*NNK 31- Đường Thi - Chủ Đề Biên Tái Kỳ 6 Của Nguyễn Ngọc Kiên (Hà Nội- VN)

 

Nhà Thơ Nguyễn Ngọc Kiên

 

ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI

(Kì 6)

 

 TS. Nguyễn  Ngọc Kiên  chọn dịch và giới thiệu thơ

Số trước chúng tôi đã giới thiệu một số bài TÁI THƯỢNG KHÚC và TÁI HẠ KHÚC (KHÚC HÁT NƠI BIÊN TÁI) của Lí Bạch, Vương Xương Linh. Số này chúng tôi tiếp tục giới thiệu chùm bốn  bài TÁI HẠ KHÚC của Lư Luân (Trung Đường).

 

Lư Luân 盧綸 (748-800) tự Doãn Ngôn 允言, người Hà Trung (nay là tỉnh Sơn Tây). Trong thời Đại Lịch, đời Đường Đại Tông, thi nhiều lần không đậu, sau có người tiến cử ra làm quan chức uý tại Văn Khanh, lần lần thăng đến chức Hộ bộ lang trung, giám sát ngự sử. Tham gia quân đội nhiều năm, thơ ông phóng khoáng, quan tâm nhiều đến đời sống nhân dân.

Lư Luân là một trong mười tài tử thời Đại Lịch (chín người kia là Cát Trung Phu, Hàn Hoành, Tiền Khởi, Tư Không Thự, Miêu Phát, Thôi Động, Cảnh Vi, Hạ Hầu Thẩm, Lư Đoan).

 

塞 下 曲 四 首 之 一 - 盧 綸

鷲 翎 金 僕 姑 

燕 尾 繡 蝥 弧 

獨 立 揚 新 令 

千 營 共 一 呼

TÁI HẠ KHÚC (BỐN BÀI KÌ I)– LƯ LUÂN

 

Thứu linh kim bộc cô 

Yến vĩ tú miêu hồ 

Độc lập dương tân lệnh 

Thiên doanh cộng nhất hô

 

Dịch nghĩa : 

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN

Đầu tiên là phát lệnh, kế tiếp là lập công, kế nữa là thoái địch, cuối cùng là ca khúc khải hoàn. 

 Mủi tên làm bằng lông con chim thứu 

Cây cờ thêu bằng đuôi con yến 

Đứng oai nghi lẫm lẫm ra hiệu lệnh 

Ngàn doanh trại cùng dạ rân 

 

Dịch thơ:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN

Tên Kim Bộc lông thứu 

Cờ đuôi én  rõ ràng 

Một mình  truyền lệnh mới

Nghìn trại cùng hô vang 

 

 

塞 下 曲 四 首 之 二 - 盧 綸

林 暗 草 驚 風 

將 軍 夜 引 弓 

平 明 尋 白 羽 

沒 在 石 稜 中

 

TÁI HẠ KHÚC KÌ 2 – LƯ LUÂN

Lâm ám thảo kinh phong 

Tướng quân dạ dẫn cung 

Bình minh tầm bạch vũ 

Một tại thạch lăng trung

 

Dịch nghĩa:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN

Trong rừng u ám cỏ lay động theo chiều gió 

Tướng quân đêm tối dương cung bắn ra 

Bình minh đi tìm dấu tên lạc 

Tên ngập sâu vào góc đá tới tận chuôi 

 

 

Dịch THƠ:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN

Rừng xám gió lay cỏ hải hùng 

Tướng quân đêm tối vội giương cung . 

Bình minh tìm dấu tên bay lạc 

Ngập tới tận chuôi đá lạnh lùng 

 

塞 下 曲 四 首 之 三 - 盧 綸

月 黑 雁 飛 高 

單 于 夜 遁 逃 

欲 將 輕 騎 逐 

大 雪 滿 弓 刀

 

Phiên âm:

TÁI HẠ KHÚC KÌ 3 – LƯ LUÂN

 

Nguyệt hắc nhạn phi cao 

Thiền vu dạ thuẫn đào 

Dục tướng khinh kỵ trục 

Đại tuyết mãn cung đao

 

Dịch nghĩa:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN

Trăng lờ mờ nhạn bay trên cao 

Vua Hung nô ban đêm phải bỏ chạy trốn 

(Tướng quân) muốn cưỡi khoái mã rượt theo 

 (Mà) cơn bão tuyết xuống rớt đầy cả cung đao 

 

 

Dịch thơ :

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN

Trăng mờ nhạn lượn tít trên cao

Vua Hung Nô đêm trốn vượt rào

Tướng quân muốn cưỡi ngựa rượt đuổi

Baõ tuyết rớt đầy cả cung đao.

 

 

塞 下 曲 四 首 之 四 - 盧 綸

野 幕 蔽 瓊 筵 

羌 戎 賀 勞 旋 

醉 和 金 甲 舞 

雷 鼓 動 山 川

 

Phiên âm:

TÁI HẠ KHÚC KÌ 4 – LƯ LUÂN

Dã mạc tế quỳnh diên 

Khương nhung hạ lao tuyền 

Tuý hoà kim giáp vũ 

Lôi cổ động sơn xuyên

 

Dịch nghĩa:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN

Ngoài hoang dã bày đầy những thức trân quý 

Chúc mừng chiến công đuổi rợ Khương Nhung 

Say xong để nguyên áo giáp nhảy múa 

Tiếng trống vang dậy cả sông núi

 

Dịch thơ:

KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN

Thức quý bày ra khắp cánh đồng

Tiệc mừng chiến thắng bọn Khương Nhung

Uống say nguyên giáp cùng nhảy múa

Tiếng trống rền vang dậy núi sông.

 

 

Chú thích :

 

Tái hạ khúc: tên bản Nhạc Phủ, ca khúc ở miền biên tái 

Kim Bộc Cô: tên tiễn 

Miêu hồ: tên cờ 

Thảo kinh phong: cỏ bị gió lay động 

Bạch vũ: chỉ tiễn (cây tên) 

Thạch lăng: góc hòn đá. Lý Quảng tướng đời Hán, đi săn thấy viên đá trong cỏ, tưởng cọp, bắn, ngập tận chuôi, nhìn lại là đá 

Thiền vu: tên của người Hung nô gọi vua 

Khinh kỵ: ngựa chạy mau 

Quỳnh đình: đình tiệc trân quý 

Khương Nhung: rợ tây Nhung bộ lạc Khương 

Lạo tuyền: khao lạo, ca khải hoàn 

Kim giáp: chiến bào

 

Nguyễn Ngọc Kiên

 

Kommentar schreiben

Kommentare: 0

 

Một Kiếp Người

 

Anh đã cho em nửa cuộc đời

Cho con phân nửa của phần tôi

Phần tôi phân nửa, phần phân nửa

Cho thơ làm tựa viết thành lời

 

Thế là, tôi đã cho, cho hết

Xin người, thơ phú chớ phụ tôi

Ngày mai khi trở về cát bụi

Bia tôi xin tạc  "Một Kiếp Người" .

 

Thủy Điền