủ:Đi về này những lối này năm xưa. Và Lối em đi về trời không có mây trong nhạc Trịnh.

 

Tháng Tư này có thêm một Lối đi về trong thơ Thủy Điền, một cây bút đang sống tại Công hòa liên bang Đức. Không phải lối đi về lắm cát  hay gạch lát mà là “Lối đi về đường đất” ở một làng quê nhỏ bé và cách xa thành thị.

 

Cảnh vật đầu tiên hiện lên trong mắt người khách đã ly hương trở về hôm nay là sự nguyênsơ của con đường đất ấy:

 

Vẫn bao năm cỏ tàn rồi cỏ mọc

Lối đi về đường đất vẫn còn y

 

Bao năm rồi, theo dòng thời gian, xuân sinh hạ trưởng, thu thu đông tàng, nhưng cỏ bên đường “cỏ tàn rôi cỏ mọc” đúng như câu ca dao: “Đất tháng giêng tự nhiên cây cỏ mọc”để giữ nguyển hình ảnh đơn sơ và sự sống trường tồn cho cái lối đi về quen thuộc ấy. Và không chỉ lối đi về ấy vẫn còn y mà ngẩng đầu lên:

 

Trời vẫn xanh, mây trắng vẫn bay bay

Hình ảnh trời xanh mây trắng không thể không gợi nhớ trong lòng người trên lối đi về ấy một vẻ đẹp hiền hòa và đầy thân thương từ nghìn đời nay trên bầu trời quê hương:

 

Trên trời có đám mây xanh

Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng

 

Bao năm xa quê, nay trên lối đi về vẫn y nguyên ấy với bầu trời vẫn đẹp như xưa ấy khiến người về nhận ra:

 

như mây, cây cỏ suốt năm ròng

Lối…cũng thế vẫn trung thành mãi mãi

 

Thật khác hẳn phong cảnh “phong cảnh, nay đà khác xưa” khi chàng Kim trongTruyện Kiều không thể quên lời hẹn thề với người quốc sắc nên khi làm tròn chữ hiếu chàng đã lặn lội trở lại ngay vườn Thúy để gặp nàng. Nhưng buồn thay: Vườn tược thì hoang phế , nhà cửa thì tiêu điều, những song cửa không có người đóng để mặc cho ánh trăng quạnh quẽ chiếu vào.., mọi cảnh vật Chung quanh nặng khắt như tờ  u ám thiếu sinh khí ấy đã khiến cõi lòng chàng Kim như chết lặng trong một niềm đau đầy thất vọng không biết nói cùng ai, hỏi với ai:

 

Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?

 

Sự thay đổi tang thương của cảnh vật lại thêm không tìm thấy người yêu xưa đã bật lên trong lòng chàng Kim một tiếng lòng xiết bao đau đớn , tuyệt vọng như trên là điều dễ hiểu.

 

Vậy người về trong bài thơ của Thủy Điền “Lối đi về đường đất vẫn còn y”, vẫn cỏ tàn rồi cỏ mọc và trời vẫn xanh mây trắng vẫn bay bay”, hẳn tâm trạng sẽ rất vui ? Người đọc nghĩ thế nhưng hoàn toàn không phải thế mà tâm trạng khách về trong thơ Thủy Điền lại là: 

 

trở trăn ta khoắc khoải

Lòng lao chao và bất ổn thế nào

 

Sao lại khắc khoải không yên lòng và phải suy nghĩ nhiều? Sao lại lao chao, mất thăng bằng và bất ổn trong lòng như vậy?

 

Vì Lối đi về vẫn còn y làm  cho khách về nhận ra:

 

Chỉ có người mới là điều kỳ lạ.

 

Kỳ lạ ở chỗ người đã không còn y như cảnh vật mà đã đổi thay nhiều. Đó là những người đã ly hương:

 

Bước xa quê tìm thị thành, phố xá

 

Để tìm kiếm sự mưu sinh mới. Nhưng đến nay:

 

Có kẻ về và cũng có kẻ không.

 

Kẻ về là ta, là người về trước ta và mai mốt sẽ còn người về sau ta nữa. Tất cả họ, trong lòng vẫn còn nhớ lối đi về ở quê nhà; trong lòng họ bao năm ròng ly hương vẫn còn in nhớ câu ca dao mẹ:

 

Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương

 

Kẻ không (về)  trong đó có người đã chết không bao giờ còn thể về được nhưng cũng có người  đang còn sống nhưng hẳn đã quên lối đi về hoặc không bao giờ nghĩ tới lối đi về nữa; trong lòng họ đã nguội tắt lời ca:

 

Đi mô cũng nhớ quê mình

 

Và quên đi hẳn lời mẹ ngày xưa hay nói: 

 

Trâu ta ăn cỏ đồng ta.

Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm

 

Trong khi ròng rã ngần ấy năm, con đường đất lối đi về vẫn y nguyên, cây cỏ dẫu trải qua bao ngày mưa nắng, bão giông vẫn tàn rồi lại mọc và trời vẫn xanh, mây trắng vẫn bay bay.

 

Thế thì con người so với thiên nhiên chẳng phải là đã: 

 

Lại thua vầng mây trắng trên cao

Và hèn mọn hơn những loài cây cỏ

 

Không chỉ  thua mà chua xót hơn, còn hèn mọn hơn thiên nhiên nữa. Nghĩ thế làm sao mà lòng không khắc khoải, chao lao mà lòngkhông bất ổn.

 

Xấu hổ vì thua và hèn mọn hơn cỏ cây, mâ trời, khách ly hương trên lối đi về cũ hôm nay chỉ còn biết khao khát:

 

Mong qua đêm chờ ngày vươn sáng tỏ

 

Và trên nỗi niềm khao khát ấy, thêm một lần nữa người về đắng cay nhận ra rằng mình như là không còn tồn tại với quê hương:

 

Ta thấy mình thua thật, thật là thua

Lối đi về ngày lại tiếp.. lưa thưa

Chỉ có cỏ, đất, trời là tồn tại.

 

Nhà thơ  Đoàn Văn Cừ, người lưu giữ hồn quê trong thơ có câu:

 

Tới đường làng gặp những người quen

 

Nhưng trong bài thơ Lối đi về của Thủy Điền, ta tịnh không thấy bóng dáng một ai trên lối đi về ấy nên người khách ly hương về thăm quê chỉ thấy mấy nét thiên nhiên quen thuộc y thuở ngày xưa. Và chỉ ngần ấy thôi đã khiến lòng khách thấy mình thua cây cỏ, thua mây trời và dường như không thấy mình tồn tại với quê nhà nữa. Nếu “gặp những người quen” không biết lòng khách sẽ còn lao chao bất ổn ra sao nữa?

 

Nhà thơ Thủy Điền gọi Người  khách ly hương đang bước chân trên lối đi về thăm quê nhà hôm nay là người đã:

 

Bước xa quê tìm thị thành phố xá

 

Nhưng tôi không nghĩ  những người đã ly hương ấy chỉ gồm một số người xa quê đi tìm thị thành phố xá mà họ còn là hàng triệu người Việt khác đã phải dời bỏ quê hương đất nước để tìm đến những chân trời rất xa lạ nữa.

Đó là hàng trăm ngàn người đã phải  bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ mồ mả ông bà di tản ra nước ngoài trong ngày  30/4 /1975 và hàng trăm ngàn người chậm chân trong giai đoạn Di Tản trên đã phải vượt biên vào những năm sau. Đó là những người trong những năm gần đây bao gồm những người dân có hoàn cảnh nghèo khó thì được ra nước ngoài dù trong thân phận xuất khẩu lao động, làm ô sin hay cô dâu bất đắc dĩ… vẫn lấy đó là một giấc mơ đổi đời và họ sẵn sàng chớp lấy một khi có cơ hội dù phải đánh đổi bất chấp thứ gì như những đồng bào của họ từng dám liều chết hơn 40 năm trước đây khi đặt chân lên thuyền hướng ra biển cả. Có ai đâu muốn phải ly hương nhưng "Tại sao dân mình cứ mãi ly hương?" như thế? Bởi những lý do cụ thể như trên và hàng chục lý do khác trong đó có cả lý do từ trời đất:

 

Trời làm một trận lăng nhăng      

Ông hóa ra thằng thằng hóa ra ông

 

Vì vậy rất trân trọng cảm giác thành thật đau đớn xót xa và xấu hổ đến độ cảm thấy mình không còn tồn tại của ly khách trong thơ Thủy Điền khi thấy mình thua cái lối đi về, thua cỏ cây, mây trời vì mình không có lòng thủy chung như thiên nhiên ở quê nhà.

 

Nhưng tôi nghĩ, cũng không nên trách cứ người khách về ấy hôm nay hay những người đã về và sẽ về ngày mai và cả những kẻ không về nữa. Vì Cuộc đời vẫn thế, mỗi người mỗi việc – Lại vì thời cuộc đổi thay. Nên hãy tôn trọng công việc của mình và người khác. Hãy trân trong những gì đang có, coi nó là cảm hứng, đừng coi việc đã ly hương là gánh nặng. Ca dao mẹ có câu:

 

Tiếng anh ăn học cao cường

 Anh về đếm cỏ ngoài vườn mấy cây

 

Nếu có lòng với quê hương gia đình sau khi học được một sàng khôn, mong những người đã phải ly hương cố gắng trở về đếm cỏ ngoài vườn mấy cây cho dù đó chẳng phải là việc dễ làm:

 

Em về đổ đít lư hương

Đếm tro bao nhiêu hạt (thì) cỏ ngoài vườn bấy cây

 

Trong  “Cố hương”, một đoản thiên trứ danh của văn hào Lỗ Tấn, khi được trở về nhà, ông nhận ra làng quê của mình đang trì trệ, chậm phát triển, loay hoay trong một con đường cũ kì, dường như là không có lối thoát với nhiều hủ tục vô cùng nặng nề. Quê hương ông cần có “con đường” mới để có thể đổi mới, để có thể phát triển hơn nữa, không còn như bây giờ.

Có lẽ con đường mà Lỗ Tấn muốn nhắc đến chính là con đường tự do, con đường hạnh phúc, con đường có niềm vui và hi vọng. Con đường đó không phải do một người tạo nên mà do nhiều người cùng góp phần xây dựng nên: “trên đời vốn làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi”. Một sự khẳng định chắc nịch rằng không có con đường nào tự nó sinh ra và tự nó mất đi được. Do con người đi nhiều, đi mãi thì sẽ thành đường mà thôi. Sự khẳng định này cũng chính là tin vào sự xuất hiện một con đường mới do chính con người tạo ra. Con đường ấy sẽ là một cuộc sống mới, một xã hội mới với nhiều điều tiến bộ và văn minh hơn hết. 

 

Vì vậy, hỡi người khách ly hương trong Lối đi về của nhà thơ Thủy Điền, nói riêng và mọi khách ly hương đang ở những chân trời thẳm xa nước Việt, nói chung ơi! Lối đi về hôm nay, sau bao năm ròng vẫn còn y. Nhưng không vì thế mà không mong mỏi có thêm nhiều lối đi về nữa. Bởi lẽ, quê hương ta cần có thêm nhiều “lối đi về” mới để có thể  mở ra rất nhiều bầu trời mới với nhiều mây trời mới trong sáng đẹp mới hơn nhiều nữa!

 

Sài Gòn 26 Tháng Tư 2017

 

 

 

 

 

 

Nguyễn Bàng

 

Ähnliches Foto

 

SỚM THU, THU SỚM -

THU BUỒN HAY VUI?

 

Đã mấy năm sống ở Sài Gòn với hai mùa: Mùa mưa và mùa khô, quanh năm ngày tháng nắng vàng rực rỡ, trong tôi dường như đã quên mất mùa thu và cũng quên cả các câu thơ về mùa thu đã thuộc bấy lâu thì bất chợt nhận được 2 bài thơ: Sớm Thu của nhà thơ Nguyễn Khôi và Thu Sớm của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến  làm tôi bật nhớ ra mùa thu đang về trên miền Bắc.

Mà cũng lạ, hai nhà thơ tuổi chú cháu này như một cặp đôi thi nhân luôn phối hợp nhịp nhàng với nhau. Mới gần đây khi nhà thơ tuổi cháu Đặng Xuân Xuyến đưa lên bài thơ Về Đi Em thì nhà thơ tuổi chú Nguyễn Khôi hưởng ứng ngay với bài Về Làm Chi Nữa, nói như nhà phê bình văn học Châu Thạch thì cả hai bài thơ “đều là tiếng gọi người về trong nỗi xót xa, đều là tâm trạng của những người có lòng khi thấy quê hương mỗi ngày mất đi bản sắc”. Hôm qua, ngày 15/08 nhà thơ tuổi chú đưa lên bài Sớm Thu (som-thu-tho-nguyen-khoi-ha-noi.html) thì hôm nay 16/08 nhà thơ tuổi cháu hòa giọng luôn với bài Thu Sớm,(thu-som-tho-ang-xuan-xuyen.html) một sáng tác được nâng niu cất giữ từ 15/09/2015. Cả hai bài thơ Thu này đều là những cảm xúc rất chân thật và rất đẹp của hai tâm hồn trước cảnh Thu về.

Mặc dù đang vào ngưỡng tuổi 80 nhưng trong Sớm Thu của nhà thơ lão thành Nguyễn Khôi, ta không thấy hình ảnh lá vàng khi mùa thu tới mà hầu hết các thi nhân Việt Nam từ cổ đến cận đại, từ cụ Tam nguyên Yên Đổ đến Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu đều ca ngợi:

                   Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

                   Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo

                             (Nguyễn Khuyến)

                   Trận gió thu-phong rụng lá vàng

                   Lá bay hàng xóm lá bay san

                             (Tản Đà)

                   Con nai vàng ngơ-ngác

                   Đạp trên lá vàng khô

                             (LưuTrọng Lư)

                   Sắc trời trôi nhạt dưới khe

                   Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh-lùng

                             (Huy Cận)

                   Đây mùa thu tới mùa thu tới

                   Với aó mơ phai dệt lá vàng

                            (Xuân Diệu)

Mà với Nguyễn Khôi là cảnh Sớm Thu rất hiện đại: 

                   Sớm nay nghe hồn lành lạnh

                   Một trời sương trắng : ờ thu ,

                   Cao Tầng ánh sao lấp lánh

                   Ban công vẳng tiếng chim Cu

Có lành lạnh, có sương trắng nhưng không phải là cái lạnh, cái sương buồn mờ ảo trong thơ Tản Đà:

                   Gió thu hiu hắt,

                   Sương thu lạnh

                   Trăng thu bạch,

                   Khói thu xây thành.

Đó là cái lạnh cái sương trên cao tầng giữa thủ đô Hà Nội, khi đêm chưa tan hẳn, ánh sao còn lấp lánh và không hề tĩnh lặng bởi “vẳng tiếng chim Cu”. Nhưng tiếc thay, không phải là tiếng chim Cu trên không trung được ví như tiếng nhạc của đất trời ngợi ca sớm thu cho mọi người thưởng thức mà là tiếng chim Cu trong lồng treo trên ban công nhà ai đó:

                   Chim Cu nhốt lồng gọi bạn

                   Mơ về một cánh rừng xa

                   Nhốt lồng khác chi bị "hoạn"

                   Không còn được sướng mây mưa...

Tiếng kêu trong bức bối khắc khoải, ao ước được tung cánh về rừng của một kẻ đang bị giam cầm tù hãm.

Hơn một trăm năm trước, đứng trên mặt đất làng Bùi, nhà thơ Nguyễn Khuyến phải ngửa mặt lên mới thấy được:

                   Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,

Nay nhà thơ Nguyễn Khôi ở lưng trời cao ốc, chỉ cần giơ tay ra là nắm được mây trời. Nhưng thật phũ phàng đó không phải là đám mây xanh ngắt mà là một đám mây độc đến chết người:

                   Đón thu lưng trời cao ốc

                   Quờ tay định tóm đám mây

                   Mây đen chừng đầy khí độc

                   Tạt qua tối xẩm mặt mày...

Thu Sớm của Đặng Xuân Xuyến là cảnh thu đến sớm trên một làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bước chân thu sớm thật khẽ khàng tinh tế, nếu không có cảm quan nhậy bén thì không dễ nhận ra. Vì vậy, anh có cảm nhận Thu đã về rồi nhưng vẫn phải hỏi em: 

                   Em hỡi! Mùa thu đã đến chưa?                    

                   Có nghe se lạnh gió chuyển mùa?                                  

                   Có nghe thoang thoảng thơm cốm mới?                                        

                   Có thấy nhà bên rúc rích cười?

Và bây giờ mới chắc chắn mùa Thu đã đến thật:

                   Em nhỉ. Mùa thu đến thật rồi

                   Sương chiều bảng lảng rắc muôn nơi

                   Diều ai dìu dặt chòng chành nắng

                   Vắt vẻo em cười. Ơ ... đã thu.

Có gió chuyển mùa se lạnh, có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm mới. Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có tiếng cười rúc rích bên nhà hàng xóm trong đó có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu của em! Một Thu Sớm thật thanh bình, thật đáng yêu.

Từ tháng Tám năm 1945, mùa Thu đối với người Việt Nam không còn là mùa thu của lá vàng rơi, mùa thu của “Con nai vàng ngơ ngác” hay mùa thu của “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” mà là mùa Thu Cách mạng đẹp hơn cả thiên nhiên vốn có:

                   Trời bỗng xanh hơn nắng chói lòa

Nhà thơ Thâm Tâm từ những “Chán ngán tình gia sầu ngất ngất/ Già teo thân thế hận mang mang”, đã gắn bó với cuộc đời mới trong khung cảnh “Mùa Thu Mới”:

                   Trái hồng trĩu xuống cây rơm

                   Sáng nay mùa cốm dậy thơm đầy làng

                   Lúa vươn thân hút ánh vàng

                   Nguồn tươi vống nở thu sang mát lành.

Nguyễn Đình Thi thì rất vui khi nêu sự so sánh hai  trạng thái cảm xúc của mình về mùa thu trước và mùa thu nay:

                   Mùa thu nay khác rồi

                   Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

                   Gió thổi rừng tre phấp phới

                   Trời thu thay áo mới

                   Trong biếc nói cười thiết tha

Rồi cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm,  mặc dầu đang chiến tranh, mùa thu cũng không bớt đẹp đi chút nào:

                    Sáng mát trong như sáng năm xưa

                   Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Sau giải phóng Điện Biên Phủ, đất nước mới hòa bình, nhà thi sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng làm thơ Tố Hữu phơi phới hát ca giữa trời thu:

                   Ngẩng đầu lên: Trong sáng tuyệt trần

                   Tháng Tám mùa thu xanh thẳm

                   Mây nhởn nhơ bay

                   Hôm nay ngày đẹp lắm!

                   Mây của ta, trời thẳm của ta

                   Nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa!

Sau khi nước nhà thống nhất, Đảng dẫn dắt dân ta đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập với khẩu hiệu: phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn minh. Phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp thì hình ảnh Thu Sang của Hữu Thỉnh thật đẹp, đẹp tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm duyên dáng, đẹp đến nỗi phải hàng năm phải cho học sinh lớp 9 học:

                   Sông được lúc dềnh dàng

                   Chim bắt đầu vội vã

                   Có đám mây mùa hạ

                   Vắt nửa mình sang thu

Dòng sông sang thu không còn chảy cuồn cuộn, dữ dội và gấp gáp mà êm ả lững lờ trôi như một con người đang trầm tư, suy ngẫm. Các loài chim chuẩn bị di cư về phương Nam tránh rét mới chỉ “bắt đầu vội vã”. Đám mây mùa hạ hãy còn, đẹp như một giải lụa “vắt nửa mình sang thu” như sẻ chia cùng bạn. Thu Sang đúng là đẹp hơn thơ!

Đến nay, người đứng đầu đảng Cộng Sản Việt Nam , Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác định: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có Chủ nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa…” Thì hình ảnh Sớm Thu, Thu Sớm trong bức tranh nhị bình trên của Nguyễn Khôi và Đặng Xuân Xuyến là Thu buồn hay vui?

Với bài thơ rất chân thực của Nguyễn Khôi thì câu trả lời đã khá rõ. Làm sao có thể vui được khi “Chim Cu nhốt lồng gọi bạn / Mơ về một cánh rừng xa”. Làm sao vui được khi “Mây đen chừng đầy khí độc / Tạt qua tối xẩm mặt mày...”.  Và chính vì không vui được nên nhà thơ phải “Cúc vàng mua về cắm lọ” để ngắm và ngắm cúc vàng để mà:

                   Nhớ nhung lá đỏ cành Phong 

                   Thu vàng nước Nga rực rỡ

Buồn thay, ngồi trong Sớm Thu ở nhà mình trên Thủ đô nước mình, ngắm  Cúc vàng Việt Nam mình mà lại nhớ lá đỏ cành Phong, Thu vàng ở tận nước Nga xa xôi. Đã thế mà lòng vẫn bất yên vì lại nghe thấy:

                   Lũ đang cuộn sóng sông Hồng...

Sớm Thu nay buồn nên nhà thơ mơ mùa Xuân tới, hy vọng ở ngày mai cho  tuổi 80 của mình::               

                   Xuân tới 80 rồi nhỉ ?

                   Sớm nay qua nẻo thu sang

Và niềm hy vọng ấy khiến nhà thơ:

                   Ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ

                   Chỉ e hoa thẹn bẽ bàng...

Thu Sớm của Đặng Xuân Xuyến, như trên đã nói, đó là một cảnh Thu rất đẹp: Có gió chuyển mùa se lạnh, có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm mới. Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có tiếng cười rúc rích bên nhà hàng xóm trong đó có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu của em!

Nhưng hẳn bạn đọc còn nhớ, nhà thơ họ Đặng đã từng kêu lên: Quê tôi nghèo lắm, Nghèo cả giấc mơ, nghèo đến xót xa cõi cõi lòng thì sao cái làng Đá của anh có một cảnh Thu Sớm đẹp và vui như vậy. Phải chăng cũng chỉ là giấc mơ thôi?

Tôi nói chỉ là giấc mơ thôi bởi như ai cũng biết Sài Gòn không có mùa thu nhưng lại có rất nhiều nhà thơ ca ngợi Thu Sài Gòn mà điển hình là nhà thơ nữ Nguyễn Thị Lệ Thanh đã sáng tác bài thơ "Trưng Vương, khung cửa mùa thu", và nhạc sĩ  Nam Lộc đã soạn thành một ca khúc ghi dấu những mối tình nhẹ nhàng, nỗi bâng khuâng, những xao xuyến của tuổi học trò:

                   Tim em chưa chưa nghe rung qua một lần!

                   Làn môi em chưa hôn ai cho thật gần

                   Tình trần mong manh như lá me xanh Ngô ngác rơi nhanh

                   Thu giăng heo may che bóng cây lạnh này

                   Người cho em nghe câu nhớ thương từng ngày…

                   Người mang cho em quen môi hôn ngọt mềm

                   Tình cho tim em rung những đêm lạnh lùng…

                   Nắng vấn vương nhẹ gót chân

                   Trưng Vương vắng xa anh rồi

                   Mùa thu đã qua một lần

                   Chợt nghe bâng khuâng lá rơi đầy sân...

Và hàng trăm nhà thơ khác chưa thành danh với hàng trăm câu thơ như thế này:

                   Sài Gòn Thu đã chớm sang

                   Em đi qua phố dịu dàng như mơ

                   Mùa Thu đẹp tựa vần thơ

                   Tim anh xao xuyến đến giờ còn vương

Chả là giấc mơ mùa thu cho Sài Gòn đó sao?

Thu Sớm của Đặng Xuân Xuyến cũng chỉ là một giấc mơ như thế, cũng là hy vọng của anh về một Thu Sớm đẹp cho cái làng Đá quê hương của anh. Mà nói như Lỗ Tấn: "Đã là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư”.

Bởi thế, tôi trân trọng tất cả những giấc mơ đẹp, những hy vọng đẹp trong Sớm Thu của bác Nguyễn Khôi và Thu Sớm của nhà thơ Đặng Xuân  Xuyến.

Tôi thành thực cầu chúc cho hai nhà thơ:

Nhà thơ tuổi chú Nguyễn Khôi sẽ  luôn có những Sớm Thu với những giây phút “ngắm hoa thấy lòng tươi trẻ” và sẽ được mãi như câu thơ của Thế Lữ:

                   Cùng với ánh quanh minh còn mãi.

                   - Cho người vui cảnh quên già.

Nhà thơ tuổi cháu Đặng Xuân Xuyến cùng làng Đá quê  anh sẽ có được đích thực những Thu Sớm đẹp với “Diều ai dìu dặt chòng chành nắng” và vui tươi với tiếng “Vắt vẻo em cười” đầy trong thôn xóm.

 

Sài Gòn Rằm tháng Bảy 2016

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn

Email: bnguyen37@gmail.com

 

Nhà Văn Nguyễn Bàng

 

 

Ähnliches Foto

 

KIM HÔN LẶNG LẼ

 

1.

Nhờ có hai đứa cháu, một nội một ngoại mà hơn một năm nay, hai vợ chồng ông giáo già không phải xem phim truyền hình trên Tivi với tràn ngập quảng cáo. Thằng Minh cháu nội, dân IT đang sống và làm việc ở Canada , con Thu cháu ngoại, dân quản trị kinh doanh đang sống và làm việc ở Úc. Hai anh em nó hẹn nhau cùng về Việt Nam thăm ông bà và làm một số việc riêng. Ngay ngày đầu tiên về nước, sau bữa cơm chiều, tầm 8h tối, thấy ông bà ngồi trước Tivi xem phim truyền hình, hai anh em Minh và Thu bảo nhau xem cùng ông bà. Cái Thu khẽ hỏi bà ngoại:

- Phim này chắc hay lắm, hả bà?

- Phim Việt Nam lên sóng giờ vàng đấy cháu ạ. Đây là thời gian hầu hết mọi người đã có thì giờ nghỉ ngơi giải trí, nhà đài thu hút được nhiều người xem phim Việt Nam nhất nên quý như vàng. Bà thấy phim này cũng không hay lắm nhưng quỹ thì giờ nhàn rỗi của ông bà khá nhiều mà tối rồi nên xem một chút phim để chờ đến giờ đi ngủ. 

Bà vừa nói xong thì trên màn hình ngừng chiếu phim để chạy quảng cáo. Những hình ảnh chói rực màu sắc loang loáng trước mắt và những lời nói có cánh như nước chảy bên tai người xem ca tụng hết sữa đến thực phẩm chức năng rồi nước lau nhà rửa chén, nước rửa bồn cầu, băng vệ sinh... Thằng Minh thấy ông nội lấy cái điều khiển vặn nhỏ âm lượng lại, bèn nói:

- Người ta quảng cáo dài quá ông nhỉ?

- Đúng thế cháu ạ. Mỗi lần quảng cáo đến 7, 8 phút mà có tới cả 3, 4 lần trong một tập phim. Vì thế, mỗi tập phim chỉ có thời lượng 40 phút nhưng phải ngồi kéo dài cả tiếng đồng hồ mới xem xong khiến nhiều lúc ông bà cũng thấy mệt mỏi và khó chịu cứ như người bị khát mà phải uống nước bằng...thìa  vậy. Nghe nói bên Trung Quốc, người ta cấm các đài truyền hình phát các đoạn phim quảng cáo khi đang trong giờ chiếu phim; ước gì ở ta cũng được như họ? 

Sáng hôm sau hai anh em Minh và Thu xin phép ông bà cho đi chơi. Nhưng đến trưa, khi chiếc taxi đưa chúng về đem theo một cái thùng các tông và một cái túi xách. Con Thu hồ hởi lễ phép nói:

- Ông bà ơi! Chúng cháu mua cái Tivi Sony và cái laptop Dell này để ông bà dùng đấy ạ.

Cả hai ông bà đều tròn mắt nhìn hai đứa cháu rồi nhìn hai thứ đồ anh em nó mang về rồi bà xuýt xoa nói:

- Cái Ti vi cũ vẫn còn tốt chán, các cháu mua mới làm gì. Lại còn cái máy tính nữa, ông bà già rồi có biết máy móc gì đâu mà dùng đến nó.

Nghe bà nội nói thế, thằng Minh cười vui vẻ:

- Cái Panasonic 21 inch đít lồi cổ lỗ quá rồi, giờ có còn mấy ai dùng nữa đâu, hả bà? Cái Sony 32 inch loại mới này với thiết kế tinh tế, nhỏ gọn, giúp người xem tivi với những hình ảnh sắc nét và có chiều sâu lại dễ di chuyển, không chiếm nhiều không gian rất phù hợp với căn phòng phòng khách có diện tích nhỏ của nhà mình. Còn cái máy tính, nó sẽ đóng một vai trò quan trọng không chỉ cho ông bà mà cho cả nhà ta đấy ạ. Cháu chỉ xin kể ra vài việc của nó: Trước tiên, nó là một nguồn phim vô tận, ông bà thích xem phim gì thì lên mạng tải vào cái USB này rồi cắm vào cái Tivi Sony để xem, sẽ không phải bực mình về quảng cáo nữa vì hầu hết phim đưa lên mạng, đã cắt bỏ quảng cáo mà nếu chưa cắt thì ta sẽ lướt bỏ nó đi chỉ trong nháy mắt. Thứ hai, với cái máy tính này, ông bà sẽ không cần đến báo in hàng ngày mà sẽ được truy cập hàng trăm tờ báo trên mạng để đọc. Thứ ba, nó sẽ là tiện ích giúp cho cả đại gia đình nhà ta tuy xa mà gần, cho dù ông bà ở trong nước, nhà cháu ở Canada, nhà em Thu ở Úc, bất cứ lúc nào cũng  đều có thể gửi thư điện tử, tài liệu, tranh ảnh cho nhau, nói chuyện được với nhau miễn phí, trông thấy nhau trên màn hình khi cùng nhau kết nối máy tính. Còn cách dùng nó, lát nữa cháu sẽ hướng dẫn ông bà, nhanh và dễ lắm ạ!

Y như lời thằng cháu nội nói, ngay ngày hôm đó, chiếc máy tính đã cho hai ông bà nhìn thấy và nói chuyện được cả giờ với con giai, con dâu, con gái, con rể và hai đứa cháu còn đang đi học ở nước ngoài, em gái thằng Minh và em trai con Thu.

Còn việc xem phim thì quả là thú vị thật, cứ vào trang web nào cho xem phim hay tải về phim chất lượng cao mình thích vào cái USB bé con như hai đốt ngón tay rồi đem cắm sang cái cổng USB của cái tivi mà xem. Hình ảnh đẹp sắc nét và đúng là không bị quảng cáo quấy rầy khiến phải bực mình nữa.

2.

Một ngày cuối Xuân, ông giáo già lên mạng tìm phim rồi vui vẻ bảo vợ:

 - Hôm nay, chúng ta sẽ xem một bộ phim tình cảm của Trung Quốc, mình ạ. Cư dân mạng khen phim này hay lắm.

 - Là phim gì hả mình?

- Kim hôn phong vũ tình.

- Cái tên nghe dài và khó hiểu quá.

- Đúng thế! Kim hôn là đám cưới vàng nhưng không dễ gì dịch đủ cả 5 tiếng KIM HÔN PHONG VŨ TÌNH sang Tiếng Việt nên người dịch phim đã khéo léo chuyển ngữ cho nó sang cái tên là NGHĨA VỢ TÌNH CHỒNG, một thành ngữ rất gần gụi với người Việt chúng ta, mặc dù cái tên ấy không diển tả hết những phong vũ gió mưa của một cuộc tình để đến được cái Kim hôn.

Và rồi họ bắt đầu xem phim đó mỗi chiều.

Bộ phim kể về 50 năm kết hôn của cặp vợ chồng Thư Mạn - Cảnh Trực hay và cảm động trong từng hình ảnh từng lời thoại.

Câu chuyện bắt đầu từ năm 1958, anh hùng chiến đấu Cảnh Trực 28 tuổi, xuất thân từ con nhà lao động và nữ bác sỹ Thư Mạn 22 tuổi yêu nhau ngay từ ánh nhìn đầu tiên. Không lâu sau đó, hai người kết hôn, việc đó cũng đồng nghĩa là Cảnh Trực phải rời bỏ quân ngũ, vì Thư Mạn thuộc tầng lớp tiểu tư sản, bố là tư sản đã vậy lại đã chạy trốn ra nước ngoài.

Những ngày đầu chung sống, do xuất thân, nếp sống, tính cách khác nhau nên hai vợ chồng có những bất đồng. Nhưng chính những cãi vã thường nhật của cuộc sống hôn nhân, họ lại yêu nhau hơn.

Cuộc đại cách mạng văn hóa diễn ra đã khiến nhiều phần tử trí thức như Thư Mạn, Quý Thành - bạn thân của Thư Mạn... lâm vào cảnh khốn đốn. Đã có lúc họ đau khổ dằn vặt phải ly thân và định ly hôn.

Sau cách mạng văn hóa, cuộc hôn nhân của cặp đôi Thư Mạn - Cảnh Trực rơi vào cuộc khủng hoảng. Gánh nặng gia đình, sự nghiệp khiến cả hai đều thấy mệt mỏi...

Thư Mạn luôn canh cánh trong lòng: “ Nếu không phải vì mình chắc chắn anh ấy sẽ thành tướng quân chỉ huy thiên binh vạn mã. Đó là nỗi mơ ước cả đời của anh ấy”. Nhưng Cảnh Trực thì lại nói mình luôn ghi tạc trong dạ: “Anh sống cùng với em hạnh phúc suốt cuộc đời”. Những lúc Thư Mạn nói với chồng: “Kiếp này em đã nợ anh một ân tình”, cũng là lúc Cảnh Trực chân tình đáp lại: “Em là vợ của anh, ai nợ ai chứ!”

Nhờ có tình yêu lớn lao và nghĩa vợ tình chồng sâu đậm, họ đã vượt qua mọi chông gai, tay trong tay bước tới ĐÁM CƯỚI VÀNG và hạnh phúc bên nhau trọn đời.

Bộ phim dài 51 tập, phải mất 26 buổi xem mới đến tập cuối với chuyện đám cưới vàng của Thư Mạn và Cảnh Trực:

Gần đến kỉ niệm 50 năm ngày kết hôn, Thư Mạn hỏi chồng:

- Anh nói đi, anh sẽ tổ chức thế nào?

Cảnh Trực vốn hồn nhiên hay vui đùa, trả lời:

- Em muốn theo kiểu Ta thì anh làm theo kiểu Ta, theo kiểu Tây thì anh làm kiểu Tây. Em muốn đi Châu Phi Nam cực, anh sẽ tìm cách theo em.

- Toàn những câu vô tích sự- Thư Mạn trách yêu chồng.

Rồi họ gọi điện cho con trai, con gái, con dâu, con rể ở xa về.

Bố Cảnh Trực:

- Biết nói thế nào nhỉ? Các con cũng xem phim Truyền hình ĐÁM CƯỚI VÀNG rồi chứ?

Con gái Cảnh Cảnh :

- Con biết bố mẹ rất thích phim ĐÁM CƯỚI VÀNG, nhưng bố mẹ gọi chúng con từ xa về đây không phải là để thảo luận về phim này chứ?

Bố Cảnh Trực:

- Các con nói thế là không hề quan tâm và hiểu bố mẹ. Các con có biết bố mẹ cưới nhau bao lâu rồi không?

Tất cả các con đều cười vui vẻ hiểu ra ý của bố mẹ, rồi rôm rả đưa ra các ý kiến: Người thì nói, anh em chúng ta tổ chức long trọng một đám cưới vàng, người thì bảo, chúng ta sẽ cho bố mẹ uống rượu giao bôi; và, chúng ta sẽ đặt cho bố mẹ một đôi nhẫn, hiện nay giới trẻ kết hôn đều thịnh đeo nhẫn cưới…

Trong bữa cơm quây quần, khi các con đưa ra quyết định sẽ thuê một sảnh tiệc để tổ chức thì bố Cảnh Trực nói:

- Đâu phải là họp cơ quan, sảnh tiệc cái gì, nghe không được.

Hai đứa cháu nội chưa chịu ngồi vào bàn ăn, mải mê chụm đầu vào cái máy tính bỗng cùng lúc đứng dậy. Thằng cháu đích tôn nói như reo lên:

- Ông bà nội ơi, tìm được rồi. Ở khu Á vận hội có nhà hàng tên là TÌNH SI KHÔNG ĐỔI. Tình si không đổi nghĩa là chung thuỷ rất giống ông nội.

Thế rồi ĐÁM CƯỚI VÀNG của họ được con cháu tổ chức rất vui và đầy cảm động. Khách mời chỉ có hai vợ chồng Quý Thành, bạn cùng thời thân thiết với họ còn sống.

Sau buổi lễ, hai vợ chồng đưa nhau đi xem vở múa Ba lê Hồ Thiên Nga, một nghệ thuật mà Thư Mạn hằng yêu thích từ thời trẻ cùng với nhạc của Su-be mà đã nhiều năm, những cái đó bị cấm đoán vì bị coi là uỷ mị tiểu tư sản.

Hồi mới lấy nhau, Cảnh Trực chỉ quen nghe những bài hát cách mạng, thấy Thư Mạn mở đĩa nhạc, hỏi:

 - Bài nhạc gì vậy?

- Dạ khúc của Su-be 

- Của bác Su à, chắc chắn bác ấy là họ hàng nhà em rồi!

Cảnh Trực mới chỉ được xem Kinh kịch. Biết vợ khao khát được xem múa Ba lê nên mặc dù chẳng biết múa Ba lê là gì, nhưng một lần hai vợ chồng phải băng qua bãi tuyết, để làm vui lòng Thư Mạn, anh co chân nhảy tưng tưng trên mặt băng:

- Anh có thể múa Ba lê với em cả cuộc đời.

- Đó gọi là múa Ba lê ư, không khác gì cóc nhẩy.

- Thế mới gọi là cóc ghẻ ăn thịt Thiên nga chứ!

Bây giờ cả hai vợ chồng tóc bạc mới cùng nhau vào Nhà hát vũ kịch xem múa Ba lê. Bởi thế, mới lưng chừng vở, trong khi Thư Mạn cùng cả nghìn người xem say mê nhìn lên sân khấu thì Cảnh Trực đã bắt đầu gà gật rồi rơi đầu xuống vai vợ chìm sâu vào giấc ngủ. Thấy nặng vai, Thư Mạn cúi xuống , nghiêng đầu nhìn chồng mỉm cười âu yếm. Và khi khán giả rời ghế ra về hết, bà từ từ ngả đầu xuống sát bên đầu Cảnh Trực, hoà chung vào giấc ngủ cùng chồng giữa những hàng ghế trống không của nhà hát. Một giấc ngủ êm đềm hạnh phúc nhất trong 50 năm nghĩa vợ tình chồng của họ!

 3.

Thế rồi, khi màn hình chiếc Tivi Sony 32 inch vừa báo hết phim thì một cơn gió bỗng lay động rèm cửa sổ, thổi vào căn phòng một làn se lạnh. Bà vợ ông giáo già đứng lên, đến bên tủ quần áo, lấy ra hai tấm áo len mỏng lại gần chồng, khoác lên vai ông một tấm và âu yếm bảo:

- Rét nàng Bân năm nay lại về rồi đấy! Mình mặc thêm tấm áo này vào, kẻo lạnh.

Ông giáo già nhẹ đứng lên, cầm tấm áo còn lại trên tay vợ và khoác vào đôi vai gầy của bà:

- Mình cũng mặc thêm áo vào đi, kẻo lạnh.

Rồi ông chớp chớp mắt, cảm động nói tiếp:

- Tôi nhớ, tối hôm cưới của chúng mình, khi tan tiệc chè  ở phòng cưới là một lớp học của nhà trường, tôi đưa mình về bằng xe đạp. Vừa vào tổ ấm riêng của hai đứa thì gió nàng Bân se lạnh về lay động tấm rèm cửa sổ và mình cũng lấy trong hòm sắt ra tấm áo rét khoác cho tôi như hôm nay

- Vậy mà đã 49 năm rồi, mình nhỉ! 

- Phải! 49 năm, không tiết rét nàng Bân nào, mình quên khoác áo cho tôi kẻo lạnh.

- Thì mình cũng đâu có quên khoác lại áo cho em! Mà mình ạ, mùa Xuân năm sau là tròn 50 năm ngày cưới của chúng mình đấy!

- Ý mình định bắt chước trong phim, năm sau tổ chức ĐÁM CƯỚI VÀNG ?

- Thế mình nghĩ sao?

- Ở các nước thịnh vượng, người ta còn bày ra đám cưới đồng, đám cưới nhôm, đám cưới bạc rồi mới đến đám cưới vàng. Còn ở nước mình, thời xưa chỉ thấy dân ta khi thách cưới, nhà gái đòi với số lượng lớn trầu rượu, cau, trà, bánh trái, gạo, heo lại còn thêm nhiều vàng hay ít vàng nữa như câu ca dao “Cưới  em một chĩnh vàng hoa/ Mười chum vàng cốm bạc là trăm nong”  cho hôn lễ thực tại chứ không mấy ai coi trọng đám cưới vàng 50 năm sau. Nhưng ngày nay, “phú quý sinh lễ nghĩa”, đám cưới vàng, đám cưới bạc đã trở nên phổ biến Nhiều nhà giàu sẵn sàng chi tiền cho buổi tiệc đám cưới vàng, đám cưới bạc đình đám, gây nhiều ấn tượng cho hàng xóm và người tham dự. Nghĩ cho cùng, cũng không nên trách họ vì trong cuộc sống, tìm được người bạn đời như ý đã khó, để giữ cho cuộc sống hôn nhân hạnh phúc viên mãn lại càng khó hơn. Không dễ gì đôi nào cũng đi tới được cái mốc son KIM HÔN đầy hạnh phúc ấy. Vì vậy nếu có điều kiện, cũng nên kỷ niệm cái ngày hạnh phúc đó.

- Nhưng con cháu mình, chúng đâu có ở trong nước. Chẳng nhẽ sẽ gọi chúng đem nhau về tổ chức Đám cưới vàng cho bố mẹ, ông bà?

- Là nói chung thế, còn nhà mình thì sao lại thế cho được - Ông giáo già trầm tư khẽ nói - Việt Nam ta hiện giờ đang nằm trong top 10 quốc gia di cư ra nước ngoài nhiều nhất khu vực Đông Á – Đối với những người nghèo khó thì được ra nước ngoài dù trong thân phận xuất khẩu lao động, làm ô sin hay cô dâu bất đắc dĩ… vẫn là một giấc mơ đổi đời và họ sẵn sàng chớp lấy một khi có cơ hội dù phải đánh đổi bất chấp thứ gì như những đồng bào của họ từng dám liều chết hơn 40 năm trước đây khi đặt chân lên thuyền hướng ra biển cả. Những người lắm tiền nhiều của thì đang tìm cách ôm tiền ra ngoại quốc gây ra một cuộc tháo chạy mới ở Việt Nam . Đám quan chức , kể cả cấp chóp bu ở ta cũng đã và  đang lên kế hoạch đi “tị nạn” ở nước ngoài. Còn nói riêng về bọn trẻ đang tuổi ăn tuổi học thì con cái các quan chức, lãnh đạo… vẫn được âm thầm đưa đi du học ở Mỹ, Úc, Canada, Anh, Thụy Sĩ… với những chi phí lớn đi kèm như xe, nhà riêng… lên đến hàng triệu Mỹ kim. Trong bối cảnh ấy có thể nói, con cháu nhà mình đã ra nước ngoài bằng con đường sạch sẽ và tử tế nhất. Thằng Minh theo bố mẹ nó định cư bên Canada theo diện di dân đầu tư, sau bao tháng đợi chính quyền cả hai nước xét duyệt, khảo sát và phỏng vấn mới được chấp thuận. Con Thu chăm chỉ, kiếm được học bổng ở Úc, học xong tự xin được việc làm rồi được định cư và bảo lãnh bố mẹ và em nó sang. Chúng đang như những cánh chim trời ở các miền đất mới, sao lại bắt chúng nghỉ việc và tốn kém tiền nong về chỉ vì cái kim hôn của hai thân già chúng mình. Nên tôi tính mình sẽ kỷ niệm kim hôn trong lặng lẽ, nhớ về ngày cưới nhau 50 năm về trước trong niềm thủy chung son sắt với nhau và chúc phúc cho con cháu ở nơi xa vui khỏe và thành đạt. Chỉ thế và thế thôi, mình ạ!

Bà vợ âu yếm nhìn chồng và khẽ gật đầu:

- Em cũng nghĩ thế như mình!

4.

Rồi mùa xuân năm sau đã về đem đến ngày kỷ niệm 50 năm thành hôn của vợ hai chồng ông giáo già . Y hẹn năm trước, họ kỷ niệm kim hôn trong lặng lẽ. Buổi sáng, ông chở bà đi chợ rồi cả hai cùng vào bếp hý húi làm mấy món ăn họ cùng ưa thích nhất cho cả ngày. Thời gian còn lại, họ ngồi bên nhau mở tập ảnh đen trắng đã cất giữ mấy chục năm qua biết bao lần chạy mưa chạy bão và cả biết bao ngày chạy bom chạy đạn của máy bay Mỹ. Rồi họ ôn lại “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” của  mối tình đầu và cũng là mối tình sau cuối nhất của hai người. Nàng là con nhà thành phố xinh đẹp nết na, có nhiều nhà giàu sang quyền chức đã nhờ mai mối đánh tiếng xin nàng về cho con trai họ. Chàng là gã trai quê nghèo khổ, học xong được lên tỉnh làm thầy giáo. Thế mà vẫn yêu nhau, vẫn thành chồng vợ với nhau, cùng nhau khuya sớm làm ăn để nuôi dạy con cái nên người suốt một thời bao cấp đầy thăng trầm khổ ải chỉ với niềm mơ ước sinh tồn “Ăn no mặc ấm” chứ đâu dám nghĩ “Ăn ngon mặc đẹp” trong cảnh “Hai vợ chồng son, thêm hai con thành sáu” 

Và, suốt một ngày dài hôm ấy, chỉ một lần ông giáo già nghe thấy vợ thở dài rồi buồn buồn nói:

- Tự nhiên, em thấy nhớ các con các cháu quá, mình ạ! Không biết giờ chúng đang làm gì nhỉ?

Ông nhẹ giọng an ủi bà:

- Sao mà không nhớ chúng cho được. Nhưng mình đã hứa với nhau là chỉ kim hôn lặng lẽ  nên cố đừng nghĩ  tới chúng nữa.

Nhưng thật bất ngờ, sau bữa tối, khi  bản nhạc Ave Maria êm dịu thánh thót ngân lên từ chiếc đồng hồ cổ Odo treo tường, cả hai ông bà bỗng nghe tiếng chuông reo vang từ chiếc laptop đặt trên bàn. Ông giáo già bảo:

- Lại con cháu, đứa nào nó gọi đấy.

Nói xong, ông đứng dậy, cầm tay bà cùng đến ngồi bên bàn máy tính và nghe òa lên những tiếng reo mừng:

- Ông bà đây rồi.

Thì ra, các con cháu họ ở nước ngoài đang kết nối một cuộc gọi video nhóm miễn phí cho cả đại gia đình khiến hai ông bà cùng một lúc được gặp con trai, con dâu cùng hai cháu nội ở Canada với con gái con rể và hai cháu ngoại ở Úc. Căn phòng nhỏ lần lượt vang lên những lời tốt đẹp của con cháu chúc mừng đám cưới vàng của bố mẹ, ông bà khiến vợ chồng ông giáo già vui mừng và xúc động không biết nói gì với chúng. Phải giây lâu, bà mới nghẹn lời hỏi:

- Sao các con các cháu lại biết hôm nay tròn 50 năm ngày cưới của bố mẹ?

Anh con trai năm nay cũng vừa 50 tuổi thưa:

- Hồi ở nhà, hai anh em con đã mấy lần xem tờ giấy đăng ký kết hôn của bố mẹ. Con còn nhớ, đó là một tờ giấy mỏng màu vàng xỉn, có chữ ký của bố mẹ và dấu của UBND khu phố thời đó

Cô con gái kém anh ba tuổi bổ xung:

- Mặt sau tờ giấy đăng ký kết hôn ấy còn có ghi chú của mấy cửa hàng xác nhận đã bán phân phối đầy đủ cho cô dâu chú rể; 3 cân bánh kẹo, 1 tút thuốc lá, 2 gói chè loại hai, 1 chiếc giường ba xà. Có đúng thế không ạ?

Rồi con dâu con rể, cháu nội cháu ngoại, mỗi người mỗi tiếng mỗi lời hỏi chuyện về đám cưới ngày xưa của ông bà và chúc  ông bà sẽ nắm tay nhau hạnh phúc trọn đời khiến cuộc gọi video nhóm chỉ kéo dài hơn nửa giờ mà ông phải mấy lần lau mắt kính và bà phải mấy lần đưa khăn tay lên mắt.

Sau lời chào tạm biệt với con cháu, ông giáo già nâng chiếc ấm đã pha trà rót ra một chén ân cần đưa cho vợ:

- Mình uống đi, trà sen đặc biệt đấy chứ không phải chè loại hai hồi đám cưới ngày xưa đâu. Nhưng nghĩ lại thấy thật hay, chén trà loại hai hồi ấy, mọi người đến dự đám cưới đôi mình ai cũng nức nở khen thơm ngon.

Bà vợ cảm động, một tay đón chén trà từ chồng , một tay nâng ấm rót một chén trà khác trìu mến đưa cho ông:

- Mình uống cùng em đi, coi như đây là chén giao bôi trong đám cưới vàng hôm nay của chúng ta.

Ông giáo già đón chén trà từ tay vợ và thấy khuôn mặt bà hồng hào  ngời lên những nét trẻ đẹp như thuở đôi mươi:

- Xong chén giao bôi này, ta sẽ cùng nhau xem lại bộ phim Đám cưới vàng của Thư Mạn và Cảnh Trực đã xem từ mùa xuân năm ngoái, mình nhé?

- Những 51 tập, tối nay sao mà xem cho hết được, hả mình?

- Không phải là xem toàn bộ 51 tập mà chỉ xem tập cuối. Mà cũng không phải là cả tập cuối mà chỉ mấy phút của trường đoạn cuối phim thôi.

- Em nhớ ra cái trường đoạn ấy rồi: Cái phút mà Cảnh Trực rơi đầu xuống vai vợ chìm sâu vào giấc ngủ. Thư Mạn cúi xuống vai mình, nghiêng đầu nhìn chồng mỉm cười âu yếm. Và khi khán giả rời ghế ra về hết, bà từ từ ngả đầu xuống sát đầu Cảnh Trực, hoà chung vào giấc ngủ cùng chồng giữa những hàng ghế trống không của nhà hát, một giấc ngủ êm đềm hạnh phúc nhất trong 50 năm họ cùng nhau nghĩa vợ tình chồng…

Thế rồi, khi màn hình chiếc TiviSony 32 inch báo cái trường đoạn cuối Đám cưới vàng của phim đã hết thì một cơn gió bỗng lay động rèm cửa sổ, thổi vào căn phòng một làn se lạnh. Bà vợ ông giáo già đứng lên, đến bên tủ quần áo, lấy ra hai tấm áo len mỏng lại gần chồng, khoác lên vai ông một tấm và âu yếm bảo:

- Rét nàng Bân năm nay lại về rồi đấy! Mình mặc thêm áo vào, kẻo lạnh.

Ông giáo già cảm động đứng lên, cầm tấm áo còn lại trên tay vợ rồi nhẹ khoác vào đôi vai gầy của bà:

- Mình cũng mặc thêm áo vào đi, kẻo lạnh!

*

Sài Gòn cuối Xuân 2017

NGUYỄN BÀNG

Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn

Email: bnguyen37@gmail.com

 

Một Kiếp Người

 

Anh đã cho em nửa cuộc đời

Cho con phân nửa của phần tôi

Phần tôi phân nửa, phần phân nửa

Cho thơ làm tựa viết thành lời

 

Thế là, tôi đã cho, cho hết

Xin người, thơ phú chớ phụ tôi

Ngày mai khi trở về cát bụi

Bia tôi xin tạc  "Một Kiếp Người" .

 

Thủy Điền