Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

 

 

 

214 Nhặt Cánh Hoa Rơi

 

      Trong xã hội hiện đại ngày nay, dù điện thoại bàn hay điện thoại di động là phương tiện thiết yếu của con người. Có thể nói từ người già cho đến trẻ em dường như trong tay ai cũng có cái điện thoại bình thường hay quí giá cả. Điện thoại cũng có khi giúp được ta những điều gì đó, cũng có khi làm cho ta gặp phải những phiền muộn khác.

 

      Đi lòng vòng hết trang nầy đến trang nọ. Bỗng dưng tôi nhặt được một cánh hoa rơi, cánh hoa nầy thật đẹp và mang đầy những ý nghĩa thích ứng cho cuộc sống, nên tôi vội vàng mang về để tặng các bạn chiêm ngưỡng. Cánh hoa ấy là:

 

 

Ảnh NNB

 

      Cánh hoa nầy tôi nghĩ khi chúng ta đọc sơ hay cặn kẻ qua, chúng ta thấy rất là bổ ích vô cùng. Nó mang tầm vóc nhân đạo cao "Người khuyên người " Để phòng và tránh những hậu quả đáng tiếc mà ta vì bận rộn mà không biết hay không để ý đến.

 

      Với cánh hoa tuyệt vời trên, tôi hy vọng nó sẽ mang đến cho các bạn những hữu ích trong cuộc sống mà từ lâu cũng có những ai vì nó mà phải lâm lụy, nhưng không biết những nguyên nhân ấy xuất xứ từ đâu.

 

Thân ái và chúc các bạn chóng thành công.

 

Thủy Điền

29-09-2017

 

 213 Góc Trời Trống Vắng

 

Hơn một tuần nay, người ta bỗng dưng không còn nhìn thấy lão ăn mày và con chó đốm ngồi dưới gốc cột đèn đường trước cái Siêu thị lớn nữa.

Họ xì xào với nhau và đặt ra những giả thuyết:

1-    Người thì bảo: Có lẽ, trời vào thu, gió lạnh. Hắn tìm đến nơi khác ấm hơn để trú ẩn.

2-    Người hỏi người ? Hay là nhân viên trật tự thành phố đuổi hắn, không cho hắn hành nghề ở đây nữa

3-    Người thì tự đoán : Chắc là hắn đã qua đời và con chó đốm cũng được đưa vào Sở Thú y không chừng.

 

      Trải qua nhiều tuần lễ dài thì người ta được biết: Chuyện rất đau buồn của một kiếp người.

  

      Hắn không phải là loại bần hàn, khố rách vô gia cư. Mà hắn là con của một nhà khoa bảng, giàu có. Gia đình hắn có hai anh em, hắn là con trai lớn và một cô em gái nhỏ hơn hắn ba tuổi. Hắn được cha mẹ cho ăn học đàng hoàng, đỗ bằng Cử nhân Kinh tế và hiện đang làm việc tại một Công ty Thương mại lớn.

 

      Sau cái chết bi thảm vì tai nạn máy bay cách đây khoảng mười năm. Không may, cha mẹ và cô em gái hắn cùng bốn mươi bảy đồng hành khác bị tử nạn khi máy bay cấm đầu vào vách núi, trên chuyến bay du lịch từ Tây ban nha trở về  nhà.

 

      Vừa nhận được tin qua đài Truyền hình và Thông báo của Bộ ngoại giao, hắn cấp tốc trở về nhà. Thời gian chờ đợi tin mới….mới hắn như người cuồng loạn. Trong cơn đau, mất mát hắn dường như  là kẻ mất trí gần cả mấy tháng trời. Sau cơn khủng hoảng ấy, hắn suy nghĩ cạn cùng và cho đời mình bây giờ chẳng còn gì nữa.

 

      Khi cả nhà qua đời, hắn buồn quá và xin nghỉ việc tại Công ty luôn. Ở nhà được một năm, một mình giữa chốn quạnh hiu, thiếu can đảm và cuối cùng hắn quyết định viết đơn hiến tặng căn nhà cha mẹ để lại cho hội nhà thờ Công giáo thành phố và chỉ xin cấp lại một căn phòng nhỏ ngoài phố để tạm thân.

 

     Tưởng mọi chuyện đã yên, sau năm ấy hắn trả lại căn phòng và dẫn con chó đốm đi đầu đường, xó chợ, để rồi trở thành người Hành khất “Bất đắc dĩ “

 

      Qua bao ngày xuôi, ngược. Hắn chọn gốc cây cột đèn nằm trên cây cầu cạnh một Siêu thị lớn là điểm dừng chân cuối cùng.

 

      Thời gian- thời gian trôi qua cuộc đời của hắn giờ đây cũng khá hơn. Nghĩa là:

-         Sáng thức dậy là có ly Cà-phê To go và ba ổ bánh mì nhỏ (Hắn hai ổ và con đốm một ổ ) Kế tiếp là ngồi đọc sách và chờ người qua, kẻ lại bố thí chén cơm tình.

-          Đến trưa thì ghé vào mua một xuất cơm phần ra cột đèn hắn và con Đốm ăn chung và chiếu về cũng thế.

-         Khi cơm chiều xong, Siêu thị cũng vừa đóng cửa, đèn đường bắt đầu vương lên ánh sáng và cũng là lúc hắn và con Đốm chui vào hầm cầu để tìm chốn ngủ.

 

      Cứ thế mà hắn đã trụ trì nơi đây gần bảy năm trường. Một hôm trời bão lớn, cơn gió mùa thu nối gót theo sau chấn động cả một vùng trời. Rét ….rét căm căm hắn không đủ ấm, những cơn gió ấy đã lợi dụng ập vào cơ thể hắn. Hắn phải đành nhận lãnh cơn bạo bệnh. Giữa đêm vì không ai hay biết, không người cứu chữa, chẳng viên thuốc phòng thân, cơ thể không chống cự nổi và đành phải qua đời trong đêm ấy.

 

     Con chó đốm ngẩn ngơ, ngỡ như người đang ngủ, lúc đánh thức, lúc nằm queo mà chẳng thấy hắn hứ hà  như hằng đêm bên cạnh. Trời gần sáng, tánh quen thường. Lẽ ra cả hai cùng lên cầu để ăn sáng. Nhưng hôm nay…..sao kỳ lạ quá cứ hực hà chạy tới, chạy lui.

 

    Những ngạc nhiên ấy, vô tình người ta phát hiện ra dưới hầm cầu có lão ăn mày vừa mới qua đời trong đêm tối. Nhà chức trách đến mang xác hắn đi và con Đốm cũng ngỡ ngàng khi Sở Thú y cũng mang nó đi theo mà đời nó chưa bao giờ nghĩ tới.

 

      Thế là sau bảy năm con Đốm và cây cột đèn đường đã mất đi một người bạn chân tình. Nơi ấy bây giờ buồn lắm, nơi ấy bây giờ là một góc trời trống vắng.

 

Thủy Điền

23-09-2017

 

     

 

      

 

212- Quả Bần Xanh

 

(Thân Tặng Nhà Thơ Trần Mai Ngân

 

    Thường thường trước khi đăng bài lên mạng, hắn hay đọc bài của Tác giả phương xa gởi đến từ một đến hai lần. Nhưng không biết chiều qua mắc chứng gì hắn ngưng lại nhiều bài khác mà ngồi đọc bài của Tác giả TMN nhiều lần, rồi ngồi thả người ra- thở dài và nói: Sao người đẹp, xứ Vĩnh long chụp hình mà không cầm nhánh đầy quả Lôm chôm để khoe, ca ngợi những Đặc sản của quê mình cho mọi người được biết tới mà lại cầm một nhánh quả Bần xanh tượng trưng cho sự chua, chát. Thật là khó hiểu và chẳng biết ý của nàng nầy muốn nói gì.

 

      Sau khi đăng bài “Nói Dối “

 

NÓI DỐI

 

Đêm qua anh mất ngủ

Bởi nhớ em vô cùng

Biết rằng anh nói dối

Lòng em vẫn bồi hồi...

 

Sáng nay trong vườn sớm

Hoa Tường Vi đâm chồi

Anh nói: nhớ không yên

Đứng ngồi sao vô vị...

 

Cả đời anh mộng mị

Bởi vì anh yêu thương

Cả đời em vấn vương

Dù lời anh không thật ! 

 

Đêm qua anh mất ngủ

Bởi nhớ em vô cùng

Biết rằng anh nói dối

Lòng em vẫn bồi hồi...

 

TMN

 

xong. Hắn Mail trở lại, mời nàng xem và dậm thêm mấy câu “Tôi vừa đăng xong, nếu thấy có gì chưa vừa ý xin chị cho ý kiến, sẽ thêm, bớt lại để bài được hoàn chĩnh hơn. Và, hắn trêu thêm một câu nữa (Chẳng ngụ ý gì, chủ yếu vui thôi. Bởi, nàng cũng vui tính và hoà nhã) Hắn bảo: Chị à ! Lẽ ra thì chị phải cầm trên tay nhánh quả Lôm chôm thì hay lắm. Ai nào lại cầm nhánh quả Bần, thấy thế nào hả chị?

 

 

      Ngày kế, hắn đang đọc bài tiếp để chọn đăng, thì nàng Mail đến và vui vẻ trả lời. Bài em đăng làm bằng thơ tranh chị rất hài lòng và hãnh diện lắm. Rồi nàng tiếp theo mấy câu như sau:

Em ơi ! Lôm chôm là tượng trưng cho sự ngọt ngào, nó dành riêng cho những con người chân thật. Ở đây chị cầm nhánh quả Bần là ý chị muốn nói. Nếu ai mà dang dối, thì người ấy phải ăn hết những quả Bần chị đang cầm trên tay. Bởi, bản chất của nó là sự chua, chát, tượng trưng cho kẻ xấu. Nếu ai nói dối thì sẽ nhận những hậu quả ngay.

 

      Khi đọc qua những dòng trả lời trên, hắn nghĩ trong bụng “Chết cả đám hết rồi “ Cái nàng đất Vĩnh nầy nguy hiểm thật “ Chỉ một bức ảnh, một bài thơ mà nàng đã làm biết bao đàn ông trên cõi đời nầy nao núng.

 

      Nao núng ở chỗ nào?

 

Theo hắn nghĩ, dường như người đàn ông nào cũng một lần “Nói Dối “ Dù cố tình hay vì hoàn cảnh nào đó buộc họ phải nói dối mà sự nói dối nầy thường hay xảy ra trong lĩnh vực tình yêu ví dụ:

Muốn tỏ tình với một cô nào đó, bố thằng nào dám bảo “Anh đã có vợ, hay đang có người yêu, mà luôn bảo anh đang còn độc thân đấy em “ thì cô ấy mới chịu hay suy nghĩ lại, bằng không là ngoảnh mặt đi luôn ".

 

      Trầm một chút, suy tư, hắn tự thấy trong sự nói dối cũng chưa hẳn là hoàn toàn xấu cả, nhiều khi nói dối mà mình được người yêu hay được một việc gì đó, miển sao sự nói dối ấy đừng làm tổn hại đến kẻ khác quá đáng là được. Nhưng nghĩ thì nghĩ vậy, không biết người đối diện trước mình có chấp nhận hay không? Lại là một chuyện khác. Thôi thì, nói dối là một cái tội, nói chung, khỏi biện luận gì hết, xem ta là kẻ bại trận, hể ai nói dối thì phải đành chấp nhận chua cay, chấp nhận nếm mùi Bần. Như nàng đã gán.

 

Chiều về đứng bến, nhìn xa

Sông Tiền, sông Hậu là đà nước trôi

Dọc theo hai dãy cồn trồi

Bần xanh tươi thắm tuyệt vời bao quanh

Khuyên ai hãy cố giữ lành

Đừng mang dang dối dỗ dành hiền lương

Hãy yêu, hãy mến, hãy thương

Đem tình chân thật lót đường tương lai

May mà sẽ có một ngày

Ta về đất Vĩnh mồm nhai ngọt ngào.

 

Thủy Điền

17-09-2017

 

 

 

 

211- Dưới Gốc Mù U

 

   Sau hai mươi năm gặp lại Lan, bở ngỡ, bở ngỡ vô cùng. Cả hai đều bở ngỡ, hai đứa cứ đứng nhìn nhau mãi mà chẳng nói được lời nào.

 

      Nàng nhìn tôi trong ánh mắt nghẹn ngào và dường như đang thương hại tôi, thương hại người bạn cũ nhiều lắm. Bởi, nàng thấy tôi trông vất vả vì tôi bây giờ là anh nông dân ngày ngày vác cuốc ra đồng, ốm, đen với bộ đồ phèn rách nát, chứ không phải anh thanh nhiên bóng bẩy của ngày nào. Nhìn đôi mắt nàng chớm đỏ, tôi định kiếu từ để tránh những hoài niệm cũ hiện về. Nhưng nàng cố nén tôi thêm vài giây phút nữa. Trong bỗng chốc, tôi tự cảm, mình nên giả từ và đường ai nấy đi. Có lẽ ! Còn giữ được những giọt nước mắt lưu luyến trên bờ mi .

 

      Vừa gặp lại nàng tôi cũng thế, nhìn người xưa như là trong mộng, không cầm được nỗi xúc động. Tuy, nàng bây giờ đổi khác hơn xưa nhiều quá, so với tôi như núi cao, biển cả. Nếu không nghe tiếng anh Linh thì chắc hẳn không có cuộc gặp gỡ nầy. Vừa thấy nàng, mừng, tôi định hỏi han nhiều lắm ? Nhưng tự nhiên bị tắt nghẻn giữa chừng. Chỉ biết ừ ừ đôi ba tiếng rồi vội vã ra đi.

 

      Ngày hôm ấy trên cánh đồng đầy cỏ, lòng tôi chao động, bồi hồi, khó chịu như cơn sét đánh trước giờ trời sắp đỗ cơn mưa. Chẳng cuốc bẩm được gì cả, cứ nao nao muốn đi về để nhìn nàng thêm lần nữa. Nhưng thửa ruộng còn đây và nàng chắc có đợi mình nơi đầu cầu lúc sáng? Đau lắm, nỗi đau dằn vặt của một kẻ đã yêu thương thầm lặng gần cả hai chục năm trời.

 

      Tôi năm nay cũng hơn nửa đời người và nàng cũng thế. Cái tuổi luôn ăn sâu những kỷ niệm, khó mà quên được. Gặp lại nàng, bỗng dưng trí óc tôi thức dậy ngay cái đêm chia tay đầy nước mắt dưới tàng cây Mù u cuối xóm, để nàng phải theo gia đình đi xứ khác. Những hình ảnh ấy vẫn còn hiện rõ trong tâm trí như vừa đã xảy ra ngày hôm qua.

 

      Thời gian- rồi thời gian mỗi người có cuộc sống riêng. Người may mắn, kẻ sa cơ, đương nhiên là điều ai cũng cần phải chấp nhận, dù có đau thương đến mấy. Nhưng tôi luôn tiếc một điều khi tình yêu đang đẹp, đang dịu dàng rồi bỗng dưng lại ngã đỗ để cả hai phải ôm lấy nỗi sầu miên man mà mình không bao giờ muốn.

 

      Ngày gặp lại Lan. Ngày sung sướng, ngày đau khổ nhất trong cuộc đời của một người đàn ông ngoài năm mươi tuổi. Tuy, trong khoảnh khắc, tuy, trong vội vã, tuy, chưa nói được lời nào, nhưng cũng đủ bù đấp lại hai mươi năm trời thương nhớ. Dẫu biết rằng tình ấy đã phôi phai.

 

 

Gặp lại em trong phút giây b ngỡ

Lòng nghẹn ngào chẳng nói được một câu

Đau lắm em, Kẻ mang mối tình sầu

Mong em hiểu, thế là anh diễm phúc

Gặp lại em, anh rưng rưng nước mắt

Giọt lệ tình bng hiện rõ trên mi

Biết rằng em cũng chẳng sướng ích gì

Chắc có lẽ ! Cũng đau thương nhiều lắm

Thôi thì cứ cho tình mình là bạc phận

Ta gói lòng xin hẹn lại kiếp sau.

 

Thủy Điền

06-09-2017

 

 

 

 

210- Nương Tựa

 

  Liên tiếp sáu căn nhà người Việt nam và một căn nhà ông bà người Đức nằm dọc theo con đường Alexander Strasse. Chiều nào họ cũng xúm nhau ngồi dưới tàng cây to tâm sự, kể nhau đủ thứ chuyện trên đời. Họ thường hay thấy ông bà láng giềng khoảng 17.00 giờ chiều ăn mặc rất chĩnh tề, ôm eo ếch đi ngang qua trông rất tình tự và khoảng hai tiếng sau trở về cũng giống như thế, có khi họ còn gắn bó hơn lúc ban đầu.

 

      Mấy ông đàn ông hay trêu các bà, ở con đường nầy tổng cộng là sáu căn nhà mà chưa thấy bà nào thể hiện đúng nghĩa như bà Anna cả. Nếu ông nào mà được quan tâm như thế thì rất là diễm phúc và có lẽ năm bà khác sẽ học hỏi theo.

 

      Sáu bà áp nhau bảo: Các ông hôm nay điên lên cả à? Rồi cùng nhau ôm bụng cười một trận.

 

      Thật tình, chuyện ông bà láng giềng , già, thể hiện phong cách yêu thương đi ngoài đường là chuyện bình thường, không có gì đặc biệt cả. Chuyện nầy người Việt nam sống trên đất Đức ba mươi năm nay họ cũng thể hiện hàng lố, nhưng họ thể hiện ở nơi khác, chứ còn ở con đường Alexander nầy họ chưa bao giờ làm như thế. Chắc có lẽ họ mắc cở hay ngại ngùng vì đó.

 

      Một hôm có một người gặp bà Anna dọc đường. Ông ta hỏi? Thưa bà Anna, xin lỗi bà trước nhá, nếu câu hỏi làm cho bà không hài lòng hay có gì sơ sót mong bà bỏ qua. Ông cứ hỏi tự nhiên.

-Sống ở đây lâu năm, ngày nào chúng tôi cũng nhìn thấy ông bà rất là tình, vậy bí quyết nào bà có thể kể cho chúng tôi nghe được không, để chúng tôi có thể học hỏi ở ông bà được phần nào.

-Vâng, cảm ơn anh. Tôi sẽ trả lời những bí quyết của chúng tôi mà anh đang yêu cầu. Thật ra thì chẳng có gì gọi là bí quyết, mà là thói quen của chúng tôi từ khi mới lấy nhau đến giờ. Nếu tính đến nay là khoảng năm mươi năm rồi chớ có ít đâu. Mà câu chuyện cũng khá dài, mong anh cố gắng nghe.

 

     Thuở ấy chúng tôi còn trẻ, độ 20. 21. Giờ 70 quên hẳn rồi, chiều nào sau giờ làm việc, về nhà rồi đến quán bia nhậu cho khuây khỏa tinh thần, khoảng vài ba tiếng xong, về đi ngủ và  ngày mai đi làm việc tiếp. Tôi quen rồi yêu nhà tôi từ đấy, mỗi khi đến quán bia chúng tôi ăn mặc rất lịch sự, tay bên tay trông rất phấn khởi. Nhưng khi về cả hai đều say cả, quần áo te tua, không còn thẳng nếp nữa, tôi ngả nghiêng, ông nhà tôi cũng nghiêng ngả, phải mất một thời gian dài đi bộ thì mới mò đến nhà. Hồi ấy phải nói cũng vì bia rượu nhiều lúc thấy xấu hổ vô cùng. Có lúc say quá không còn biết vì cả, nhưng sáng hôm sau thức dậy người ta hỏi, ngại ngùng và quyết định xin thôi, không đến quán bia nữa. Nói thì nói vậy, nhưng cứ đúng chiều là con sâu rượu trong người bật dậy, thúc phải đến đó cho bằng được.

 

      Thưa anh.

Qua nhiều năm đi nhậu, tôi và nhà tôi rút ra được kinh nghiệm rằng. Trước khi đi thì vẫn giữ y như lúc ban đầu, nhưng khi về là phải gắn bó ôm thật chặt nương tựa vào nhau để giảm bớt và tránh được tình trạng té ngã dọc đường cũng như người ngoài sẽ không nhìn thấy những tánh xấu của mình bộc hiện. Một thời gian ngắn thử nghiệm như thế chúng tôi thấy có kết quả rõ rệt và cứ thế mà thực hiện cho đến ngày hôm nay. Ngoài ra tôi cũng nói thêm là chúng tôi có yêu nhau thật, có yêu thì mới sống chung, hạnh phúc đến ngày hôm nay. Nhưng không có dữ tợn đến thế đâu anh, chúng tôi già rồi năm nay tôi và nhà tôi đã 72 tuổi, có ít chi đâu.

 

      Cảm ơn bà Anna đã chia sẻ, thế là tôi đã hiểu. Xin cầu chúc cho ông bà luôn mạnh khỏe, sống bên nhau và ngày ngày được nhìn thấy sự nương tựa của tuổi già.

 

Thủy Điền

20-08-2017

 

209- Nhìn Người, Mà Nhớ Chuyện Ta

 

    Cả tháng nay, ngày nào cũng thế. Đúng 17 giờ 00 chiều, khi bước ra khỏi cổng là tôi cũng đều thấy cô Ysin ngồi bẹp dưới nền gạch như ăn vạ trước cửa chánh của Tổng Cục Địa Chất để chờ anh chàng Qian. Bỗng dưng tôi nhớ lại cách đây bốn mươi năm hoàn cảnh tôi cũng thế. Nhưng tôi và Ysin khác nhau ở chỗ nàng là con gái đang đợi chàng còn tôi là chàng con trai chận đầu, chận ngõ nàng con gái. Nói chung thì cả hai đều có mục đích là muốn cùng  người mình yêu đi suốt đoạn đường về.

 

      Nhớ ngày ấy, tôi yêu vợ tôi cũng khá vất vả lắm. Vì chúng tôi cùng học chung một khóa, một ngành dưới mái trường Xã hội Chủ Nghĩa. Như ai đã từng trải qua thời kỳ ấy thì cũng đều biết. Việc yêu đương trong trường học là bị cấm ngặt, nếu không chấp hành những luật lệ của nhà trường thì bị kiểm điểm và sa thải ngay. Một khi bị thải hồi rồi, về nhà thì chẳng biết mình phải làm gì, vã lại còn gây gánh nặng cho gia đình nữa là khác. Tôi biết rõ điều ấy hơn ai hết. Nhưng vì quá yêu nàng nên tôi tìm đủ mọi cách để được gần nàng và sẽ chiếm được trái tim nàng với bất cứ giá nào.

 

      Nàng là người quê quán gần trường nên mỗi chiều được về nhà ngủ, riêng tôi là người xứ khác đến như bao người khác đều phải ở nội trú tại trường. Bởi thế khi tiếng chuông vừa đỗ, tan học là tôi phải đi nhanh ra cổng trường thật sớm để đứng chờ nàng và cùng đèo nhau đi suốt đoạn đường hơn năm cây số, khi đưa nàng về đến nhà, tôi tạm chia tay và đi bộ ngược trở về trường năm cây số nữa, cộng lại một ngày tôi phải mất mười cây số và khi về đến trường thì trời đã nhá nhem tối. Cứ thế và cứ thế liên tục 730 ngày mà chẳng có chuyện gì xãy ra thật là may mắn vô cùng (cũng có lúc người ta tình nghi tôi và nàng đang yêu nhau, muốn đem chúng tôi ra kiểm điểm, nhưng không có bằng chứng rồi dần dà họ cũng bỏ qua luôn) Và, cuối cùng tôi cũng được nàng đáp trả lại một tình yêu chân thật để rồi chúng tôi trở thành đôi chồng vợ hạnh phúc cho đến ngày hôm nay.

 

      Những kỷ niệm thời tươi trẻ ấy tuy, có vất vả thật, nhưng. Ôi ! Sao đẹp vô chừng, mà tôi đã gói trọn và giữ mãi nó trong tâm trí suốt bốn mươi năm qua.

 

      Hôm nay và trước đây một tháng Ysin và Qian đã vẽ lại bức tranh ấy trước mặt tôi, khiến lòng tôi không khỏi chao động với tuổi đời ngã dần theo vầng trăng khuyết.

 

      Qian là một Kỹ sư vừa tốt nghiệp ngành Địa chất và cũng vừa được nhà nước Trung Quốc đưa sang Đức học tiếp Thạc sỹ, thời điểm nầy anh ta phải vào Tổng cục Địa Chất để thực tập, nghiên cứu cho Đồ án tốt nghiệp, còn Ysin là một Cử nhân Kinh tế. Hai người cùng học chung một tỉnh. Qua những lần giao lưu, họp bạn, họ đã yêu nhau và trở thành đôi tình nhân thật sự. Ysin học Kinh tế nên có rất nhiều thời gian, Qian tuy mang tiếng thực tập, nhưng phải cùng chúng tôi làm việc đúng tám tiếng mỗi ngày. Bởi thế từ ngày yêu nhau chiều nào nàng cũng đến chờ chàng về chung một thể.

 

      Qua hai khoảng thời gian xưa và nay. Mặc dù nó có khác nhau ở điểm nầy, điểm nọ. Nhưng nói về tình yêu tuổi trẻ thì nó cũng giống hệt, tương tự nhau thật đậm đà, tha thiết. Chính vì sự tích lũy ấy mà nhiều cuộc tình được trọn vẹn đến trăm năm.

 

Thủy Điền

 

05-08-2017

 

208- Nơi Bến Sông Xưa

 

   Còn độ khoảng hơn ba chục mét nữa là đò sẽ đến bờ. Trên bến lố nhố năm ba nàng con gái, tiếng lanh lảnh, giơ tay phất phất như chào đón và cất  tiếng “Anh Điền em nè “. Tôi đoán chắc là giọng con Thủy chớ không còn ai vô đây và vẫy tay chào lại.

 

      Thật đúng. Vừa đến bến, là nó nhào vào ôm chặt lấy tôi mà không ngượng ngùng. Mọi người đứng nhìn nỗi mừng nó đã dành cho tôi sau bao ngày xa xứ cũng muốn cảm động theo. Đoán giọng nó được là vì ngày còn ở nhà chơi chung với nó và mấy đứa bạn, nó là người lớn giọng nhất. Nhớ hồi ấy, lúc thấy nó vui tôi hay trêu, Thủy mà cứ cái đà nầy là ế chồng mất. Nó không giận mà chỉ hả miệng cười. Tại tính em vậy đó, ai ưng thì ưng, còn chê thì em ở vậy. Tôi cũng cười, Thủy nói thế là không được. Tính nầy cũng dễ sửa thôi mà.

 

      Hồi đầu khi xa quê, nó và mấy cô bạn cũng giận tôi nhiều lắm. Vì không một lời từ giả. Nhưng thời gian rồi nó cũng hiểu dần và thông cảm. Bỡi, đi vượt biên mà làm sao ăn mừng từ giả được ch, đi trong lén lút, trốn tránh lúc giữa đêm hơn nữa ngày ấy ai tin ai, lỡ vui miệng thì chết cả đám, nên đành lặng thinh và âm thầm ra đi. Bước lên tàu mà trong thân tâm thấy buồn và đau xót lắm, nhưng đành phải chịu.

 

      Qua những năm sống nơi xứ người, mỗi lần gởi thư về thăm nhà, tôi cũng hay gởi kèm để thăm bọn nó. Tôi nghiệp, mỗi lần nó viết thư sang thăm hỏi và hay rủ về một chuyến, đọc xong, thấy ray rứt vô cùng. Thú thật, trong đám bạn thì tôi quí mến Thủy nhiều nhất. Tuy bu lô, bu la, nhưng lòng rất tốt.

 

      Ngày qua ngày, công việc cứ lấn dần công việc, tự dưng tôi quên hẳn hai chữ Ngọc Thủy trong đầu. Tôi biết Thủy và các bạn cũng trách tôi nhiều lắm. Nhưng phương xa người ta quên mình, thì mình cũng chẳng để tâm làm gì.

 

      Cách đây hai năm vào dịp tết, tôi có về thăm quê nhà. Trước khi về tôi có cho gia đình hay trước, nhưng không biết sao những tin tức ấy đã lọt vào tai của Thy và các bạn ngày xưa.

 

      Mặc dù không có cơ hội đi đón tôi tại Phi trường Tân Sơn Nhất, nhưng các nàng đã chờ tôi từ lúc sáng nơi bến Đò Tân hội. Sự bất ngờ khiến tôi không cầm được những giọt nước mắt thâm tình. Gặp lại nhau trong nghẹn ngào, nhung nhớ Thủy chỉ biết ôm tôi và khóc như vừa tìm được cái gì mình đã đánh rơi.

 

      Không nỗi mừng nào bằng nỗi mừng hội ngộ, bao phiền giận tôi bấy lâu bỗng dưng tan biết mất. Thủy xem tôi y như những ngày nào còn tuổi trẻ, thân thiện và cùng tôi sát cánh suốt đoạn đường về đến nhà. Tôi cũng thế, vì mừng quá, tự nhiên quên mất cái gia đình bên cạnh. Mọi người cứ chăm chú cái tình anh em bất diệt mà dường như cũng xúc động theo.

 

      Qua ba mươi ngày làm Việt kiều về thăm quê, tôi cảm nhận ngoài gia đình không ai cho tôi cái tình thắm thiết như Thy đã dành riêng cho cá nhân tôi trong suốt cuộc hành trình. Cảm ơn Thủy nhiều lắm, cảm ơn người bạn bé nhỏ của tôi.

 

      Ngày trở lại xứ người, là ngày tôi lại phải xa Thủy lần thứ hai, thương Thủy nhiều lắm. cô bạn dễ mến. Và, ngẫm lại rằng dù ở đâu, phương trời nào ta cũng vẫn còn những người bạn cũng như mối tình đẹp mà suốt cuộc đời họ luôn luôn là kẻ chân tình trước sau như một dành riêng cho ta.

 

Một chiều

Gặp lại em

Nơi bến sông xưa

Giọt lệ đỗ như mưa

Tấm chân tình hiện diện

Đời còn thấy dễ ưa........!

 

 

Thủy Điền

 

01-08-2017

 

207- Đổi Chai

 

    Nó đang ngồi trên thềm ba nhà, tay cầm hai bịch kẹo, miệng nhai lia lịa, không thèm nhìn ai.

 

      Mẹ nó đi lễ nhà thờ về đến, thấy nó đang bận rộn với bịch kẹo. Hỏi ?

-Marc ! Kẹo ở đâu mầy ăn và có cả hai bịch thế?

-Con vừa mua ở Kios (Quán cóc) gần bên.

-Tiền đâu mầy mua?

-Con vừa đổi 10 cái chai mũ không mẹ để trong nhà bếp (Ở Đức mỗi chai nước uống phải thế chân 0,25 €).

-Hôm nay Chúa nhật, ai đổi cho mầy. Con nói láo với mẹ phải không ? Mà ai đổi cho con chứ ?

- Ông Nội.

 

      Khi nghe nó nói đến ông Nội xong, bà cười bà bỏ vào nhà.

 

  Thằng Marc có bản tính rất thích ăn kẹo, ăn đến nổi năm nay mới có sáu tuổi mà chỉ còn vài ba cái răng thưa thớt. Bởi thế khi biết được mẹ nó nhất định không mua dự trữ trong nhà sợ nó và thằng em nhỏ sẽ không còn cái nào. Chính vì thế mà nó lúc nào thấy ai ăn kẹo cũng thèm thuồng đến chảy nước vảy.

 

      Nhà nó ở gần chợ, thường ngày hay theo mẹ đi Siêu thị mua hàng và đổi chai, nó để ý và cũng tự đi đổi vài ba lần nên khá quen. Hôm nay thèm kẹo quá, chờ mẹ đi lễ nhà thờ, nó lén vào nhà bếp lấy mười cái chai định đi đổi, lấy tiền và mua kẹo. Nhưng nó quên mất hôm nay là ngày Chúa nhật Siêu thị đâu có ai làm việc đâu mà đổi. Đi thì cứ đi…..!

 

      Ông Nội nó đang làm cỏ trước sân, bỗng dưng thấy nó đi lơn tơn xách hai bịch mũ chai không đi về hướng Siêu thị. Ông bảo.

-Marc cháu đi đâu thế?

-Thưa ông cháu đi đổi chai.

 

Ông cười.

 

-Hôm nay Chúa nhật đâu có ai đổi chai cho con.

 

Nó bảo .

 

-Tại sao?

-Thì ông đã bảo là Chúa nhật, đâu có ai làm việc kia mà.

 

Thấy nó gương mặt sú sị, không vui, muốn khóc. Ông bảo tiếp.

-Thôi được, vào đây ông đổi cho, lấy tiền đi mua kẹo đi về ăn nhớ giấu mẹ, mẹ thấy sẽ bị đánh đòn nghe chưa.

 

      Cầm trong tay hai đồng rưởi, mừng quá chạy u sang quán Kios bên cạnh mua hai bịch kẹo và chạy một nước về nhà ngồi ăn ngon lành.

 

      Sáng hôm sau chờ nó đi học, ông Nội nó xách hai bịch mũ chai không sang trả lại cho m nó và bảo: Lâu lâu bây cũng mua cho nó ít kẹo ăn cho vui, con nít mà hay thèm ngọt, không mua luôn tội nó lắm. Hư răng- rồi sẽ mọc răng khác chúng còn nhỏ không sao.

 

      Và, chuyện xãy ra ngày hôm qua là điều vợ chồng con cần chú ý. Thôi ba về đây.

 

Thủy Điền

30-07-2017

 

 

 

206- Trứng Mà Sao Hơn Vịt ?

 

    Trên đường từ Siêu thị về nhà, hắn tấp vào quán rượu quen mua một chai rượu mạnh Napoleon. Gương mặt còn đang giận dữ, tay run run cầm tờ giấy bị đuổi việc, miệng lầm bầm: Té ra con quỷ cái chủ Siêu thi Việt Nam nầy cũng khá thâm độc nhỉ.

 

      Hắn là một người Việt gốc Hoa đi sang Đức theo diện đăng ký hồi năm 1978. Phải công nhận hắn là một con người rất siêng năng, đáng phục. Từ ngày sang Đức, sau khi học khóa sinh ngữ cơ bản là chín tháng, nhẩy ra hắn đi làm luôn đến hôm nay. Nói chung hắn chưa một ngày nào bị thất nghiệp. Trong khi những người khác cùng học chung với hắn xong, họ tà tà ở nhà lãnh tiền trợ cấp độ vài năm hay ít nhất là một năm thì mới chịu đi làm.

 

      Thời gian gần bốn mươi năm, hắn đã trải qua biết bao nhiêu công việc và công việc cuối cùng là người bán hàng tại một Siêu thị Á đông lớn do người phụ nữ Việt nam làm chủ.

 

      Nhân viên trong Siêu thị kể cả bà chủ là sáu người, mỗi người chịu trách nhiệm một bộ phận. Sau mười năm làm việc, Siêu thị càng ngày càng khá dần mà chẳng thấy bà chủ cho ai thêm một đồng bạc lương bổng nào cả. Nhiều lần hắn đại diện anh em nhân viên xin bà chủ lên lương, nhưng bà tìm mọi lý do khước từ lời đề nghị. Giận quá, một hôm hắn điều động anh em đình công, nghỉ ở nhà, không đi làm việc. Thế là Siêu bị bị đọng vì không có người làm việc, đành phải treo bảng trước cửa Siêu thị “ Cáo lỗi tạm đóng cửa một thời gian ngắn, diện lý do Siêu thị đang trong tình trạng sửa chữa “

 

      Mọi người ở nhà suy nghĩ, thế nào bà chủ cũng sẽ phải gọi đi làm lại và chắc chắn sẽ tăng lương, không còn cách nào khác. Nếu không bà xem như bị mất khách và sập tiệm ngay.

 

      Tiếng điện thoại reo từng nhà, giọng bà chủ rất ngọt ngào như không có chuyện gì xảy ra.

 

      Bà mong mõi mọi người hãy đến làm việc bình thường và sẽ có cuộc họp thống nhất chung.

 

      Đúng thế, khi mọi người đến làm việc trở lại, bà tỏ vẻ rất vui và tổ chức ngay cuộc họp để anh em nhân viên yên lòng. Trong cuộc họp bà nêu rõ những khó khăn của Siêu thị nên chưa giải quyêt ngay được những vấn đề mà anh em đã yêu cầu từ bấy lâu nay và hứa hẹn đúng sáu tháng sau bà sẽ làm cho mọi người hài lòng. Bà con khoái chí, vỗ tay. Thế là ta đã thắng rồi. Và, sáu tháng sau ta sẽ có đồng lương khác ngay.

 

      Hai ngày khi cuộc họp được thống nhất, bà trưng ngay một tấm bảng thật lớn trước cửa Siêu thị “ Cần tuyển nhân viên bán hàng “ Khi vừa trưng xong thì có người đến xin việc (Khá đông) Bà chọn chỉ một người, còn những người khác bà hẹn tháng tới. Bước đầu bà lựa người nào kém nhất trong Siêu thị bà cho nhân viên mới đến học hỏi người ấy, khi người mới có thể thay thế người cũ được phần nào, bà mời người cũ lên Văn phòng tìm mọi lý do và sa thải ngay. Thế là bà loại được một mũi nhọn.

 

      Qua tháng thứ hai bà nhận tiếp người khác và cứ trình tự loại từng người. Đến tháng thứ năm bà bắt đầu tìm mọi cách loại hắn. Lần loại nầy tuy khá khó khăn, nhưng bà có rất nhiều lý do như: Siêu thị bà đang trên đà dùng những máy móc hiện đại nhằm phục vụ kịp thời cho lượng khách đông mà hắn là người không có khả năng làm những việc nầy. Cuối cùng hắn cũng phải chịu thua và cầm tờ giấy bị đuổi việc ra về.

 

      Thế là năm móng tay nhọn trong vòng năm tháng bà lần lượt bẻ gãy và những nhân viên mới phải phục tùng dưới sự chỉ huy của bà như những người cũ khi Siêu thị vừa mới thành hình. Bà nói: Nếu có xảy ra như năm tháng trước thì mười năm sau mới được lập lại.

 

      Qua những ngày thất nghiệp. Hắn mới nhận ra trứng mà làm sao hơn Vịt được chứ.

 

Thủy Điền

26-07-2017

 

 

 

 

 

205- Chuyện Chiếc Cầu Đã Gãy

 

   Nguyên một tuần nay, ngày nào hắn cũng từ trên triền đồi chạy xuống đầu cầu, nhìn qua bên kia con suối lớn, khóc và bảo: Thế là mình lại dốt nữa rồi. Rồi quây lưng chạy một mạch về nhà, trông rất là tội nghiệp.

 

      Sau ba mươi năm giải phóng, cái buôn nơi hắn ở được nhà nước quan tâm và xây dựng cho cây cầu cây dài bắt ngang qua con suối rộng hơn năm mươi mét. Nơi đây xưa nay từ buôn nầy, muốn sang buôn khác người ta (Nói chung là người lớn) hay lội, bơi qua hoặc dùng những chiếc xuồng đẽo chèo bọc trên đầu suối thì mới qua được và ngược lại thì cũng làm y như thế. Riêng các trẻ em thì bó tay, đành đứng bên nầy nhìn sang bên kia mà cả thời thiếu niên chẳng biết bên ấy là cái gì. Thê thảm thật. Bởi thế, các em chẳng được học cao, chỉ võn vẹn hết bậc tiểu học mà thôi.

 

      Đúng ra thì người ta cũng muốn làm cây cầu nầy lâu lắm rồi, nhưng gì số hộ dân sống nơi đây quá ít, rải rác, nên họ cứ dùng dằng cho đến ba mươi năm sau mới thực hành.

 

      Hắn may quá, được lớn lên vào thời điểm nầy, nên sau khi hết bậc tiểu học, hắn được sang buôn bên cạnh để học tiếp bậc trung học. Ngày ngày hai buổi lần theo cây cầu cây qua suối đề tìm thêm ít vốn liếng chữ  nghĩa và có dịp, cơ hội được gặp gỡ nhiều bè bạn hơn.

 

      Suốt một năm dài qua cầu đi học, hắn ngỡ cuộc đời mình đã xa lánh được những ngày u tối. Thậm chí cả mấy em, những người trong buôn nay mai cũng thế.

 

      Nhưng không may, đời đâu có để yên, hôm tháng sáu vừa qua, khi trời bắt đầu vào mùa mưa, những trận mưa dầm xối xả kéo dài cả tuần, lượng nước lớn tuôn chảy từ những sườn đồi, lôi cuốn cả vùng đất gần chân cầu, trốc móng, sập ngả, gãy đỗ và cuốn theo dòng suối đi về một phương trời vô đnh.

 

      Trong ước mơ, hy vọng của tuổi trẻ đã tan tành theo mây khói. Cảnh cũ xưa đã hiện về trước mắt. Hắn và bao người bạn cùng buôn phải đành đứng bên nầy con suối mà trông về phía bên kia, nơi ấy có bạn bè và mái trường thân thuộc.

 

      Ngỡ năm ba ngày người ta sẽ xây lại và được tiếp tục đi học lại bình thường, nhưng cứ chờ mãi đến nay mà chẳng thấy. Nói thì nói vậy. Sự thật đâu có dễ, muốn làm lại phải có kinh phí và đòi hỏi thời gian chứ.

 

      Khi nghĩ đến những điều ấy, hắn tự dưng rơi nước mắt và tự nhũ lòng. Thế là, lại một lần dốt nữa. Có lẽ? Trời đã sắp đặt sn “Người bản thượng sẽ trở về với bản thượng “

 

Thủy Điền

23-07-2017

 

 

 

204- Xực Cháo Lậu

 

   Mặt trời gần đứng bóng. Mụ sẩm Muối mặt đỏ, hầm hầm, đi tới, đi lui tức giận. Cái lão Bành nầy chỉ có đi xực bát cháo lậu, dẫm ly Cà- Phê thôi, mà từ lầu sáng lến giờ vẫn chưa thấy về. Vậy là một  thúng giò cháo quẩy và mấy thùng cải chua của ngộ chắc phải tự xực hết quá, trưa trờ, trưa trật như thế nầy ai mà mua nữa.

 

      Vào những năm 77- 80 của thế kỷ trước, khi đất nước đã thâu về một mối, chiến tranh đi qua. Nói chung là hoà bình được lập lại. Lẽ ra hồi ấy tất cả cái gì cũng được tự do thì dễ thở hơn. Nhưng ngược lại, tất cả đều bị cấm. Mà hỡi càng nghiêm cấm, thì người ta lại càng làm chui nhiều hơn. Đó là sự cân bằng của cuộc sống. Nếu không làm chui, làm lén thì lấy gì mà nhai, chẳng lẽ ngồi chịu chết sao?

 

      Bởi khi có những lệnh ấy được ban ra, các người dưới cấp thi hành một cách rất tích cực, luôn luôn nghe ngóng, tìm tòi những ai đã làm sai những luật lệ nầy. Hầu bắt bớ, tịch thâu và lập thành tích.

 

      Lão Bành là một người Hoa kiều được sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, nhưng giọng nói vẫn còn người Hoa chánh cống luôn nói lợ lợ chữ nào dường như cũng có chữ (L) Đi đầu nhất là chữ Đ lão hay đọc thành chữ L và lão là một nạn nhân trong vụ việc như sao:

 

     Gia đình lão có cái nghề làm Giò cháo quẩy và muối Cải chua gia truyền. Ngày nào cũng thế, đúng tám giờ sáng là lão mang những thứ nầy ra chợ bỏ mối cho các tiệm nhỏ. Thấy công việc rất đơn sơ, nhưng lão kiếm được khá lời và nuôi sáu đứa con khỏe re. Trong khi một người Công chức hay một anh Nông dân làm lụng cả ngày mà nuôi hai đứa con rất là vất vả.

 

      Sáng nào cũng thế, khi phụ vợ chiên Giò cháo quẩy xong, chờ nguội, rỏ dầu để đi bán là lão ra đầu chợ ăn bát cháo đậu đen dưa mấm và uống ly Cà-phê rồi mới về mang hàng đi bỏ mối.

 

      Trên đường về, lão gặp ông Trưởng thôn và vài ba Du kích đang đi tuần tra đêm .

Bác Trưởng thôn hỏi ?

-         Ông Bành, ông đi đâu về sớm thế ?

-         Ngộ đi xực Cháo lậu

-         Cháo lậu bán ở đâu vậy?

-         Thì gần gần đây nè.

Bác Trưởng thôn nghĩ lão đi ăn cháo lợn về và gần đây hình như có người đang làm lợn lậu, định đến bắt và tịch thâu.

-         Xin ông vui lòng đưa chúng tôi đến đó được không?

-         Ngộ mậu thì giờ ló, ngộ phải về phụ a phò ở nhà ló. Nị có muốn xực thì cứ lến ló mà xực, nị lâu phải con lít lâu mà bắt ngộ lẫn lường.

-         Tôi bảo anh phải đưa chúng tôi đến đó ngay.

   Lão nổi nóng. Cự lại !

-Nị muốn xực thì nị li tìm mà xực. Tại sao nị bắt ngộ phải chỉ nị chứ. Nị cha ngộ à. Rồi bỏ đi một nước.

Ông Trưởng thôn càng nghi lão thêm

-Anh Bành, anh đứng lại, anh không khai và không hợp tác với chúng tôi, anh ngoan cố. Vậy mời anh về Trụ sở ấp làm việc.

-Li thì li Ngộ lâu có sợ, ngộ lâu có tội gì, muốn li xực cháo lậu, thì tự li mà xực. Tại sao bắt ngộ phải lẫn lến ló chứ, ở ló ai mà không biết. Rồi tự dưng bắt ngộ về bót, vô lý thật.

 

      Hai tay Du kích kè lão về trụ sở, bắt lão viết lời khai, lão đâu có biết viết tiếng việt đâu mà viết, chỉ biết nói  sơ sơ. Bởi, xưa nay lão chỉ được học ở trường tàu mà thôi.

 

      Chờ mãi đến trưa, ông Trưởng thôn chẳng thấy lão viết chữ nào nên hỏi?

-Anh Bành, anh định ngoan cố, che đậy người làm lợn gian đến chừng nào?

-Nị nói cái gì ?

-Ông Trưởng thôn đập bàn, tôi muốn anh khai, ai là người bán cháo lậu ngày hôm nay. Anh hiểu ý tôi chứ ?

 

      Lão ngồi im ru và nói thầm: Trời lất ơi, thét rồi xực cái gì cũng phải khai cái người bán, may mà lão A Tỷ ở gn lây, phải lão A Tỷ ở Chợ lớn chắc chết cha ngộ rồi.

 

      Sẩm Muối ở nhà trông đứng, trông ngồi chẳng biết lão đi đâu nên cùng các con đi kiếm. Thì té ra lão bị bắt và giam tại Trụ sở ấp.

 

      Vào đến, sẩm hỏi lão: Nị làm cái gì mà người ta bắt nị vậy?

Ngộ có làm cái gì lâu, trên đường về họ hỏi ngộ li lâu về sớm vậy. Ngộ cỏn, ngộ li xực cháo lậu về, thì bị bắt vậy thôi.

 

Sẩm quây qua hỏi?

-Ông Trưởng thôn ? Chồng ngộ li xực cháo lậu cũng không được sao, vậy mỗi sáng chồng ngộ lược xực cái gì ?

-Cái gì cũng được, nhưng không được ăn cháo lợn, ăn cháo lợn là tiếp tay cho ngững người mỗ lợn lén bà biết không?

 

      Thưa ông, chồng ngộ không có xực cháo lợn mà chồng ngộ xực cháo đậu đen, tại chồng ngộ nói tiếng việt không có rành , giống y ngộ vậy ló.

Thì ra, tôi hiểu.

 

      Vậy chúng tôi xin lỗi ông bà và ông Bành có thể ra về được rồi. Lần sao tôi hỏi xin ông từ từ giải thích cho tôi nghe để tránh phiền hà như hôm nay.

 

Dậu.

 

Thủy Điền

19-07-2017

 

 

 

 

 

203- Đêm Miên Man

(Hay Xem Như Là Của Ta)

 

    Sau đêm miên man. Sáng thức dậy, Casar đã chuẩn bị cho nàng một mâm nhỏ ăn sáng và bình Cà-phê sẵn, rồi vào phòng nằm nghỉ tiếp. Vừa ăn sáng, vừa uống Cà-phê , nàng bảo thầm: Mình có ác với ông ta không thế? Đã như vậy, mà ông ta vẫn lo cho mình chu toàn. Trong chuyện nầy ông làm ngơ hay là ông không biết ?

 

      Khi bà qua đời, là lúc ông cũng vừa được nghỉ hưu. Ông lúc ấy 67 tuổi đời, chẳng có con cái chi cả. Với căn nhà rộng thênh thang một mình, một bóng, thật cô đơn, ngày ngày chỉ biết ăn và ngủ hoặc đi dạo vòng quanh các ngõ là cùng. Hai năm sau khi bà mất ông cảm thấy cuộc sống rất cơ cực từ mọi phía. Ngồi nghĩ định tìm một người bạn gìa để níu kéo lẫn nhau vào lúc xế chiều, nhưng đợi mãi chẳng thấy bóng ma nào ve vãn đến với mình.

 

      Trong một tiệc rượu chiều, tình cờ ông được một người bạn có vợ người Thái Lan, giới thiệu cho ông cô em vợ đã một lần qua cầu, trẻ, xinh nhỏ hơn ông 30 tuổi. Nghe có người đàn bà muốn đến với mình, lòng ông thấy cũng vui, nhưng ngặt có điều cô ta còn trẻ quá, ông hơi lo và cuối cùng thì ông cũng chấp nhận.

 

      Người đàn bà Thái hiện đang ở Bangkok, lỡ dỡ chuyện tình, có một đời chồng và một cậu con trai còn đỏ hỏn,  cô muốn xa lánh cảnh đời đen bạc mà đi xứ khác. Được tin người chị từ Đức điện về, cô ta liền chấp nhận- lập thủ tục và được sang Đức sống với Casar.

 

      Mấy năm đầu nàng có vẻ trung thực yêu Casar, dù ông ta tuổi đáng cở cha mình. Hai người yêu thương, hạnh phúc. Sau hơn một năm sống với nhau nàng sinh được một cậu tây lai Marcus thật khá khỉnh và xinh đẹp. Song song, nàng cũng bảo lãnh được cậu con trai riêng của mình lớn hơn Marcus một tuổi rưởi cùng sang Đức. Thế là gia đình Casar từ chỗ cô đơn bỗng dưng biến thành nhộn nhịp.

 

      Càng lúc Casar càng gìa đi, tuổi đời của nàng cũng dâng theo, nhưng khoảng cách thì vẫn còn y. Những ngày già Casar chỉ biết ngồi trong phòng lặng lẽ, để mặc cho bà vợ muốn làm gì làm, ông chẳng hề đá động. Miển hàng ngày ông có hai buổi cơm và có người chăm sóc cho ông là đủ rồi. Ngoài ra ông cũng chẳng cần thứ khác.

 

      Sống càng lâu trên mảnh đất quê người, nàng dần dà quen biết được rất nhiều những cô bạn đồng hương. Trong những lúc buồn bã họ thường hay tập trung nơi quán Karaoke của người Thái để khỏa khuây và nàng đã quen được anh chàng bồi bàn cũng người Thái. Qua những lần giao du tình cảm nàng đã có thêm được một cậu con trai nữa, thế là nàng được cả ba. Nhưng đặc biệt hơn cậu con trai nầy hoàn toàn chánh tông người Thái không như anh chàng thứ hai đầu vàng mũi tẹt.

 

      Ngày sanh Nobert, Casar tuy không nhìn thấy rõ hết, vì đã tám mươi sáu tuổi rồi. Nhưng chàng rất vui mừng, vì mình từng tuổi nầy mà lại thêm được cậu con trai thật là diễm phúc và hiếm có. Chàng luôn tự nhũ, nếu mình có qua đời đi nữa, thì cũng còn lại trên đời nầy những giọt máu của Casar và chúng có thể và còn cơ hội để lo cho mẹ nó trong những lúc xế chiều.

 

Thủy Điền

16-07-2017

 

 

 

202- Người Tình Trong Ngắn Ngủi   

 

    Sau đêm ân ái, nàng chợt nghĩ ra mình không thể tiếp tục với Dieter được nữa, phải chấm dứt ngay là biện pháp tốt nhất. Bởi, chàng đã có cô con gái riêng cùng Ela. Dù quyết định hơi sớm và có vẻ ích kỹ, nhưng sẽ tránh được những phiền phức về sau.

 

      Giữa khuya, đêm dạ hội cuối tuần trở nên ồn ào hơn, Karin nhìn thấy một người đàn ông lạ đang ngồi gục đầu bên chai rượu, trông có vẻ buồn thảm và sầu đời lắm. Đang nhẩy với người bạn gái, nàng xin lỗi, rồi bỏ ngang và tìm đến người đàn ông lạ, làm quen. Hai ly rượu được rót đầy, tâm sự đến suốt gần hai tiếng đồng hồ. Họ dường như đồng cảm và kể cho nhau nghe tất cả về mình. Đêm dần sáng- dần sáng, rượu cũng cạn dần, tay liền tay dìu nhau lên chiếc Taxi và phóng thẳng về nhà chàng. Trong giây phút quây cuồng theo men rượu và tình yêu, nàng chẳng nghĩ gì ngoài chuyện ái ân. Chàng cũng thế và xem như nàng là vị cứu tinh khi cuộc đời đang lỡ bước.

 

      Qua đêm- sáng thức dậy, chàng còn say ngủ, nàng tỉnh táo trở lại. Tay để vào trán. Tuy biết chàng là người cũng rất đáng thương và cũng đáng dâng tình. Nhưng không thể được, phải chấm dứt ngay và chỉ xem như người bạn bình thường là hay nhất. May mà còn tránh hậu họa về sau, khi yêu nhau rồi, chàng mỗi tuần lại bảo “Hôm nay anh bận phải đưa con đi phố mua sắm hay chăm sóc con sau những ngày xa vắng. Để nó còn nhớ và biết đến bố.

 

      Thật tình thì nàng nghĩ cũng đúng, nàng sợ Dieter sẽ chia xẻ tình thương của chàng dành cho nàng và cô con gái. Dầu biết thế, nhưng nàng quyết định quá vội cũng như tỏ ra mình quá ích kỷ trong tình yêu. Trước khi quyết định nàng quên rằng nàng cũng là người đàn bà vừa xa chồng cách đây gần hai tháng, chớ nàng có nguyên vẹn gì đâu.

 

      Hai sợ dây bị đứt đã được nối lại trong đêm dạ hội, ánh sáng phòng trà đã chứng minh điều đó và hy vọng sợi dây ấy dù không nguyên thủy, nhưng cũng sẽ tồn tại được dài lâu. Ai ngờ ! Phía bên đứt kia lại còn một gút mắt mà không sao tháo gở được. Thật trớ trêu.

 

      Dieter là người bạc số thật, sau năm năm lập gia đình với Ela và sanh được cô con gái khá khỉnh hơn ba tuổi, rồi nàng bỏ đi. Để lại cảnh nhà cô độc chỉ có hai cha con võn vẹn. Ngỡ cuộc sống sẽ kéo dài theo năm tháng. Nhưng một hôm lại gặp được Karin, người cùng cảnh ngộ, tưởng cuộc đời sẽ qua đi những ngày đen tối. Nhưng rồi……….!

 

      Sáng thức dậy, nàng đi mất, chỉ để lại những dòng chữ đau đớn nơi bàn khách “Peter, xin lỗi anh, chúng ta không thể tiếp tục, và chỉ xem nhau như bạn mà thôi “ Em vì bận việc phải về sớm, chúc anh ngủ ngon.

Ký tên Karin

Người tình trong ngắn ngủi.

 

Thủy Điền

12-07-2017

 

 

 

 

 

 

201- Căn Nhà Cuối Bãi

 

   Gần hai năm nay, khi ông bà Robert đột ngột qua đời, căn nhà bổng nhiên bị bỏ hoang, trống vắng, cây lác mọc um tùm, không lối vào. Thật là hoang uổng.

 

      Ông bà Robert là một thương gia giàu có, cách đây mười năm trước khi về nghỉ hưu, ông bà đã mua miếng đất gần cuối bãi và xây một căn nhà lộng lẫy để hưởng già cùng hai người con trai. Khi căn nhà được cất xong, chiều cuối tuần hay những ngày lễ nào họ cũng thường đưa gia đình đến đây để hưởng những làn gió mát, trong sạch một cách đều đặn như đi nghỉ hè. Sau đúng mười năm như dự định họ bán tất cả những cơ sở cố định và dọn hẳn về cuối bãi nầy để ở. Cuộc sống họ rất hạnh phúc và an nhàn với những ngày còn lại.

 

      Trong những giây phút ấy, họ ngỡ những đứa con họ học xong sẽ làm việc ở quê nhà và sống chung cùng họ. Nhưng khi thành đạt xong, chúng mỗi kẻ mỗi nơi không như ý muốn lúc ban đầu. Mỗi năm chúng chỉ về lại ba lần đó là ngày Sinh nhật bố mẹ và ngày Giáng sinh, còn bấy nhiệu là bật tâm cá, nhạn.

 

      Thế thì ông bà đành phải ở cu ki một mình nơi đèo heo hút gió. Tuy, không có con gần bên, họ cũng thấy buồn, cô đơn. Nhưng ngược lại họ cảm thấy thích thú với khí trời tươi mát, không ồn ào và không nhìn thấy những gì mình không muốn thấy đang diễn ra và hiện hữu phía bên ngoài.

 

      Khổ thay hơn, khi vừa ra ỡ được năm năm thì bà Robert trở bệnh nặng và qua đời sau những ngày cơ cực ấy. Căn nhà chỉ còn lại một bóng cô đơn. Buồn, nỗi buồn tràn dâng, nhiều lúc ông muốn bán đi căn nhà và trở ngược về thành để ở, hầu còn hưởng được chút vui vẻ của cuộc đời hay khi bệnh hoạn thì cũng có nhanh người cứu giúp. Cứ nghĩ đi, nghĩ lại những tháng dài và cuối cùng ông quyết định ở lại, bởi tuổi đã già rồi ở đâu cũng thế. 

 

      Thật cái gì rồi cũng đến. Thời gian- thời gian cứ liên tiếp qua mau vùn vụt. Số mạng con người đâu cưỡng lại được trời và ông đã theo bà sau mười năm xa vắng. Ngỡ cha mẹ qua đời các con không ở tiếp, sẽ bán đi. Ai ngờ! Chúng vẫn để y và không chịu nhường lại cho ai cả. Cứ để cho mặc gió mưa, cây cỏ tha hồ hôn hít, đã gần hai năm nay mà không một bóng người lui tới.

 

      Không hiểu chúng thương cha mẹ để làm kỷ niệm hay mặc xác trời.

 

Thủy Điền

14-07-2017

 

200- Người Ăn Mày Tiến Bộ

 

   Trước tháng tư năm 1975. Không phải riêng tôi, mọi người ai cũng thế. Nếu có dịp đi từ lục tỉnh lên Sài gòn- Chợ lớn và ngược lại đều cũng phải đi ngang qua cầu Bến lức. Chắc hẳn vẫn còn trong tâm trí hình ảnh, tiếng hát, tiếng đàn của cha con người hát dạo ven đường.

 

      Mỗi khi xe dừng lại để hạ khách hoặc rước khách lên cũng đều nghe những bài ca quen thuộc như: Mưa rừng “Mưa rừng ơi ! Mưa rừng, hạt mưa nhớ ai mưa triền miên, phải chăng mưa buồn vì tình đời, mưa sầu vì lòng người, duyên kiếp không lâu” Và vài câu vọng cổ “Mỗi khi có dịp xuống Hậu giang và đi ngang qua cầu Bến lức, tôi vẫn thường nghe não ruột của em bé ngây thơ hát dạo ở bên…. đường. Cầm chiếc gậy tre em dắt theo một ông lão tật nguyền” Rồi dăng dẳng thêm câu “ Họ nhạc sỹ, tôi cũng là nhạc sỹ. Đời của họ rày đây mai đó, còn đời của tôi thì sương gió lâu rồi “ Nghe rất là hay, rất là buồn. Chính vì lẽ ấy mà ai cũng động lòng và đành phải móc túi voan.

 

      Hồi ấy cha con ông chỉ võn vẹn có cây đàn Gitarre cũ kỷ, một cây gậy tre, một cái lon kiếm sống, lây lất qua ngày. Người qua đường ai cũng thấy tội nghiệp và phải đành nhũ lòng bố thí cho vài đồng. Nhiều người cộng lại thế là cha con ông đã sống được một ngày, có khi còn dư chút đỉnh để hậu họa khi trời giông tố.

 

      Ngày nay lại khác, tiến bộ hơn. Năm 2014 tôi về thăm quê và gia đình. Cũng con đường ấy, cũng tuyến đường ấy, nhưng không phải là cầu Bến lức, mà là một ngã tư để rẽ vào đường cao tốc. Bây giờ những người nầy tiến bộ lắm, về cách ăn mặc thì vẫn như xưa cũ có điều kỹ thuật hát dạo thì tối tân hơn như: Họ dùng đàn điện, gắn hai cặp loa thật lớn treo trên cây cổ thụ, hát vang dậy cả làng. Đặc biệt họ không cần phải hát miệng cho mệt hơi, nhiệm vụ cứ ngồi chờ, khi xe đến- dừng lại là mở CD lên là có tiếng nhạc được thâu sẵn ngay. Song song có những đàn em cầm lon đi dọc theo hai hông xe với gương mặt thiễu não hay đội chiếc nón bành gục mặt để  những người khách qua đường nhìn thấy sự khổ sở của cuộc đời mà không thể nào bỏ lơ được, rồi cứ quyên vào cái lon đó thế là xem như mình đã cứu vãn được phần nào nỗi đau của xã hội. Mỗi ngày, mỗi tháng có hàng  trăm, hàng ngàn chiếc xe dừng lại và họ đều làm như thế. Đến chiều tập họp lại là họ đã có số tiền to. (Tóm lại người ăn mày bây giờ chẳng phải cực khổ chi hết. Họ giống như những nhân viên thâu thuế cầu may.

 

      Xe đi qua- đi qua nhiều ngã tư và bến dừng khách khác, tôi nhìn thấy nơi nào cũng có những tổ hợp nho nhỏ như thế và họ làm ăn có vẻ chuyên nghiệp lắm.

 

      Vì ở nước ngoài nhiều năm, tôi hay có thói quen là hỏi “Được phép hay không được phép “ Xoay qua người đồng hành tôi hỏi? Làm như thế có được phép không hay làm đại, làm liều. Người ấy trả lời họ không biết. Nhưng ở đâu cũng có chủ cả. Thử người xứ khác lại hát, đàn để kiếm cơm coi . Có lẽ và chắc chắn chiều khó mà về lại quê nhà và nếu có về được thì thân xác chẳng còn nguyên vẹn.

-Thật hãi hùng thế à ?

-Thử đi là biết liền.

 

      Nghe qua thì mới hiểu, có nhìn thì mới thấy. Người ăn mày bây giờ tiến bộ lắm và dường như họ không phải là những người hành khất nữa mà là một cái nghề để sống.

 

Thủy Điền

06-07-2017

 

 

 

 

 

199- Đu Đủ Mõ Vịt

 

   Gần đến giờ cúng rồi, chỉ còn một món gỏi đu đủ tép nữa là xong. Thế mà không biết con nhỏ Lan nầy nó mua tận nơi đâu mà từ sáng đến giờ chẳng thấy về. Mọi người làm bếp cứ chắc lưỡi, hít hà trông đợi.

 

      Xưa nay mỗi lần đình đám, việc lớn, việc nhỏ trong nhà kể cả việc đi chợ đều có mẹ lo hết, bà ít khi nhờ vả đến ai. Riêng Lan và các em chỉ biết ăn, vui chơi, đi học chớ đâu có biết gì về ba cái bếp núc và tệ hại hơn là mẹ chưa hề cho cầm giõ tự đi chợ một lần. Không phải là bà chê vụng về, bởi bà sợ người ta thấy không biết, gạt gẫm bán hàng không tốt, đắc giá. Nhưng không hiểu sao hôm nay tự dưng mẹ đưa mười đồng bảo ra chợ mua đu đủ mõ vịt. Chắc có lẽ nhà thiếu người hay bà muốn chứng minh cho những người thân và láng giềng biết rằng con gái bà cũng rành rẽ việc nội trợ lắm.

 

      Thật lòng thì từ nhỏ- đến lớn Lan thường hay nghe thoáng qua danh từ đu đủ mõ vịt, nhưng nàng cứ lơ đi và chưa nhận thức rõ nó như thế nào. Hôm nay đụng chuyện, trước khi nhận tiền mẹ đi chợ, nàng hồi hộp vô biên, giữa đám đông nàng giả bộ tỉnh bơ, tuân lệnh rồi xách giõ ra đi.

 

      Đến chợ. Nàng đi tới, đi lui cả bao nhiêu bận, cả bao nhiêu lần mà chẳng thấy quả đu đủ nào có cái mõ hình con vịt, nàng vô cùng bối rối . Lẽ ra nàng phải hỏi trước mẹ hay người bán hàng, may ra còn biết và người ta giúp được điều gì. Nhưng vì quên và ngại, nên nàng cứ quanh quẩn gần cả buổi trời ngoài chợ và cuối cùng mua được mấy quả đèo đẹt có hình thù như con vịt mang về. Bao người bán hàng thấy cũng lạ, nhưng bán được số vụn vặt là họ đã mừng rồi và không cần hỏi tới, hỏi lui cho phí thời gian.

 

      Mọi người ở nhà cứ trông đứng, trong ngồi chờ nàng về để kịp làm cho buổi cúng, nhưng chẳng thấy đâu đâu. Ai ai cũng chắc lưỡi, hít hà không biết nàng mua tận chốn nao.

 

      Về nhà. Nàng trưng ra một giõ, toàn là những quả đèo đẹt, ngoằn ngoèo, những thứ người ta có thể vứt đi. Cả nhà ai ai cũng chưng hửng và cũng chẳng biết phải nói thế nào. Bà thấy thế nên chạy lại đỡ cho con gái vài câu. Có lẽ hôm nay chợ không có đu đủ nên cháu mua tạm thế. Thôi, ta có gì dùng nấy, ông bà không chấp đâu. Rồi khều nhẹ Lan vào phòng và bảo:

-         Lan nầy ! Đu đủ mõ vit là loại no tròn phía đầu quả có màu ửng vàng (Tóm lại quả đu đủ già và vừa bắt đầu chín, chứ không phải hình thù ngoằn ngoèo như con vịt. Lần sao con nhớ để ý.

-         Sao mẹ không nói trước cho con biết, đến giờ mẹ mới nói.

-         Xin lỗi con, vì mẹ quá bận nhiều việc cho ngày giổ hơn nữa mẹ nghĩ con đã biết từ lâu.

 

Vâng, cảm ơn mẹ.

 

Thủy Điền

 

02-07-2017

 

198- Sau Đêm Phi Vụ

 

      Đang ngồi ăn trưa. Bỗng có tiếng Điện thoại reo. Kathie nhấc máy. Đầu máy xin thưa: "Đây là chương trình tìm kiếm thân nhân ". Dạ, cô chờ cháu nhé.

-Mẹ ơi ! Mẹ có Điện thoại đây mẹ. 

-Vâng, mẹ đến ngay.

-Chào chị.

-Chị đang có tin vui đây. 

   Rồi hai người cùng trò chuyện với nhau gần hai mươi phút. Khi điện thoại xong, bà trở lại bàn ăn với gương mặt khó chịu. Vừa ăn, vừa nói:

-Phải biết trước, tao chả thèm tìm bố mầy làm gì cho mệt thân và phiền hà tới nhiều người khác quá. Nhục ơi là nhục.

-Sao mẹ lại nói thế. Hồi đầu chưa tìm được bố thì mẹ khóc, bây giờ mới vừa tìm được thì mẹ lại mắng bố. Con chẳng hiểu mẹ như thế nào.

 

      Ngày ấy, tao ngỡ bố mầy nhớ quê, muốn về, nói ra sợ tao ngăn cãn nên âm thầm về và mười mấy năm nay tưởng ổng ở lại luôn bên ấy luôn. Ai ngờ ! Ông ta ngồi tù bên Đức mà không hay và mới được trả tự do gần mấy tháng nay. Thử hỏi có chịu thấu không? Mà bảo tao đừng nổi điên lên chứ.

 

      Năm 1988 Tín được nhà nước cho sang Tiệp Khắc theo diện "Hợp tác lao động " Sau một năm hắn quen Monika- lấy nàng làm vợ và sanh được cô con gái Kathie.

 

     Chiều mùa hè năm 1991, khi ăn buổi cơm chiều với vợ xong, Tín bảo vợ, em để  anh đi cùng với vài người nữa sang Berlin thăm lại số đồng đội cũ, lâu nay không gặp anh nhớ quá, nay sẵn có cơ hội, khoảng đôi ngày là anh về lại với em ngay. Monika chìu chồng và để chàng ra đi.

 

      Thật lòng thì Tín cũng chẳng nói giấu gì với vợ, hắn dự định thực hiện xong phi vụ rồi sẽ quây về.

 

      Hoàng hôn hôm ấy hắn cùng ba người bạn đi trên chiếc Auto sang Đức, ước lượng sáng sớm sẽ đến Berlin. Khi đến nơi các Thủ lãnh giao nhiệm vụ là phải trót lọt nguyên một xe thuốc lá Marlboro từ biên giới Ba Lan về Berlin là xem như hoàn thành nhiệm vụ và trở về Tiệp Khắc ngay. Những lần trước chuyến nào cũng đều lọt cả, nhưng không biết sao lần nầy có hắn tham dự lại gặp một tai nạn rất lớn. Đó là bọn cướp chận đường phỏng tay trên giữa xa lộ. Trước tình thế nguy ngập để cứu chuyến hàng, Tín và đồng bọn đã nổ súng và đối phương đành phải ngã gục. Sau vụ việc, cả bọn chạy thoát thân, nhưng Cảnh sát Đức đã bao vây các ngõ, Tín và đồng bọn bị sa lưới và chuyến hàng xem như mất trắng.

 

      Ngày ra toà, Tín không phải là kẻ chủ mưu nên lãnh án hai mươi năm tù còn lại những người khác từ ba chục năm đến chung Thân về tội sát hại năm người cùng một lúc.

 

      Thế là hai ngày hôm sau Tín không về lại với Monika nữa, chàng nhất định không khai nơi chốn mình ở. Monika ở nhà chờ mãi- chờ mãi, chờ từ lúc con Kathie một tuổi mà nay nó đã mười tám tuổi đời. Mười bảy năm xa vắng nó muốn gặp cha và hối thúc mẹ phải đi tìm cho bằng được.

 

      Một hôm có người quen chỉ bảo chương trình "Tìm kiếm người thân" Monika nạp đơn xin họ giúp đỡ và họ đã hết lòng. Suốt gần một năm dài tìm kiếm. Họ đã tìm được Tín sau ba tháng được trả tự do và hiện ở chung với gia đình người bạn tại Thủ Đô Praha - Tiệp Khắc.

 

      Khi cuộc hẹn được gặp gỡ nhau, Monika nửa mừng, nửa giận, con Kathie nhào đến ôm chặt lấy cha, khóc nức nở, Tín chỉ biết gục đầu xin lỗi. Monika nói:

 

      Anh à ! Giờ con Kathie nó đã có cha rồi, còn em anh khỏi lo, em đã có Bern người thay thế anh gần năm năm nay. Chúc anh luôn được mạnh khỏe.

 

 

Thủy Điền

27-06-2017

 

 

197- Dường Như Là Thế

 

Tín ton…tín ton. Tiếng chuông nhà vang lên, Thúy chạy ra tay vừa mở cửa, tay vừa gạt nước mắt. Chào bố mới về, chào con.

 Hắn hỏi?

-         Thúy nầy ! Có chuyện gì mà con khóc vậy Thúy ?

-         Không có chi đâu bố, con khóc là bởi xem phim mà xúc động thôi.

-         Phim gì mà ghê gớm thật ?

-         Phim nói về gia đình vậy mà, rồi nàng đứng dậy, tắt Ti vi và đi xuống bếp lo cơm chiều cho bố.

 

      Thông lệ, chiều nào cũng thế, sau giờ ôn tập xong, khoảng 16 giờ là Thúy hay ngồi trước màng hình nhỏ vừa đợi bố đi làm về, vừa xem phim tập hàng ngày của đài truyền hình. Bỗng hôm nay có chiếu một tập nói về gia đình cũng khá hay nên nàng cứ chăm chú xem. Nội dung nói về người đàn bà ngoại tình và cuối cùng bỏ cả chồng, lẫn con rồi đi theo người khác. Trước cảnh nhà đơn chiếc, gà trống nuôi con và người đàn bà ấy đang tha hồ sung sướng nằm gọn trong vòng tay người mới . Hai cảnh đời khác biệt đã hiện lên trước mắt nàng. Chính vì thế nàng không sao cầm nổi những giọt nước mắt khi thấy sự đời quá éo le và bội bạc.

 

      Trước đây 18 năm cũng thế, hồi ấy nàng mới lên ba, chưa biết gì, chỉ nghe bố kể sơ sơ về cái chết của mẹ. Và, dần dần lớn lên thì nàng mới rõ ra là chuyện khác. Tuy biết bố đã dối mình, nhưng nàng không bao giờ trách bố. Có lẽ  lúc ấy vì thấy con còn quá nhỏ nên không muốn nói những điều gì.

 

      Câu chuyện rất buồn và khá dài dòng đã rơi vào một căn nhà đang êm ấm giữa đêm mùa hè tháng tám năm 1999. Không biết vì lý gì mà Linh đã bỏ đi, không một lời từ giả, nàng lặng lẽ để lại hắn và con Thúy vừa tròn 3 tuổi giữa canh ba khi hai cha con còn đang ngon giấc . Sáng thức dậy, không thấy vợ, hắn bàng hoàng và chỉ biết ôm đầu gục khóc và cũng chẳng biết tại sao. Nhưng rồi ngày tháng ngược, xuôi, tìm hiểu ra, thì mới hay vợ mình đã và đang có cuộc sống mới nơi phương trời khác.

 

      Sau những giây phút đau thương ấy, hắn trở về với cuộc sống đơn côi, gà trống nuôi con suốt 18 năm dài đăng đẳng . Cái gì rồi cũng quen đi, nỗi nhớ nhung nào cũng sẽ dần tan, con Thúy giờ đã lớn 21 tuổi đang học Đại học, hắn nghĩ số cha con hắn là như thế, nên cũng chẳng còn buồn giận gì nữa cả.

      Không ngờ ! Hôm nay, bổng dưng người ta lại diễn lại khúc phim ấy trên màng hình trước mặt con Thúy làm cho nó phải xúc động, khóc nức nở và nhớ lại câu chuyện cũ, rồi đành vặn hỏi bố đến cùng. “Tại sao nàng mất mẹ ? “ Dù rằng câu hỏi nầy đã khơi lại nỗi đau của bố nhiều lắm.

 

      Thương con, dẫu có muốn giấu giếm đến đâu đi nữa rồi cũng phải nói toạt hết lòng mình.

 

      Thúy nầy ! Bố chỉ nói với con một lần thôi nhé. “ Những gì con đã xem phim ngày hôm nay là trước đây 18 năm gia đình mình cũng dường như là thế.

 

Thủy Điền

25-06-2017

 

 

 

 

 

 

 

 196- Họp Tiểu Hội

 

24 giờ khuya. Vừa về đến nhà, hắn đi ngay vào nhà bếp, mở tủ lạnh lấy chai bia, khui cái “Bụp “ Nốc một hơi và nói: Mình cứ ngỡ hôm nay về nhà gương mặt ; bộ quần áo sẽ toàn trứng gà hay ít nhất là hai con mắt bị bầm xanh. Nhưng không ngờ ! Ông Chủ tịch hôm nay lại còn khen mình nữa chứ. Đả thật là đả.

 

      Bà nhà thức dậy, mon men hỏi ?

-Ông làm gì mà có vẻ vui sướng thế.

-Vâng, có vui mới cười đây, buồn ai cười làm gì phải không bà?

-Ông được bầu làm Chủ tịch sao mà hớn hở thế ?

-Nếu được thì quí, đàng nầy vẫn là hội viên dự khuyết đấy bà ạ.

-Có thế mà cũng vui.

-Tôi vui vì chuyện khác.

-Vậy chuyện gì ?

-Dần hồi bà sẽ rỏ thôi.

- Tôi đi ngủ tiếp đây.

-Ừ.

 

      Cứ vào độ tháng bảy hàng năm, chờ lúc mọi người được nghỉ phép thường niên là người ta tổ chức ngay một đại hội người Việt, chủ đề “Hướng Về Quê Hương “ Với những ngày nầy, năm nào cũng thế, hắn đều có mặt cả như: Phụ giúp Ban tổ chức làm khán đài, tiếp khách và những vấn đề linh tinh. Nói chung là hắn rất nhiệt tình với cộng đồng người Việt nơi hắn đang sinh sống. Để đáp lại tấm chân tình, mọi người ai ai cũng đều thích hắn. Thiết nghĩ nếu hắn có trình độ một chút thì hắn sẽ được bầu vào Ban chấp hành lâu rồi. Nhưng tiếc thay vì trình độ văn hóa quá kém nên hắn vẫn còn lèn xèn phía bên ngoài.

 

      Trước giờ Đại hội khai mạc ông Chủ tịch tìm đến hắn bảo:

-Thịnh nầy ! Đại hội kỳ nầy tôi muốn chú nên có vài lời phát biểu. Chú nghĩ thế nào?

-Không được đâu anh ba ơi.

-Cả chục năm nay chú là người đã hiến dâng công sức lẫn tinh thần cho hội nầy nhiều quá, chẳng lẽ chú cứ ngồi nghe và gật đầu hoài sao ? Chú phải mạnh dạng đóng góp ý kiến với người ta chứ. Biết đâu, ý kiến của chú mọi người thấy đúng, còn sai thì thôi, anh em sửa chữa, góp ý. Ai làm gì chú mà chú sợ.

-Anh ba à, mấy lần trước có người phát biểu xong ra bị chọi trứng gà vào người, thậm chí còn bị đụt xưng cả mặt mày nữa đó anh.

-Tôi biết việc nầy, nhưng đã có thương lượng với họ rồi, tôi bảo; Nếu quá khích thì hội sẽ tan rã thôi và họ đã đồng ý nhượng bộ và hứa với tôi rồi. Chú yên tâm đi, có tôi bên cạnh đây.

-Ừ thế cũng được, em tin anh.

 

      Hắn nghĩ ông Chủ tịch vì thương hắn, động viên nói qua loa vậy thôi, nên hắn chẳng màng tâm. Không ngờ ! Khi Đại hội khai mặc, qua mấy lượt người phát biểu. Hắn hết hồn, khi anh ba giới thiệu tên mình. Hắn đứng dậy lên khán đài mà tứ chi run như cầy sấy. Vài phút sau, hắn lấy lại bình tĩnh và nói:

 

      Thưa quí vị

 

 Thật tình thì tôi cũng chẳng có ý kiến chi, cộng tôi chẳng hiểu gì thời sự nhiều. Nhưng ông Chủ tịch muốn tôi phát biểu thì tôi phải đành và thú thật tôi cũng chưa bao giờ đứng trước một lượng người khá đông Tiểu hội ba bốn chục người như thế nầy nói chuyện bao giờ. Nếu có gì thiếu sót mong quí vị thông cảm và tha thứ.

 

      Tiếng vỗ tay cả hội trường thật to để ủng hộ hắn “Nói đi, nói đi Thịnh “

 

      Kính thưa Quí vị

 

Tôi xin phát biểu vài điểm như sau:

 

1-ở Xã hội nào cũng thế, quốc gia nào cũng thế, đều có bề mặt, bề trái của nó, có cái tốt, cái xấu, cái đáng khen và đáng trách, chứ chưa có ai hoàn toàn cả. Gần nhất là chính bản thân ta cũng vậy. Qua mười bốn năm nay khi tham gia hội và tham dự mười bốn Tiểu hội nầy  với chủ đề hàng năm là “Hướng về quê hương “ Tôi chưa bao giờ nghe quí vị khen ai hoặc Việt nam mình gì cả, mà toàn là chỉ trích và chê bai. Tôi thấy rất là buồn, vì nghĩ rằng chúng ta chưa thật sự công bằng và một khi nhận xét không công bằng tôi thiết nghĩ Tiểu hội của chúng ta không có ý nghĩa.

 

2-Muốn chỉ trích, phê bình người khác ta phải tự hỏi mình đã làm được gì và đóng góp được những gì cho quê hương Việt nam chưa?

 

3-Ta nên nhìn nhận vào sự thật với hai chữ tự do và không tự do khi hàng năm hàng triệu người về Việt nam du lịch, thăm gia đình mà trở ra bình thường trong đó có chính ta và gia đình ta nữa.

 

      Thưa Quí vị

 

Với trình độ giới hạn tôi chỉ phát biểu thế thôi, nếu có gì quá đáng, sai sót, không hài lòng, mong Quí vị bỏ qua và thông cảm như tôi vừa nói ở phần trên.

 

      Vừa vứt lời, hắn thấy sao cả hội trường im ru, không tiếng vỗ tay, không lời chống đối. Hắn nói thầm trong bụng (Khó khăn rồi, nhanh chân chạy ra sau khán đài níu chân anh ba).

 

      May quá, anh ba đứng chờ phía sau chận lại. Thịnh nầy !

-Chú nói rất đúng, nhưng anh xin chú không nên phát biểu những lời ấy ở đây, lần sau cẩn thận, khéo lời một chút nha Thịnh.

-Em đã từ chối lúc đầu mà anh vẫn cứ giới thiệu, giờ anh trách em.

Thôi được, cảm ơn chú.

 

      Thấy ông Chủ tịch không nặng lời, hắn mừng quá và tìm cách vọt về nhà, trên đường ra bãi xe, hắn nhìn xung quanh, nhưng chẳng thấy con ma nào đeo theo chân. Thế là mình thoát nạn. Và, anh ba đã giữ đúng lời hứa.

 

Thủy Điền

14-06-2017

 

 

     

195- Cà- Phê

 

     Vừa dừng xe ngay cổng biên giới Pháp- Bỉ. Ngài Cảnh sát bảo: Xin anh và các người đồng hành trong xe cho chúng tôi xem Hộ chiếu. Hắn vui vẻ móc ví ra và xoay lưng ra phía sau, tất vả hãy trình giấy cho nhân viên Cảnh sát thì mới qua biên giới được. Mọi người ngoan ngoãn đưa giấy tờ tùy thân cần thiết cho hắn và hắn trao tiếp cho ông ta, rồi cùng nhau chờ đợi. Ngỡ kiểm tra xong ông sẽ trả lại và được đi tiếp tục. Ai ngờ ! Khoảng hai mươi phút sau ông mới lù lù ra, chẳng trả lại giấy tờ mà đứng im ru như không có vấn đề gì. Hắn hỏi?

-Thưa ông, giấy tờ chúng tôi ông kiểm tra xong chưa ạ?

Ông trả lời vắn tắt.

-Cà Phê.

 

     Hắn chẳng hiểu ông ta muốn cái gì, mình hỏi một đường, còn ông thì trả lời một nẻo, bực bội. Hắn hỏi tiếp? Nếu hợp lệ thì xin ông cho chúng tôi đi, còn không thì chúng tôi trở lại. Lằng nhằng như thế mất thời gian vô cùng hơn nữa bây giờ trời cũng đã khuya rồi. Ngài Cảnh sát gằn giọng.

-Cà Phê.

-Cà phê gì? Thưa ông.

-Anh chậm tiêu quá ông bạn à.

 

     Phía sau có một người lanh trí hô to. Ổng muốn hố lộ đó, chi cho ổng một trăm France là xong chứ gì. Hắn nghe lời ngưới phía sau và đút gọn vào tay ông một trăm Fance. Ông mở miệng: Đây giấy tờ các anh hợp lệ cả và có thể đi tiếp tục, chúc mọi người bình an, vui vẻ.

 

     Mùa hè, trời nắng đẹp, ấm, cuối tuần hắn chẳng biết làm gì với số thời gian rảnh rổi . Thôi, rủ mấy người bạn láng giềng đi Paris chơi vài ngày hãy về. Nơi đó mình ghé qua quận mười ba, khu China Town ăn hàng một trận cho đả miệng. Thiên hạ đồng ý và cùng nhau bỏ tiền ra mướn chiếc xe rồi nhờ hắn lái đi Paris.

 

     Chiều mười lăm giờ từ Đức khởi hành, dự định là đúng sáu hoặc bảy giờ sáng là sẽ có mặt tại Paris, còn sớm, dễ tìm chỗ đậu xe và ghé ăn hủ tiếu hoặc phở điểm tâm rồi tha hồ đi vòng quanh Paris thăm điện Élysée- Khải hoàn Môn- Tháp Aiffel v...v...một thể.

 

     Khi đi ai cũng ngỡ giấy tờ mình hợp lệ, đến biên giới Pháp họ chỉ kiểm tra sơ và cho đi, chứ chưa ai nghĩ trong đầu sẽ có những chuyện gì khác xãy ra.

 

     Nhưng than ôi, khi đến biên giới thì mới vỡ lẽ ra cái xứ tây nầy cũng chẳng thua kém gì với cái xứ Việt nam ta. Xứ ta nghèo, nhân viên nhà nước lương không đủ sống nên người ta sanh ra tánh xấu, làm mọi cách để kiếm tiền thêm. Biết, chuyện ấy là chuyện không hay, nhưng thỉnh thoảng cũng còn thông cảm và châm chế được. Đàng nầy xứ Âu châu và là nước Pháp giàu nhất, nhì, ba thế giới mà vẫn còn có những vụ việc Cà phê- Thuốc lá vụn vặt nghĩ cũng nực cười. Dù biết nực cười, nhưng họ vẫn làm gì một đêm có năm, bảy xe ngoại quốc đi ngang qua là họ kiếm được cử ăn sáng mà không cần đụng đến số tiền lương cố định và người đi qua đường được dễ dàng hơn mà chẳng mất bao nhiêu tiền.

 

     Trong đời hắn từ lúc ở Việt Nam rồi sang định cư tại Đức hắn chưa bao giờ biết hố lộ hay lo lót cho ai. Thế mà hôm nay hắn bị lọt vào vòng tay ông tây bằng hai chữ " Cà phê " Mà hắn phải nhớ suốt đời và mỗi lần khi đi du lịch sang Pháp hắn đều để một trăm France vào lòng Hộ chiếu.

 

Thủy Điền

04-06-2017

194- Dị Ứng

 

     Trên đường về nhà hắn nói với người yêu. Hélene nầy! Hãy nghe anh nói, khi nghe xong em đừng giận anh nhé Hélene. Có lẽ, anh đến đây là lần cuối đó Hélene à.

-Tại sao? 

-Anh có cảm nhận là như thế.

-Bố mẹ em đối xử với anh không tốt à.

-Không phải thế, ông bà là người rất tốt chứ, anh chưa bao giờ thấy họ đối xử tệ với anh lần nào.

-Thế thì sao không muốn đến nữa, ngộ nghĩnh thật hay là anh không còn yêu em nữa chứ gì.

-Anh lúc nào cũng yêu em, xin đừng nghĩ quẩn.

Vậy thì tại sao?

-Dần hồi em sẽ rõ.

 

     Tình cờ một ngày tháng tám, trong dịp nghỉ hè ở Paris, hai người quen nhau và vài tháng sau qua mấy lần thăm viếng, họ đã yêu nhau. Nhưng tình yêu của họ không được liên tục như bao cặp tình nhân khác, vì người ở tận Lyon, người ở tận Lille khoảng cách cách nhau hơn một ngàn cây số. Tuy xa, nhưng họ sắp xếp thời gian rất trình tự. Có nghĩa là chia nhau mỗi cuối tuần mỗi người phải đến một lần để tránh sự nhàm chán và hao tổn lẫn nhau.

 

     Mấy tháng đầu là như vậy, nhưng về sau thì dường như hắn phải đánh xe đến với nàng nhiều hơn như dự định. Tình cảm càng ngày càng thắm thiết và họ xin phép gia đình hai bên để tiện việc qua lại thăm viếng cho khỏi ngượng ngùng.

 

     Gia đình nàng nói chung là gia đình có học vấn cao. Nàng có ba anh em và người nào cũng có bằng Cử nhân cả. Còn hắn chỉ là một Sinh viên nửa chừng và xin vào hãng làm việc cho đến ngày nay. Nói chung là hắn chẳng có bằng cấp gì trong tay. Chính vì thế mà hắn thường hay tự ái vặt.

 

     Việc gia đình bên nàng người ta có con học cao, hiểu rộng, người ta treo trên tường những bằng cấp ấy là để làm kỷ niệm hay khoe khoang đó là chuyện của người ta. Nhưng với con rễ tương lai trong nhà dù thế nào, nhưng người ta đối xử với mình tốt và không phân biệt là được rồi. Nếu người ta có những ý nghĩ xấu ấy là người ta đã từ chối lâu rồi. Ngược lại hắn không hiểu thế, cứ tự mặc cảm rồi sanh ra những ý nghĩ thật vô cùng đáng trách.

 

     Mỗi lần hắn đến gia đình ông nhạc gia tương lai, khi mời vào bàn ăn là hắn nhìn lên cao trước tiên và nhìn thấy ba bằng cấp treo tòn ten là hắn nổi máu, nuốt hết vô, muốn ra xe đi về ngay và lần nào cũng thế. Cô bạn hắn Hélene ngỡ như hắn đang gặp điều gì bất ổn cứ theo hỏi hắn mãi gần cả năm trời thì hắn mới chịu trả lời.

 

     Té ra, hắn bảo: Hắn không muốn đến nhà ông nhạc gia tương lai nữa. Bởi, hắn dị ứng ba cái bằng cấp treo trên tường nhà.

 

Thủy Điền

01-06-2017

 

   

193- Dường Như Ta Đang Yêu

 

   Ngay đêm đi lễ chùa về hơn một giờ sáng, mệt. Lẽ ra Tân phải đi ngủ vội. Nhưng chàng cứ ngồi và thức trắng cho đến sáng. Bên ly Cà phê và điếu thuốc chàng suy nghĩ mãi và tự hỏi? Không lẽ mình yêu Vân rồi sao ta. Dường như là như vậy.

 

      Bấy lâu nay chàng cứng rắn, tự khắc khe với lòng mình là dù bắt cứ trường hợp nào cũng phải lựa lời từ chối, thời gian dành cho việc học trước cái đã, sau đó muốn tính chuyện gì thì hãy tính. Chuyện tình yêu xen lẫn vào lúc nầy chẳng biết việc học đến bao giờ mới kết thúc. Nói thì nói vậy, mèo nào thấy mỡ chẳng ham.

 

      Tình cờ trong một đêm lễ chùa, khi nhà Sư yêu cầu Tân và Vân làm hai hướng dẫn viên cho khách từ xa đến. Trong nửa thật, nửa đùa chàng vô ý để lọt tình cảm mình vào quả tim bé nhỏ của Vân. Khi khách ra về nàng nán chàng ở lại. Giữa đêm khuya khoắc dưới gốc Đa già nàng thốt tiếng yêu Tân. Trong bối rối chàng chỉ biết im lặng và chẳng nói lời nào. Và, nàng bắt đầu cũng thế, chỉ nhìn nhau và choàng lấy nhau chẳng chút ngượng ngùng. Bao cứng rắn bỗng dưng trở thành mềm yếu khi vòng tay càng lúc, càng được siết chặt hơn.

Trời về khuya, cảnh chùa bắt đầu vắng vẻ.

-Thôi mình cũng về Vân, để các Sư còn nghỉ nữa.

-Vâng, thôi mình về anh.

 

      Đoạn đường từ cổng chùa ra bãi xe không xa mà đôi chân dường như nặng trĩu, cứ trì quảng gần nửa tiếng đồng hồ mới bắt đầu cho máy nổ. Hai người hai hướng trực chỉ về nhà. Vừa chạy mà tâm hồn cứ để đâu đâu "Suýt " Mấy lần nguy hiểm.

 

      Về đến nhà chàng như người nửa say, nửa tỉnh, nằm ngã nghiêng trên bộ Salon, mắt hướng trần nhà. Chết mất, bao cố gắng giờ tan theo mây khói. Mà Vân cũng dễ thương và đáng được mình thương, yêu lắm chứ. Nhưng vội vàng quá khi nàng đã thốt tiếng yêu. Từ chối có nghĩa là mình phụ lòng Vân một cách ác độc. Còn chấp nhận thì................!

 

      Khó quá, khi tình yêu đến bất chợt. Thôi thì cứ lặng câm, không chấp nhận, không từ chối. Cứ để nó lăn tròn theo thời gian. Có lẽ nàng sẽ hiểu và không giận. Hy vọng tình bạn vẫn mãi mãi bền lâu.

 

      Và, đêm nay khi về đến nhà chắc Vân chỉ nghĩ về một hướng. Rằng, nàng đã yêu và người ấy cũng đã yêu mình.

 

      Tội nghiệp nàng quá.......và dường như ta cũng đang yêu.

 

Thủy Điền

24-05-2017

 

192- Chú Đạo Ổi

 

 

 Hơn hai tháng nay, cuối tuần nào mấy nhà lân cận cũng thấy thằng Khánh vác về nhà hai Carton nước ổi. Ai cũng ngạc nhiên và hỏi?

-         Chú Khánh, bộ dạo nầy muốn làm ông Đạo Ổi sao mà toàn uống nước ổi không vậy chú ? Còn bia và rượu mạnh bỏ cho ai.

-         Đâu có, thì trộn qua trộn lại cho vui. Bia, rượu mãi oải quá.

 

     Kể từ ngày sang Đức cho đến nay, nếu đem ra mà so thì thú thật chưa có ai làm việc nhiều giờ bằng Khánh. Không biết Khánh làm để phục vụ vào trường hợp gì thì cũng chẳng ai biết cả. Bởi, Khánh chưa bao giờ thố lộ. Phải nói Khánh cừ thật. Sáng sáu giờ thức dậy tới hãng làm việc cho đến bốn giờ chiều về, ăn vội, chạy đến MacDonalds làm suốt đến hai mươi bốn giờ khuya, về nhà ăn gói Mì gói, ngủ, sáng thức dậy đi làm tiếp, cứ thế từ thứ hai đến thứ bảy. Và, trọn ngày Chúa nhật là Khánh có mặt tại nhà hành Hong Kong từ mười giờ sáng cho đến hai mươi ba  giờ đêm. (Nói chung trừ những lúc đi ngủ, Khánh chẳng có một giờ nào rảnh rang như mọi người.

 

     Ai cũng bảo: Có lẽ, thằng Khánh nầy định cất nhà hay mua nhà gì đây. Trong nghi vấn, người ta cứ chờ mãi xem anh chàng nầy sẽ bao giờ thực hiện. Nhưng tiếc thay, cả hai mươi mấy năm nay có thấy hắn cất, mua cái gì đâu- rồi bắt đầu chuyền tai nói nhỏ, vậy là hắn giàu lắm, có một khối tiền.

 

     Bây giờ Khánh đã bốn mươi chín tuổi. Qua hai mươi tám năm làm việc, Khánh tự thấy sức khỏe mình yếu dần, nay bệnh, mai đau cứ đến thăm Bác sĩ liên tục mà vẫn không thấy thuyên giảm và Khánh đang tìm cách ngăn ngừa để khỏi xảy ra những điều đáng tiếc.

 

     Một hôm Khánh đọc được một bài văn của một Tác giả Việt ở Úc châu viết. Ông ta viết một bài truyện ngắn tản mạn vui, nửa đùa, nửa thật. Bài văn có một đoạn ngắn“ Nếu ai muốn khỏi bệnh và sống lâu thì hãy nên chú ý những điều kinh nghiệm của những nhà nghiên cứu về đời sống trên thế giới như sau „:

1-    Theo người Đại Hàn mỗi ngày nên ngậm mười gram sâm Cao ly thì năm chục năm mới đến Bác sĩ một lần.

2-    Theo người Ấn Độ mỗi ngày chỉ cần uống một lít nước ổi thì mười  năm mới đến Bác sĩ một lần.

3-    Còn người Việt Nam thì đơn giản hơn, chỉ cần uống một cốc thuốc rầy là khỏi đến Bác sĩ luôn.

 

     Trong câu chuyện nửa đùa, nửa có lý. Khánh thấy ông nhà văn nầy nói nghe cũng được tai. Và, Khánh bắt đầu làm theo. Nhưng nếu thực hành như điều một thì tốn kém và khó ngậm vì đắng. Nên anh ta chọn điều hai vừa túi tiền và dễ thực hiện.

 

     Khi quyết định xong, Khánh chạy ra cửa hàng Việt nam tận trung tâm thành phố và đặt hàng. Ông chủ nhận, theo lịch trình cứ thế đúng cuối tuần là Khánh mang về nhà uống thay nước.

 

     Ròng rã hơn hai tháng nay, ngỡ mình bớt bệnh và trong tương lai sẽ hết bệnh. Nhưng rồi bao hy vọng đã tan tành theo mây khói. Cơn bệnh không bớt đi phần nào mà càng lúc càng tăng thêm và còn bị xóm giềng ghẹo trêu là ông Đạo ổi. Trong thất vọng, Khánh tìm đến một Bác sĩ chuyên khoa để tìm hỏi căn bệnh gầy còm của mình.

 

   Ngỡ Bác sĩ nói điều gì. Ai ngờ ! Bác sĩ bảo: Anh về bỏ bớt hai ca và ăn ngủ đầy đủ thì sẽ hết ngay. Khỏi cần mỗi cuối tuần phải ra tiệm Á châu vác è ạch mấy kết nước ổi về cho mệt. Và, xin nói thêm nếu anh không nhường bớt công việc cho người khác, dù anh có ngậm một ngàn tấn Sâm hay uống một vườn ổi thì cũng chẳng có tác dụng gì.

 

Thủy Điền

21-05-2017

 

 

 

 

191- Đời Tôi Luôn Có Thánh Nhân

 

    Giữa tiệc nhậu hắn đứng dậy, đỏ mặt, vỗ bàn "Các bác im đi " Sống mà không biết Trời cao, Phật độ, Chúa cứu sinh thì hãy ra Nghĩa địa mà sống. Đừng nói thêm nữa. Mọi người ngồi trừng mắt nhìn hắn rồi im lặng nhậu tiếp cho đến khi tàn tiệc.

 

     Sau chiến tranh, hắn trở về với đôi nạng gỗ. Tuy, một phần thân thể nầy đã hiến dâng cho quê hương tổ quốc, nhưng lòng hắn rất vui khi nhìn thấy đất đất nước đã thanh bình liền về một cõi. Cảnh chết chóc không còn nữa, cảnh mẹ xa con, cảnh vợ xa chồng, cảnh con cái thiếu bóng cha, tiếng khóc thê lương ngày nào không còn chảy dài trên mảnh đất Việt hình chữ S.

 

    Trong làng, từ lúc hắn đi biết bao người không trở lại, mà dẫu trở lại thì cũng chẳng vẹn nguyên. Hắn là người may mắn còn nhìn lại quê hương sau mười năm lên đường chiến đấu. Trong gian khổ hắn từng trải qua những thăng trầm của cuộc chiến. Có lúc hắn nghĩ đời mình sẽ bị vùi sâu nơi phương nào có lẽ. Liên tiếp và liên tiếp nỗi bi quan. Hắn thầm bảo, muốn chống chọi với cuộc sống nầy chỉ còn cách nhờ Trời cao, Phật, Chúa độ trì thì còn hy vọng. Ngoài ra không còn cách nào khác. Chính vì thế, đêm nào hắn cũng luôn nguyện cầu, lâm bâm luôn miệng như một kẻ điên cuồng.

 

     Một đêm bị càn quét, đồng đội, anh em đã hy sinh. Riêng hắn dù hai chân đẩm máu, nhưng cố lết vào chánh điện một ngôi chùa, nấp dưới chân Đức Phật chờ trời sáng được các Sư ông giúp đỡ băng bó và giấu kín cho đến khi lành bệnh rồi trở về đơn vị. Qua những ngày nguy hiểm ấy, hắn được cứu sống và càng tin tưởng hơn. Hắn tâm nguyện, sống không hướng về Trời , Phật là hắn đã chết mất rồi, chớ đừng nói chuyện được nhìn lại quê hương. Mấy lần hắn kể cho bao người nghe, hầu cứu rổi phần nào về mặt tinh thần và những lời ấy đều bị gạt ngang và còn lôi ra khiển trách khi thiên hạ đang thực thi "Chủ nghĩa Vô Thần " Lòng rất buồn, oán hận những lời chê trách ấy, nhưng giữa rừng người hắn là kẻ thế cô và đành câm lặng.

 

     Khi chiến tranh kết thúc, hắn được giải ngủ và trở về nhà với chức vụ cuối cùng là thương binh với đồng lương khiêm nhượng, hắn phải nhờ vả vào gia đình. Hàng ngày hắn thường hay đây đó để nhìn lại những hình ảnh xa xưa mà hắn một thời cùng bè bạn sớm hôm nơi đầu sông, vách núi.

 

     Nhân ngày cổ một người thân, hắn được mời sang đá chén. Đang nhậu ngon lành, tình anh em thắm thiết. Bổng dưng có mấy tay từ làng khác cũng được mời sang thốt lên những lời trái ngược đối với hắn. Đó là: Chủ nghĩa vô thần. Lúc đầu hắn bỏ yên. Kệ, ai nói gì nói, không phải chuyện của mình. Nhưng dần lâu càng đi sâu vào vấn đề, hắn không thể cầm lòng và đứng dậy quát cho mấy lão một trận tơi bời. Ngỡ mấy lão chống trả lại. Ai ngờ! Mấy lão trừng mắt và lặng thinh rồi tiếp tục nhậu tiếp cho đến khi tàn mâm cổ.

 

     Và, kể từ đó hắn không còn nghe người ta nói đến bốn chữ dị hợm ấy nữa.  Bằng chứng là đã bao năm nay người ta đã nhìn thấy rõ Trời, Phật, Chúa là những Thánh nhân luôn kề cận con người và những ý nghĩ của hắn dường như mọi người đều chấp nhận.

 

Thủy Điền

19-05-2017

 

 

190- Những Quả Nhàu Già

 

   Sau tết Nguyên đán đúng một tuần. Hôm nay là ngày hạ nêu, mấy ông bố trẻ trong thôn xúm nhau nhậu một trận rồi cùng bàn tán: Hôm tết sang nhà thằng sáu Mận xông đất thấy một điều rất lạ kỳ. Thuở thời tết người ta cúng mâm ngũ quả hoặc là những thứ trái cây khác mà xưa nay ông bà mình hay cúng. Ngược lại hắn không làm thế mà chỉ cúng toàn những quả Nhàu già mà hắn bẻ sau vườn. Thế mà vợ và ông Nhạc gia hắn chẳng nói lời nào  mới hay chứ.

 

     Thằng sáu Mận tên thật là Anh Tuấn, vì hắn thích ăn quả mận nên người ta đặt cho hắn cái biệt danh chết là sáu Mận. Hắn là dân gốc gác Gò vấp- thành phố Hồ Chí Minh. Nói dân thành phố nghe xôm tụ chớ hắn sống trong một hẻm nhỏ rất nghèo nàn. Gia đình hắn sống bằng nghề vác mướn, học hành thì ít. Tuy nghèo, nhưng hắn luôn mang hoài bảo là một ngày nào đó hắn sẽ trở thành một ông nhà giàu to tát.

 

     Một hôm trong tiệc nhậu vĩa hè, hắn được một người bạn rủ rê về miền tây làm đồng mướn, cơm nước và chỗ ở đều có chủ lo hết. Nghe xong, hắn khoái quá và đi theo bạn. Thật đúng thế, hắn được một gia đình nông dân tương đối khá, nhận hắn làm việc cho nhà ông. Cơm nước ông lo hết, tiền lương cũng giống như người khác, nhưng tối về ở nhà trọ.

 

     Qua nhiều năm làm việc ông chủ thấy hắn hiền, làm việc tốt hơn nữa hắn có cái mả đẹp trai nên cũng được nhiều cô trong làng quí mến. Và, cuối cùng hắn được cô con gái ông chủ ngã lòng yêu thương. Hai người yêu nhau gần một năm và được ông chủ gã con gái. Sau khi cưới nhau xong, hắn được ông chủ cho ba công đất có hoa lợi sẵn để tự sinh sống. Buồn ngủ gặp chiếu manh, hắn thừa cơ hội trồng trọt thêm đủ thứ và nuôi rất nhiều gia súc nên đới sống gia đình hắn càng ngày, càng ăn nên, làm ra khá khỉnh thấy rõ.

 

     Hắn có bản tình tin dị đoan và hay nghe ngóng thiên hạ nói những điều gì nếu thấy hay là để trong đầu rồi làm theo. Ngày xưa còn nhỏ hắn thường nghe mấy bọn nhậu nói dần lân có một câu mà hắn cứ giữ mãi trong tâm trí và hứa sẽ thực hiện khi mình có cơ hội.

 

     Sau vườn nhà hắn được trồng đủ thứ các trái cây miền tây nam bộ như: Lôm chôm , Vú sữa, Xoài, Mận , Chanh, Bưởi v...v...Nhưng đặc biệt chỉ thiếu loại cây Nhàu. Vì thích trồng cây Nhàu nên hắn đi khắp xóm để xin được giống và mang về nhà trồng. Chỉ trong vòng hai năm sau vườn nhà hắn có cả chục cây Nhàu thật tốt và quả rất nhiều. Có mấy lần người ta đến mua để làm trà Nhàu uống trị bệnh, nhưng hắn nhất quyết không bán dù giá cả bao nhiêu. Hắn nghĩ bán nó đi là bán sự may mắn của hắn.

 

     Mấy năm vào ngày tết hắn không có Nhàu để cúng là trong dạ hắn cũng chẳng mấy được vui. Năm nay vườn nhà có quá nhiều quả Nhàu hắn lựa toàn những quả già bẻ mang vào nhà cúng từ trước đến sau. Nghĩa là nơi nào có bàn thờ là hắn đều cúng cả và không cúng những thứ khác. Vợ hắn bất bình, nhưng hắn cứ cương quyết. Bố vợ hắn cũng chẳng mấy hài lòng khi thấy hắn làm toàn những điều trái ngược phong tục tập quán xưa nay, nhưng cũng phải đành chịu thua hắn.

 

     Đúng mùng một tết có nhiều người đến nhà hắn xông đất, ai ai cũng  đều ngạc nhiên và hỏi? Hắn chỉ trả lời võn vẹn: Cúng để vái van đừng bệnh tật vậy mà, hàng ngày thay vì mình nấu nó với nước để uống thế trà, nhưng làm sao mình uống cho nổi chứ, bằng cách cúng cho ông bà chứng dám lòng mình còn tốt hơn. Khi nghe hắn nói mọi người chỉ biết lặng thinh mà chẳng hiểu hắn nghĩ và muốn điều gì.

 

     Khi tết xong, Nhạc gia hắn cho mời hắn sang để hỏi rõ tường tận. Đúng ra thì hắn chẳng nói điều nầy với ai kể cả vợ hắn. Nhưng gì nể tình cha vợ người mà hắn mang ơn suốt cả một đời nên hắn phải đành thú thật.

 

     Thưa ba. con cúng quả Nhàu già là ý con muốn trở thành một nhà giàu trong nay mai đó ba. Ông già té ngữa ra cười. Thế là đã hiểu "Nhàu già là Nhà giàu " Chí lý. Một con người có tâm quyết thì rất được đáng khen. Vậy năm sau ba cũng sẽ làm như con và khuyến khích cả làng nầy đều làm như thế..

 

Thủy Điền

15-05-2017

 

 

189- Nghề Đào Rác   

 

   Mặt trời vừa đứng bóng, hắn bảo: Thôi, hôm nay có bao nhiêu ăn bao nhiêu, nghỉ xã hơi một chút, hút điếu thuốc, hớp bụng nước rồi đào tiếp, cứ như mấy lần trước tham công, tiếc việc về bị đau bụng hoài.

 

      Vì nhà nghèo, cơm không đủ no, áo cũng không đủ ấm, gia đình chẳng có dư xu nào để đi học, nên từ lúc năm tuổi là hắn bắt đầu theo cha đi đào rác để kiếm sống. Hồi đầu hắn chỉ đi theo sau để lượm lặt những bao mũ cũ phụ cha và dần dần lớn lên ông sắm cho cái Bồ cào nhỏ để tập bươi, móc lần lần, rồi ngày tháng đi qua hắn đã trở thành chuyên nghiệp và kiêm luôn ông chủ một bãi rác nhỏ.

 

      Mỗi ngày hắn ra bãi cùng cha thật sớm để chận trước những xe rác từ các nơi đỗ về để lụm lặt một số hàng có thể bán được khá tiền và sau khi không còn xe rác nữa hai cha con hắn bắt đầu đi xa hơn để đào tiếp.

 

      Công việc đào rác phải nói rất mệt nhọc, luôn luôn phải dùng sức để đào. Kết quả tùy thuộc vào rủi , may. Có hôm trúng mánh đào được rất nhiều hàng như: Nhôm và sắt vụn. Có hôm chỉ được một ít bao mũ cũ. Bởi thế ngày nào làm được nhiều thì phải để dành cho những ngày thất bát. Nói chung nghề đào rác của hắn rủi thì nhiều, may thì ít, nên cuộc sống cứ vất vả mãi. Nhưng vì quen từ nhỏ nên hắn không thể bỏ mà đi làm việc khác được.

 

      Có những lúc tìm được khá nhiều hàng, vì tham công, tiếc việc, hắn quên mất giấc nghỉ trưa và ngược lại với những lúc không tìm được hàng hắn cố gắng hết sức để được lợi tức trong ngày rồi cũng quên ăn luôn, chờ cho đến khi nào xong việc thì mới ăn. Nên khi ăn xong hắn thường hay bị trở bụng và phải nằm ngoài bãi một hồi lâu mới trở lại bình thường.

 

      Sau mười mấy năm làm nghề đào rác, cha hắn qua đời. Hắn nhiều lần định nghỉ và đi tìm việc khác để sống. Nhưng rồi nói thì nói, ngày mai thức dậy hắn cũng vác Bồ cào đi đào tiếp, cứ thế và cứ thế- thời gian qua nhanh thật, mới đây mà hắn đã ba mươi sáu tuổi đời, chẳng vợ con, ngày hai buổi gắn bó với cái Sở rác to lớn nầy.

 

      Một hôm đang làm quá mệt mà cũng chẳng có kết quả gì, hắn nghĩ hôm nay xem như đói rồi. Dù biết sẽ đói nhưng hắn suy nghĩ. Kệ, tới đâu thì tới, ngưng việc ngồi giải lao một tí, hút vài điếu thuốc, uống ly nước rồi làm tiếp còn như kiểu nầy chắc có ngày sẽ vùi thây nơi đống rác hoang tàn nầy quá.

 

      Có nhiều đêm hắn tự hỏi ? Chẳng lẽ trời sinh mình ra- lớn lên chỉ biết làm cái nghề đào rác nầy để sống sao ta. Khốn nạn thật. Và, số hắn dường như là như thế.

 

Thủy Điền

08-05-2017

 

188- Cha Mẹ Khó Khăn, Con Sanh Dối Lòng

 

   Bà cứ thắc mắc mãi. Tôi và ông đâu phải là kẻ bị xã hội trách chê, mà thằng Quãng nhà mình cũng đâu đến nổi. Thế thì tại sao? Kể từ lúc lên mười cho đến bây giờ nó lại sanh cái bệnh nói dối cha mẹ thường xuyên chứ. Thật khó hiểu và bực bội vô cùng.

 

      Bà thì sống rất thanh bạch đàng hoàng, mẩu mực, đâu ra đó biết kẻ dưới, người trên tình láng giềng, thân thuộc. Luôn coi trời phật là đấng anh linh, rằm nào bà cũng đi chùa cúng phật, bố thí người nghèo, dạy con cũng thế. Còn ông thì một một, hai hai chân thành, hiền hậu, luôn mang tâm đạo rộng lòng ra giúp kẻ thế cô. Cả hai lúc nào cũng được những người xung quanh quí mến,

 

      Đặc biệt lối dạy con trong gia đình cũng vậy, tất cả phải ngăn nấp, nề nếp, quí trọng người khác là điều trước tiên.

 

      Ông thì mãi lo tấp nập với cuộc sống hàng ngày, ngoài chuyện gia đình dạy dỗ con cái dường như để bà quán triệt tất cả. Luôn cứ sợ con hư nên bà rất khó khăn, cái gì bà cũng rầy la, rào đoán trước, hầu ngăn ngừa phòng khi chúng làm những điều tổn hại đến bản thân và người khác.

 

      Thuở nhỏ, chúng nghe lời bà răng rắc, bà bảo sao chúng cũng làm thế, trong sinh hoạt có chuyện gì vui, buồn đều kể cho mẹ nghe tất, mong được mẹ khen hay bênh vực. Nhưng từ lúc càng lớn khôn - biết suy nghĩ cũng là lúc bà càng khó khăn hơn. Chính vì lẽ ấy, chúng bắt đầu nói dối dần vì biết khi nói ra điều gì mẹ ưng lòng thì thôi, còn không bà sẽ quát cho một trận tơi bời. Những khi bị mẹ mắng chúng thấy tự mắc cỡ trong lòng và với bè bạn chúng càng lại thấy xấu hổ hơn. Ngày lại ngày, mỗi câu chuyện, mỗi vấn đề dường như chúng ém nhẹm luôn để cho mẹ được yên tâm và không mắng nữa.

 

      Một hôm vì ham vui, chúng bạn rủ nhau ra đồng đào Chuột, bắt Dế bỏ học, về trễ. Chúng dối mẹ cô giáo bảo ở lại học bù. Bà ở nhà đâu có biết và vẫn tin là như thế. Ít hôm sau gặp cô giáo giữa đường, cô giáo hỏi? Thì té ra mọi chuyện.

 

      Và, tiếp theo. Chiều về, muốn đi chơi cùng bè bạn mà không dám xin, sợ mẹ từ chối,  đành lừa đi thăm bạn bệnh. Ai ngờ ! Giữa đêm khuya đang ngon giấc, Công an đến nhà gõ cửa, báo bị tai nạn và hiện đang được chữa trị tại nhà thương. Tiếp nối- tiếp nối biết bao chuyện lừa dối, chúng làm cho ông bà phải đau đầu sau những cơn sóng gió.

 

      Qua bấy lần trên bà luôn tự hỏi ? Thế mà không tự thoát cũng như không có những câu trả lời thích đáng. Tại sao nguyên nhân dẫn đến những tình trạng khó hiều vô cùng?

 

      Với những hành động trên bà càng lúc càng gắt gao hơn, hầu muốn giảm đi được những tệ trạng ấy. Nhưng rồi kết quả vẫn là con số không. Cuối cùng chỉ biết lê la than phận, may mà ai giúp được điều gì.

 

      Thiên hạ bên ngoài vì thương ông bà mà nói, không biết ông bà có hiểu hay là không chịu hiểu „Bởi khó khăn quá nên chúng mới dối lòng „Đấy thôi.

 

Thủy Điền

07-05-2017

 

 

 

 

 

 

 

187- Chậu Cá Lia Thia

 

 

    Sau chín năm, sáu tháng hắn được trở về đoàn tụ gia đình và cũng chẳng biết làm gì ngoài việc ăn, ngủ để dưỡng sức. Hàng ngày hắn thường hay ngắm ngía cái chậu cá Lia thia của thằng Mẫn rồi bảo: Mẫn à.

-         Thả mấy con cá trong chậu đi con, tội nghiệp chúng nó quá, chúng nó tội gì mà nhốt qua năm nầy, tháng nọ. Thôi cho nó về với sông, với bè bạn thiên nhiên để được đoàn tụ chung sống thảnh thơi. Có được không con ?

-         Không được đâu bố à, con đã dầy công nuôi chúng nó gần hai năm nay rồi, con thương và quí chúng nó vô cùng.

-         Biết, con đã mến tay, mến chân và là nguồn vui thú sau những giờ học tập. Nhưng bố khuyên con hãy thả nó đi Mẫn. Nghe lời bố đi con.

 

      Thấy thằng Mẫn mang ra hồ thả ba con cá Lia thia thật đẹp, lòng hắn nửa vui, nửa buồn vì nghĩ rằng chúng nó cũng như mình vừa ra khỏi trại và buồn lúc nhìn thằng Mẫn chẳng mấy vì vui khi mất đi tình bạn hàng ngày suốt mấy năm qua.

 

      Hắn hồi ba mươi sáu tuổi là một ông cốm to, từng đeo trên cổ áo hai bông mai bạc, từng giữ chức Trung đoàn trưởng, từng chỉ huy cả ngàn người, tiếng hét của hắn biết bao người khiếp sợ. Nhưng sau ngày đất nước thống nhất hắn được triệu đi Du lịch xa, không thời hạn gần mười năm trời, khi trở về hắn là một kẻ khờ câm, ít nói, lầm lì, dường như thói quen muốn tránh né những người xung quanh. Lòng hắn luôn luôn lúc nào cũng sợ ai rình rập bên mình.

 

      Lúc hắn được mời đi, vợ hắn chỉ ba ba tuổi, còn thằng Mẫn mới lên hai, mà giờ nó đã gần mười hai tuổi rồi. Khi hắn về, hắn không nhìn ra thằng Mẫn và thằng Mẫn cũng chẳng biết hắn là bố của mình. Hai kẻ lạ hòa nhau gần mấy tháng trời mới rõ ra tình bố con.

 

      Một hôm, thừa cơ hội, hai bố con khi thân thiện bên nhau, hắn mới dám mở lời khuyên thằng Mẫn và giải thích rất cặn kẽ về số phận con cá. Rồi kể sơ sơ về số phận của mình. Sau khi kể và giải thích xong, hắn đem so sánh giữa hắn và mấy con cá thì thằng Mẫn mới chịu mang con cá ra hồ để thả. Lúc Mẫn về, hắn gọi Mẫn lại gần hắn một lần nữa để bày tỏ nốt lòng mình. Rằng ! Bố rất vui khi con đã trả nó về với thiên nhiên, trả nó về với thực tại, tự do và cũng rất đau buồn khi nhìn thấy con mỗi ngày sau khi đi học về không còn nhìn thấy mấy người bạn của mình gần hai năm trời bên nhau.Vừa nói xong gần hết câu, hắn cảm động, tự dưng nước mắt hắn bắt đầu rơi… rơi dài trên má. Hắn nghẹn lời và không nói nữa.

 

      Cũng may, là thằng Mẫn đã lớn, hiểu được hắn, khi nghe hắn kể và so sánh giữa hai cuộc đời gần như giống nhau và sau mấy ngày buồn bả ấy Mẫn trở lại bình thường, không một chút gì lưu luyến về cái bể cá Lia thia nữa và luôn tỏ vẻ yêu thương bố mình hơn. Khi chàng hiểu ra ông là người đã chịu nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Và, kẻ đã làm điều ấy cũng giống như chính  mình đang nhốt mấy con cá Lia thia xinh đẹp gần hai năm trời trong bể. Chỉ có khách hơn một điều là Mẫn luôn thương yêu những con cá và cho ăn, thay nước rất đầy đủ nên con cá dù bị nhốt, nhưng vẫn mập mạp và không chết. Còn riêng bố mình cũng giống như con cá ấy và mọi điều dường như ngược lại. Thật đáng tiếc cho một kiếp người.

 

Thủy Điền

 

07-05-2017

 

186- Mười Năm Tái Ngộ 

 

   Khi lão Tạch vừa lái xe ra khỏi cổng nhà, Dartmann đứng nhìn theo chăm chú. Tự hỏi? Tại sao Tạch lại làm thế mà chẳng nói với mình lời nào, câu chuyện mười năm nay hắn vẫn giữ yên phăng phắc. Có lẽ……..! Nhưng không sao. Té ra Tạch là một con người nhân đức, vô lượng.

 

     Dartmann là một nông dân, anh ta có một trang trại nuôi gà khá lớn cả ba đời nay từ lúc ông bà nuôi bằng chuồng rơm và bây giờ toàn là nuôi bằng máy Công nghệ. Năm 1979 khi vừa đến Đức công việc đầu tiên của Tạch là ở trang trại nầy với nhiệm vụ là mỗi ngày theo dõi tình trạng sức khỏe của mấy con gà, sáng sớm phải đi một vòng xem anh nào ngấc ngư, cú rũ thì bắt bỏ sang chuồng riêng có người chữa trị và chiều cũng thế phải đi qua một vòng nữa. Chỉ trong hai vòng đi theo dõi là Tạch mất hết một ngày làm việc.

 

     Trang trại cũng chẳng có đông người làm việc, nên Dartmann thường hay cận kề những công nhân và xem những người nầy như anh em ruột. Có nghĩa ai muốn làm gì thì làm, tùy ý. Dartmann chưa hề ngó ngàng hay để ý đến. Miển công việc của mọi người hoàn thành thì thôi.

 

     Vì tiếp cận với thú vật hàng ngày, nên Tạch cũng có lòng thương yêu chúng và anh nghĩ ra là nuôi một con chó Yarsi để khi làm việc về có mà hủ hỉ cho vui. Thường thì tuổi thọ con chó cũng khoảng 13-15 năm. Nhưng không may con Yarsi của Tạch mới tám năm là đã qua đời sau một cơn bệnh nặng.

 

     Tiếc thương con Yarsi, mến tay, mến chân tám năm bên cạnh, Tạch không đành bỏ nó và mướn người ta hỏa táng, lấy cốt đem về nhà. Hắn suy nghĩ nhiều đêm, nếu mang đến Nghĩa địa chôn cất thì phải mất rất nhiều tiền hơn nữa không được gần gủi con Yarsi thường xuyên. Và, chỉ có cách là mang đến trang trại của Dartmann chôn lén dưới gốc cây cổ thụ nơi hắn thường hay đậu chiếc xe để được hàng ngày nhìn thấy nó và cúng cho nó một ít thức ăn cho lòng nó khỏi đói và lạnh.

 

     Nghĩ xong, Tạch xem lịch, chọn ngày tốt và mang cốt Yarsi đến gốc cây cổ thụ trong trang trại Dartmann chôn, trong lặng lẽ và không ai hề biết . Ròng rã gần mười năm trời ngày nào hắn cũng cúng đều đặn và khi cúng xong, hắn tẩu tán thức ăn ăn cũ của ngày hôm trước ngay, tránh Dartmann thấy là hỏng hết.

 

     Sau mười hai năm làm việc, cơ sở của Dartmann đóng cửa và Tạch cũng mất việc, nên phải tìm việc khác và con Yarsi từ đó phải đành nằm lại một mình nơi gốc cây cổ thụ cô đơn và cũng chẳng có gì ăn hàng ngày. Thật là tội nghiệp vô cùng. Không phải Tạch bỏ phế, nhưng vì sợ bị lộ, sợ Dartmann biết được bảo mang đi nơi khác.

 

Theo dòng đời vì công ăn, việc làm, Tạch lưu lạc nơi nầy, nơi khác gần mười năm trời. Sự giao tiếp giữa hắn và Dartmann dường như bị cắt đứt.

 

     Một hôm Tạch trở về chốn cũ và ghé thăm Dartmann, người bạn- ông chủ ngày xưa giờ đã gìa theo thời gian. Đang ngồi ăn trưa cùng mọi người. Tạch không còn gì phải giấu giếm nữa, phải đành nói thật cho mọi người biết, dù có ra sao thì ra. Rằng hắn về đây trước là để thăm gia đình Dartmann sau là thăm con Yarsi và xin phép Dartmann cho hắn cúng con Yarki một ít thức ăn. Giữa bàn, Dartmann và mọi người ai cũng chưng hửng. Tại sao lại có chuyện nầy?  Rồi tất cả đành lặng im như đang ngưỡng về con Yarsi và cũng chẳng biết nói thế nào về câu chuyện vừa qua.

 

     Khi chia tay, Tạch về, Dartmann đứng nhìn theo tiễn bạn mà cảm phục tấm lòng nhân đức của một con người và tự hứa trong lòng là ông sẽ tiếp tục những gì mà ngày xưa Tạch đã dành cho con Yarsi.

 

Thủy Điền

03-05-2017

 

 

 

 

 

 185- Tháng Tư Nào Năm Xưa

 

   Hôm nay thứ bảy, mới sáng sớm mà trời đã mưa như thác đỗ. Thường thì ở Đức vào đầu tháng năm chỉ còn sót lại những cơn mưa nhỏ để chuyễn mùa. Đang ngồi uống Cà- Phê với bà xã, nhìn qua song cửa thấy một người đàn ông mặt áo mưa trùm phủ, đi thẳng vào nhà. Ngỡ ai, té ra là ông bạn nhà thơ Bửu Tùng của tôi. Lật đật mở cửa- vào đi Tùng.

 

- Đi đâu mà mưa gió cực thế, sao không chờ hết mưa rồi sang có khỏe hơn không.

- Cũng định vậy.

-Uống Cà- Phê nhé.

Ừ.

- Hỏi thật sao nay đến sớm thế ?

- Buồn mầy ơi.

- Tôi đâm hơi Tùng. Bộ bà xã đòi ly dị sao mà sáng bỏ nhà sang tao sớm thế mà còn bảo là buồn.

- Mầy quên ngày mai là ngày gì sao ?

- Xin lỗi mầy. Chắc mầy tưởng có mình mầy biết buồn, còn mấy triệu người ly hương và tám chục triệu dân Việt Nam vui lắm sao?

- Tao đâu nói thế. Điền nầy ! Mau nhỉ, mới đây đã bốn mươi hai năm rồi, nhớ hồi nào anh em mình mười tám, hai mươi. Bây giờ cộng trừ sáu chục cả. Ngỡ mấy mươi năm hòa bình, đất nước mình êm ả, kẻ ly hương còn có ngày trở về, xã hội sống trong cảnh thanh bình, an lạc ai ngờ ! Xa quê thì vẫn mãi cứ xa, ở quê nhà thì tin tức phơi đầy trên mạng, báo chí, hình ảnh cấu xé, rối ben như chùm giẻ rách, tranh nhau từng tất đất, tiền bạc chia rẽ lẫn nhau. Tệ trạng xã hôi càng ngày, càng lan tràn khắp chốn, mấy ngày nay càng nghĩ, càng buồn không chịu nổi, trong đến gần ngày nầy sang tâm sự với mầy cho vơi đi phần nào.

 

Thấy Bửu Tùng là người cũng có chút lòng với quê hương đất nước thật cũng đáng khen và đáng phục. Bởi xưa nay hắn lúc nào cũng thế. Ăn cơm nhà mà lo chuyện người ta nên cái nghèo cứ đeo đuỗi ngần mấy chục năm nay mà vẫn không buông. Cũng thời đi vượt biên như thiên hạ, cũng thời hai vợ chồng ngày nào cũng đi làm như mọi người, mà ai ai cũng cất nhà riêng, xe đẹp, sống cuộc sống vinh hoa còn hắn thì ở nhà mướn, đi chiếc xe thời Hitler chưa làm Thủ lãnh Đức Quốc Xã chẳng hiểu hắn thế nào. Nhưng được một cái không riêng cá nhân tôi mà tất cả những người khác cũng thế, hắn rất tốt và thương yêu vô cùng, nên cả ngàn người Việt sống ở tỉnh nầy từ đứa trẻ cho đến người già đều qúi hắn. Khi nghe nói đến nhà thơ Bửu Tùng là chỉ có biết khen mà thôi. Ngày xưa quen- bạn cho đến bây giờ hắn thỉnh thoảng cũng hay làm thơ- thơ tình rất hay, nhưng nhất định không gởi và nhờ ai đăng cả, chỉ âm thầm tặng vài người quen biết mà thôi.

 

Nói chung vào những ngày nầy, ngày Lịch sử sang trang, ngày u buồn nhất của người dân Việt và nhất là những người Việt tha hương. Không riêng bạn tôi Bửu Tùng mà cả triệu người đang ngậm ngùi, khóc thương cho nước Việt, cho dân tộc Việt nam cứ thăng trầm trong nỗi khổ khi ngước lên vách tường nhìn tờ lịch cũ.

 

 

Ngày ba mươi tháng tư

Nhìn chăm tờ lịch cũ

Mà đôi mắt chảy ròng

Ôm mặt tiếng hu hu

 

Ôi ! Thương thời quá khứ

Thương người lính đi tù

Mười mấy năm thăm thẳm

Nơi miền bắc xa mù

 

Ôi !Thương đời viễn xứ

Hàng triệu người ly hương

Chết- sống giữa trùng dương

Lìa quê, xa Tổ quốc

 

Khóc…. khóc và cứ khóc

Thương nhớ những anh linh

Những người đã hy sinh

Vì giống nòi. dân tộc

 

Ba mươi tôi ngồi khóc

Tháng tư nào năm xưa.

 

Thủy Điền

28-04-2017

 

 

 

 

 

 184- Đêm Màu Hồng

 

   Trời đã gần bốn giờ sáng rồi, thế mà hắn vẫn chưa chịu đi ngủ, cứ vẫn để điện phòng khách sáng trưng như ban ngày, cứ ngồi lì bên chai Wihsky dang dở, chắc lưỡi tiếc hoài, sao đêm vội qua nhanh quá để ta được mặn nồng bên nàng thêm tí nữa.

 

      Thường thì tối thứ bảy nào hắn cũng hay đến những phòng trà quen thuộc, uống vài cốc Wihsky, nhìn ngắm xung quanh thấy cô nàng nào đẹp, đi một mình rồi mò đến mời rượu, làm quen. Nói chung những người đến đây đa số là độc thân, ham vui hay những người có gia đình đang gặp vấn đề mang tâm sự buồn đến để giải khuây. Trong số nầy cũng có người tốt, thật tình và cũng có kẻ năm trời, bảy nước, tám lênh đênh.

 

      Bản thân hắn nằm trong ba hạng người ấy, nhưng thuộc dạng ham vui, đã bao lần hắn muốn tìm cho mình một cô bạn đẹp, dễ thương, thật tình. Nhưng hắn toàn gặp thứ mà làm cho hắn sau khi tan tiệc về nhà phải điên đầu gần mấy ngày dài. Hể gặp cô nàng đẹp hồi đầu chưa vô rượu rất dễ thương, khi thấm dần là bỏ hắn và tìm người khác ngay. Còn gặp những cô đàng hoàng thì trong bỗng chốc sẽ biến dạng mất. Bởi họ chỉ đến đây để uống rượu vui rồi về ngoài ra họ không cần những thứ khác. Đặc biệt có những cô muốn ở lại với hắn suốt đêm thì lại xấu còn hơn Thị nỡ.

 

      Đêm nay may quá, sau ngần mấy năm trời lui tới phòng trà "Đêm màu hồng " Hắn tình cờ gặp được một người cùng cảnh ngộ. Vừa ngồi uống rượu, vừa ngắm ngía xa gần, hắn thấy có một cô gái xinh đẹp, mặt chiếc váy đỏ ngồi một mình tận mãi đến mười hai giờ đêm mà chẳng có ai vò vè thăm hỏi. Hắn mang đến mời rượu làm quen, vỡ ra cô ấy đã ly dị chồng gần tháng nay và đang tìm một nửa phần đời mới. Thừa cơ hội hắn tiến gần và tấn công. Và, cô ta cũng đáp lại hắn một cách chân tình, vừa uống rượu, vừa nhẩy, vừa tâm sự nàng mãi miết đắm say bên hắn như đôi tình nhân. Hắn cũng thế, dìu nàng trong vòng tay tình ái. Hai người vui say bên tiếng nhạc thật dịu dàng, ấm cúng. Nhưng tiếc thay, những giây phút ấy thật ngắn ngủi vô cùng.

 

      Bây giờ trời đã ba giờ khuya rồi, phòng trà phải đóng cửa, hắn phải đành chia tay cô bạn mới ra về trong nuối tiếc và cũng chẳng biết họ còn nói những lời gì mật ngọt................ sau cái bắt tay tạm biệt ấy.

 

Thủy Điền

01-05-2017

 

 

 

183- Giờ Nầy Anh ở Đâu ?

 

   Ròng rã 39 năm dài, cứ đến ngày 30-4 là bà Trang làm cái đám giỗ nhỏ rồi mặc chiếc áo dài đen đứng trước bàn thờ chồng hai tay vừa xá, vừa nói nho nhỏ: Cúng anh thì cúng, nhưng tôi không tin anh qua đời anh Quang à. Nói xong bà lấy tay lau giọt nước mắt và đi thẳng vào buồng.

 

     Ông Quang ngày xưa là Trung úy Phân Chi khu trưởng của một xã ven biển ở miền trung, khi Giải phóng vào ông bỏ về quê miền tây lẫn trốn, đến năm 1978 ông có cơ hội vượt biên cùng bao người khác. Trước khi đi ông bảo bà nên ở lại trừ hậu họa và lo nuôi nấng hai con thơ và chờ vào cơ hội khác. Bà thấy ông nói cũng đúng, nếu đi hết, lọt thì không nói gì, còn lỡ..... thì chết chùm. Thôi đành để mình ông đi trước, có gì thì cũng có bà bên cạnh.

 

     Đêm chia tay buồn lắm, kẻ đi, người ở. Hồi ấy cả hai còn son trẻ, dưới màn đêm lệ đỗ như mưa, hỡi ai thấu hiểu. Chuyến tàu càng xa- xa dần- khuất bóng bà trở lại căn nhà mà cõi lòng tan nát, chẳng biết có qua cơn sóng gió hay không, bao nỗi sợ giăng đầy trong trí. Ông đi mà ruột dạ chẳng yên, bỏ lại sau lưng một giàn trách nhiệm nào chồng, nào cha, thật thê thảm vô cùng.

 

     Sau một tuần- một tháng- một năm bà cứ đợi chờ- đợi chờ tờ Điện tín từ phương xa gởi về, nhưng rồi cũng chẳng thấy. Khóc...khóc suốt năm dài không biết ông có mệnh hệ gì, bà nghĩ nếu còn sống đương nhiên là ông phải nghĩ đến vợ con là điều trước nhất. Vậy tại sao? Câu hỏi được đặt ra gần mấy chục năm trời mà chẳng có câu trả lời, chuyện vô cùng ngộ nghĩnh.

 

     Qua những năm mở cửa, thỉnh thoảng có người về thăm quê, bà thường hay lê la thăm hỏi về ông. Người ta không nói một cách chính xác mà quanh co, lòng vòng khiến bà đăm nghi đủ thứ. Có lúc bà nghĩ ông đã chết dọc đường bởi tai nạn sóng biển. Có lúc bà nghĩ ông bị bắt và chết trong ngục tù, nếu bị bắt và chết trong ngục tù thì nhà nước cũng báo cho bà biết mà đem xác ông về chớ chẳng lẽ nào. Có lúc bà nghĩ ông đã phụ bạc bà mà có vợ khác và đành im lặng luôn cho đến ngày nay. Bao nhiêu suy đoán, nghi vấn đã làm cho bà càng ngày càng héo mòn thân xác, các con càng ngày, càng lớn- trưởng thành. Và, vẫn luôn tự hỏi ? Giờ nầy anh ở đâu.

 

     Nhớ ông, thương ông dù sống hay chết, dù chung thủy hay bội bạc, năm nào cứ đến ngày 30-4 là bà mặc chiếc áo tang đen và lấy ngày ấy để giỗ cho ông. Nhưng lòng luôn tin rằng, ông vẫn còn hiện diện trên cõi đời nầy.

 

Thủy Điền

30-04-2017

 

 

 

182- Cái Khéo, Cái Khôn

 

 

    Ông bà mình thường hay nói: Tháng năm chưa nằm thì sáng. Thật đúng vậy, chỉ còn mấy ngày nữa là đến tháng năm, gần hai mươi mốt giờ đêm mà trời còn sáng trưng và bình minh mới sáu giờ là trời bắt đầu sáng rực.

 

    Thường thường thì vào ngày thứ bảy hàng tuần, nếu không bận việc gì tôi, nhà thơ, nhà văn Lê Thanh, nhà thơ Bửu Tùng hay tự đi chợ mua món gì đó về ba anh em làm hết chai Whitky rồi chia tay về ngủ. Mùa đông thì lai rai trong nhà, mùa ấm thì ngồi sau vườn. Hai tuần nay trời ấm dần nên chúng tôi đem ra vườn cho tự do.

 

     Sáng sớm thằng Thanh đánh xe chở Bửu Tùng đến rước tôi đi chợ Á Đông mua Lươn làm sẵn về nấu canh chua. Đến tiệm đi lòng vòng định mua thêm vài rau cải bổ xung, thì bỗng nghe bà chủ tiêm đang đứng cầm hủ chao Cò của mấy ông Trung Quốc cằn nhằn “ Tham chi mà làm một Karton đến bốn mươi tám keo vừa nặng, vừa bán không kịp, hết hạng, vứt bỏ lỗ vốn hoài. Nếu không lấy về bán thì thiên hạ hỏi không có hàng rồi bỏ sang tiệm khác, mất khách, chán ơi là chán. “ Sao không chịu học mấy ông Nhật Bổn, người ta làm cái gì cũng thế ít, vừa phải thôi, ăn hết người ta sẽ mua tiếp có gì đâu mà lo. Nói xong bà đi tiếp cầm mấy món hàng Trung Quốc khác, lật qua, lật lại mà trông có vẻ không hài lòng.

 

     Thằng Thanh lanh trí, khều nhẹ. Bà chủ tiệm nói đúng đó tụi bây. Tôi và Bửu Tùng ngơ ngẩn mình biết gì chuyện mua bán. Hai thằng tôi chưa đi Nhật Bổn và Trung Quốc lần nào nên cũng không rành rẽ gì mấy, có chăng lâu lâu  xem Ti Vi một vài lần mà cũng không để ý đến. Riêng Lê Thanh thì có dịp đến Nhật hai lần vì anh ta có cô em ruột định cư ở Tokyo và du lịch bên Trung Quốc một lần, nên anh ta có vẻ am tường hai xứ nầy lắm. Thanh bảo: Người Nhật khéo lắm, họ làm cái gì là ra cái đó, gọn gàng và vừa đủ, chất lượng cao, sạch sẽ, lối sống của họ cũng rất trật tự. Từ thôn quê đến thành thị nơi nào cũng như nơi nấy thật đáng khen và cần phải học hỏi ở họ thật nhiều. Còn bên Tàu thì ngược lại. Tôi bảo phải thông cảm cho người ta chứ, vì dân đông quá hơn tỷ người, làm sao tránh khỏi những bê bối được. Thanh nói tiếp. Đó không phải là vấn đề, rồi anh ta xoay ngang tay cầm chai nước tương Kikoman và nói đây các bạn hãy nhìn, rất sạch sẽ và trong sáng và mỗi Karton người ta chỉ đóng thùng rất ít (Mỗi Karton chỉ sáu chai mà thôi và các mặt hàng khác cũng đều như thế không quá ba kí lô rất dễ bưng bê và vận chuyễn). Còn Karton Chao hay Bún tàu, Bún gạo, Bột của Trung Quốc nặng gần hai mươi lăm kí lô rất nặng nề và bề bộn, ai bê, ai khuân cho nổi nhất là đàn bà thường hay đi chợ, miệng nấp chao thì đầy muối trong khó nhìn vô cùng. Bao nhiêu đó cũng đủ chứng minh cho ta thấy người Nhật rất khéo, nước tương là món ăn hàng ngày ta đâu cần ép, gã bán một lần năm ba chục chai/ Karton, chỉ ít thôi, khi họ ăn xong, họ sẽ tìm mua chai khác ngay. Còn người Trung Quốc thì cũng không dỡ họ muốn bán tấn, bán ép một lần cho thật nhiều để được lợi nhuận cao, nhưng cuối cùng người dùng thì chỉ thế thôi, số thừa còn lại lâu ngày sẽ qua hạng thì coi như vứt bỏ và sau đó chán không thèm mua nữa. Điều nầy sẽ đi đến tình trạng bất lợi cho cả hai. Ngược lại giữa người Nhật và người tiêu dùng thì tồn tại lâu dài. Bởi cái gì cũng thế khi ta ăn ít thì sẽ thấy ngon và muốn ăn tiếp. Còn ăn nhiều quá hôm sau sẽ không muốn nhìn món ấy lần hai.

 

     Qua câu chuyện nhỏ dọc đường, ngoài chợ, trong tiệm trên, cho ta bài học kinh nghiệm về cái khéo, cái khôn. Tuy hai cái đều tốt cả, nhưng theo tôi cái khéo theo lối người Nhật nó sẽ tồn tại lâu dài bởi trong đó có hình dáng cái khôn đang hiện lờ mờ bên cạnh. Còn cái khôn theo lối người Trung Quốc nó chỉ nhất thời và nó lẩn quẩn cái hình bóng lợi nhuận ban đầu rồi sau đó biến dạng luôn.

 

     Nhìn người ta, rồi nhìn lại mình và tự hỏi? Biết bao giờ dân ta được như người Nhật Bổn thì hạnh phúc biết dường nào.

 

Thủy Điền

26-04-2017

 

 

 

 

Bút Ký: Thủy Điền

 

 

Bildergebnis für my tho xưa

 

181- Như Mới Vừa Hôm Qua

 

 

   Lâu lắm, 42 , 43 năm rồi. Thời gian đâu phải là ngắn, trên dưới nửa đời người. Vì cuộc sống bôn ba nơi hải ngoại, dường như đã làm cho tôi quên mất những cảnh cũ, xưa mà tuổi xuân tôi từng trải. Nhưng trong tiềm thức thì còn. Bởi nó là kỹ niệm. Hôm nay Chúa nhật, đường phố vắng lặng, lộ ít xe chạy, mọi người gần bên hình như còn ngủ nướng. Bỗng tiếng chuông nhà ngân lên- mở cửa, thì ra bạn tôi Nhà văn, Nhà thơ Lê Thanh mang đến tặng tôi hai bức ảnh về Mỹ Tho xưa (Quê hương của chúng tôi) Đó là ảnh một bến xe Lam nơi mà thời học sinh tôi và Thanh mỗi ngày lên và xuống để về một quận lỵ cách Mỹ tho 12 cây số và ảnh cây cầu Quây được bắt ngang qua sông Bảo Định là cầu nối giữa thành phố Mỹ tho và xã Tân Mỹ Chánh nơi chúng tôi theo học. Nơi ấy chính là trường trung học Nông Lâm Súc Định Tường.

Tôi vui mừng chào Thanh và hỏi ?

-Hôm nay mầy ngủ không được sao mà tìm đến tao sớm thế ?

Thanh cười.

-Ngủ ngon, nhưng tao vừa tìm được hai bức ảnh hay quá, chẳng lẽ xem một mình nên vội mang tặng mầy để cùng xem cho vui.

-Thế thì tuyệt, vào đi Thanh. Tao làm hai cốc Cà- phê tao với mầy uống nhá.

-Ừ.

 

     Hai thằng vừa uống vừa ngắm ngía hai bức ảnh rất vui thú, như hai thằng nhóc con không khác. Thanh thì nhận diện một đường, còn tôi thì nhận diện một ngã thật buồn cười. Nhưng cuối cùng cũng đi đến kết luận chung và chính xác nơi chúng tôi thường qua lại.

 

     Suốt ba năm dài, khi hai tôi chuyển từ trường Nông Lâm Súc Tân Hiệp về NLS Định tường để học, ngày nào hai thằng cũng cho hai chiếc xe đạp lên mui và đi xe Lam đến Mỹ Tho, rồi từ đó chạy tiếp hơn bốn cây số nữa để đến trường và chiều về ngược lại cũng y như thế.

 

     Hồi ấy còn trẻ cũng khá vui, bạn bè thường gọi tôi và Thanh là hai nhà thơ “Bồ Đề “. Nhiều lúc cũng giận, nhưng nhiều lúc tôi nói với Thanh họ nói cũng đúng. Từ hai đối lập ấy hòa lẫn với nhau nên chúng tôi lờ đi, ai gọi gì thì gọi, tùy họ. Tại sao họ lại gọi chúng tôi như thế ? Bởi, dân học Nông Lâm Súc là dân mặc áo màu nâu hơn nữa đoạn đường từ thành phố Mỹ tho về trường hồi ấy hai bên đường có rất nhiều quán Hủ tiếu chay của người đạo Dừa từ cồn Phụng Bến Tre sang, bán rất rẻ khoảng 150 đồng (Thời ấy) Một tô còn mấy quán Hủ tiếu thịt thì mắc hơn, nên tôi và Thanh thường hay vào ăn Hủ tiếu chay vào những buổi trưa để cầm hơi và vào học tiếp cho mãi đến chiều. Ngoài ra những lúc thực tập nông trại ngoài hiện trường tôi và Thanh hay làm những bài thơ tình trêu ghẹo những cô bạn gái cho vui. Trong nhí nhỏm nầy chúng tôi chưa bao giờ nhận được lời phiền trách mà ngược lại họ rất thích vô cùng nên họ ban tặng cho chúng tôi cái tên khá hay đó là nhà thơ “Bồ Đề” Danh hiệu nầy suýt chút nữa nếu không đi vượt biên ở nhà chắc hai tôi ế vợ luôn.

 

     Qua Tây rồi cũng thế, thằng Thanh có bản tính đùa dai, hay gợi lại chuyện cũ ngần mấy năm trời và vô tình để lọt vào tai một ít người. Tôi thấy ngại nên bảo: Thanh mầy làm ơn chuyển hướng và tắt cái đài mầy giùm tao không khéo nơi mơi nó lan tràn hết nước Đức có môn hai thằng xin vô chùa ở luôn. Nó hỡ là cười. Thì đâu có sao đâu, vào đó bọn mình còn sướng hơn, khỏi lao động và còn gặp rất nhiều Tài tử- Giai nhân nữa là khác. Và, ta tha hồ làm thơ ca tụng.

 

 

     Nói chung chuyện xưa, tích cũ nếu kể thì kể sao cho hết. Nhưng ấn tượng nhất là khi nhìn lại hai bức ảnh mà Thanh mang tặng, tự dưng cảm giác tôi  nghĩ về nó như vừa mới hôm qua.

 

Thủy Điền

 

23-04-2017

 

 

Bildergebnis für my tho xưa

 

 

 

 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

Ähnliches Foto

 

180-Chị Ba Hiến Với Chiếc Áo Bà Ba

 

Thằng Hoàng khều nhẹ tôi hỏi ?

-         Ê Điền, nãy giờ mầy ngồi uống Cà- phê với tao, mầy có thấy gì không ?

-         Có.

-         Cái gì ?

-         Thì tao và mầy cùng hai cốc Cà- phê.

-         Lãng nhách, mầy vô duyên thật.

-         Tao hỏi mầy đàng hoàng.

-         Thì tao cũng trả lời với mầy thật nghiêm túc đây.

-         Thôi không giỡn nữa, cái người đàn bà mặc bộ đồ bà ba, tay cầm chiếc cặp táp đi vào Ngân hàng. Mầy biết đó là ai không ?

-         Mầy thế nào, ở Tây Đức lạnh thấy mẹ ai mà mặc áo bà ba ra đường mầy ơi. Mắt mầy hôm nay lé hay có vấn đề rồi đó.

-         Có thật đó mầy, mầy nhìn kìa, bà ta đang ra khỏi Ngân hàng, mầy nhìn kỷ  xem.

-         À ! Chị ba, vợ anh ba Hiến, chủ Nhà hàng Long Phụng. Cũng lạ thật, sao hôm nay chỉ ăn mặc thuần túy Việt nam, bà nầy rẳm rẳm mà bảo tồn Văn hóa Việt dữ dằn quá ta.

-         Tao thấy chỉ nhiều lần như thế. Mới nhìn chỉ tao chợt nhớ hồi mới giải phóng, ở xứ tao cũng có nhiều bà Cán bộ mặc đồ bà ba, tay xách cặp táp màu nâu, hông đeo súng ngắn trong oai vệ lắm. . Mấy ông Sĩ quan ngụy thấy mấy bả là muốn té đái trong quần. Vì sợ mấy bả mời đi học.

 

 

     Gia đình anh chị ba là một gia đình đi vượt biên, rồi được sang định cư tại Tây Đức theo diện nhân đạo. Khi học tiếng đức xong, anh ba chưa có việc gì làm và xin vào nhà hàng tàu do người Hồng kông làm chủ để làm kiếm tiền. Chị ba và các cháu thì ở nhà. Hồi đầu anh ba mới vào họ sắp xếp cho làm nghề rữa chén và xắt rau- lâu ngày anh ba lên chức phụ bếp- rồi lên bếp chánh. Đúng ba năm sau, thấy rành nghề và kiếm được ít tiền, anh nghĩ mình tự tìm một cái tiệm làm chủ, hơi đâu làm công cho thiên hạ hoài. Ngoài ra cái nghề nầy cũng chẳng khó khăn chi. Nghệ thuật chung quy chỉ xào xào, nấu nấu mà thôi.

 

     Anh ba thì ít học, nên nhận công tác phần bếp núc. Còn chị thì kha khá nhận phần bồi bàn, tính tiền, rót nước và kiêm luôn mặt hành chánh như: Giao dịch Ngân hàng, Ty Thuế vụ và các vấn đề linh tinh liên quan đến cái nhà hàng Long Phụng.

 

     Thật tình anh chị ở Việt nam là người nhà quê, nên việc mặc chiếc Váy hay chiếc quần Jean da bò đối với chị là một điều khó khăn, còn hơn bắt chị gánh năm mười gịa lúa ở quê nhà. Bởi thế trong năm bảy năm đầu, tiếng tuy ở Đức, Châu âu chị toàn mặc những bộ đồ bà ba được mang từ Việt nam sang, sau đó khi cũ, hư hết thì chị mới chuyển sang mặc đồ tây dần dần.

 

     Trong những lần đi giao dịch hay mua sắm ở đâu chị toàn mặc bộ đồ bà ba và xách theo chiếc cặp táp đựng những hồ sơ cần thiết. Có nhiều lần chị đi ngoài phố rất lắm người tây ngắm nhìn, vì thấy hơi là lạ. Họ không cười và nghĩ đây là Văn hóa của một dân tộc cũng giống như người Ấn độ họ quần tròn khi ra đường mà cũng có sao đâu. Riêng chị ba cũng thế, chị chẳng biết mắc cở hay ngại ngùng và cứ xem xã hội nầy giống như Việt nam thôi.

 

     Có nhiều lần anh ba cũng khuyên chị nên thay đổi cách ăn mặc cho hợp với người ta. Nhưng chị bảo: Chị không quen, rồi anh cũng bỏ lờ luôn và cuối cùng thành thói quen.

 

 

     Mỗi khi chị đi ngang qua quán Cà- phê để vào Ngân hàng. Thằng Hoàng nó thường hay bắt gặp và hồi tưởng lại những ngày đầu khi nó vừa tròn mười tám tuổi. Sáng, chiều nào cũng hay nhìn thấy những nữ Cán bộ cầm loa, đeo súng phóng thanh mời đến ngôi chùa gần nhà để họp.

 

Thủy Điền

22-04-2017

 

 

 

 

 

 

Bút Ký: Thủy Điền

 

 

 Ähnliches Foto

 

 

179- Chiếc Lá Muộn Màng

 

Chiều hôm qua đi dạo một vòng về. Bỗng dưng lòng tôi có cái cảm giác lạ thường hơn mọi khi, uống ly nước lả, ngồi trầm ngâm một chút. Tôi tự hỏi ? Sao lại thế kìa.

 

    Tôi và Thanh Thanh là đôi bạn từ thuở nhỏ, học cùng lớp, cùng thôn. Ngày ngày chúng tôi thường qun quýt bên nhau rất là thắm thiết và lớn lên từng ngày- từng giai đoạn cũng thế. Mỗi khi gặp nhau thường hay kể chuyện nầy, chuyện nọ, cười đùa trong thật là nhí nhỏm, lý thú vô cùng.

 

     Rồi đường đời càng xa hơn, lớn lên ai ai cũng có một công việc riêng, đời sống và tình cảm riêng, nên thỉnh thoảng những cuộc gặp nhau cũng thưa dần hơn lúc thời còn bé. Dù bận bịu rất nhiều, nhưng hai đứa rất cố gắng khoảng hai ba ngày là nàng sang hoặc tôi sang rủ nhau đi dưới hành cây gần nơi chúng tôi ở, tâm sự, chia sẻ đủ điều những chuyện vui, buồn trong cuộc sống.

 

     Riêng tôi thì chưa có gì hết, chỉ ngày đi làm hai buổi rồi về, vô tư. Có chăng là ba chuyện lặt vặt, vớ vẩn nơi công xưởng mà thôi. Còn nàng thì nặng mối hơn nhiều như: Chuyện gia đình, tình yêu và công việc. Chuyện nàng hay kể cho tôi nghe nhiều nhất là chuyện tình yêu của nàng. Thật lòng thì tôi cũng chẳng muốn nghe chuyện của người khác làm gì và riêng nàng cũng không nên kể tôi nghe những gì riêng của mình. Sỡ dĩ nàng kể ra có lẽ nàng xem tôi là người quá thân thiện hơn cả ruột thịt của mình. Nhiều lúc tôi muốn cãn ngăn những lời kể ấy, nhưng sợ nàng buồn mà đành lặng im vừa đi , vừa ừ ừ, hử hử.

 

     Hôm nay đi dạo, nàng không kể hay vui đùa như những lần đi dạo trước, đi xa nhà một khoảng gần một cây số nàng vẫn bình thường, rồi bảo mệt và không đi nữa, ngồi bẹp giữa vệ rừng khiến tôi cũng phải ngồi theo luôn. Nàng lặng thinh chẳng nói lời nào, tay cầm hai chiếc lá vàng so đo. Tôi bảo sao Thanh Thanh lại ngồi ở đây, thôi ta đi một lúc rồi về, kẻo trời sắp tối.

 

     Trời càng lúc càng tối dần. Xung quanh bao phủ một màu vàng óng ánh, tiết trời mùa thu răm răm lạnh, nàng ôm chặt thân tôi rồi thì thầm „Em yêu Anh „ Và, vất đi một chiếc lá vàng. Tôi ngơ ngác nhìn nàng, người như chết đứng. Tại sao nàng lại nói ra điều nầy chứ? Rồi cũng chẳng rả lời, trả vốn gì cả, mặc cho nàng làm gì thì làm. Một lúc lâu tôi bảo còn Ngân. Nàng bảo Ngân là Ngân, em sẽ trả Ngân về với cuộc sống bình thường. Khi nghe nàng thốt ra những lời ấy, tôi bắt đầu bực bội, nghĩ không tốt nàng ngay và cũng chẳng biết phải nói sao với người bạn đổi tính kỳ hoặc nhanh lẹ như thế  và tìm cách rẽ sang hướng khác. Thôi mình về Thanh Thanh, trời đã nhá nhem tối, hôm nao bọn mình gặp lại và tâm sự nhiều hơn. Nàng gật đầu và trong có vẻ vui mừng, hớn hở lắm. Còn lòng tôi thì rối như tơ vò.

 

     Tuy, không nói lời từ chối, sợ nàng giận. Nhưng tôi tìm mọi cách không đi dạo nữa. Càng đi dạo với nàng chính là càng giết chết Ngân, càng phá vở hạnh phúc Thanh Thanh và càng làm cho người tôi trở thành người bất lương hồi nào mà không hay biết.

 

     Qua mấy lần từ chối, thỉnh thoảng chiều chiều ngồi nhìn xuyên cửa sổ tôi nhìn thấy nàng đi dưới hàng cây vàng lá, tay cầm chiếc lá vàng mà trông thật đáng thương.

 

Thủy Điền

21-04-2017

 

 

 

 

Tùy Bút: Thủy Điền

 

 

Ähnliches Foto

 

178-Cũng Vì Nguyên Tắc

 

  Bà chấp tay đứng trước quan tài ông vừa lạy, vừa xá, vừa nói: Tại ông nguyên tắc quá nên người ta không để cho ông sống nữa. Thế thì ông cũng đừng hờn giận và trách móc ai cả. Tất cả do mình gây ra mà thôi và bây giờ còn kéo theo một bầy vợ con khổ sở khi nhà thiếu vắng cha, chồng.

 

     Trên đời chưa từng thấy ai khờ như hắn, năm mười tám tuổi hắn bị gọi động viên và thi hành quân dịch. Hắn được đưa vào Trung tâm huấn luyện, nơi đây hắn được đặt dưới sự chỉ huy của một viên Trung úy già rất khó tính và nguyên tắc. Nơi Quân trường hắn được dạy những điều cơ bản của người lính như : Sáng ngủ dậy tập thể dục, xếp chăn mền, cột giầy, đánh bóng giầy, chùi súng và cách chào khi viên Sĩ quan đến, thao dợt ngoài bãi tập, chạy, nhẩy, leo trèo, bò hỏa lực, bắn súng v..v…

 

     Đã là lính thì phải thành thạo những điều nầy, nhưng hắn cứ làm sai lên, sai xuống khiến viên Sĩ quan luôn luôn nỗi cáo, cứ phạt vạ hắn lên tục. Phạt đến nỗi hắn không làm nổi nữa, nhiều lúc phải bỏ ăn và ói ra mật xanh. Thấy thế, hắn có người bạn cạnh giường và cùng phòng luôn giúp đỡ hắn, hầu cho hắn bớt bị phạt. Nhưng nhiều lần hắn cũng chẳng thành công và cả người bạn của hắn cũng nỗi điên và quát hắn luôn. Nói chung gần ba tháng trong quân trường hắn chẳng làm được chuyện gì cả, chỉ toàn nghe tiếng phê bình, mắng nhiếc, phạt vạ của viên Sĩ quan chỉ huy.

 

     Hắn thì có thân hình béo mỡ, lúc nào cũng thèm ăn, cuối tuần hắn thường mua thêm đồ ăn giấu trong ngăn rương để tối khi mọi người ngủ hết và lấy ra ăn. Một ngày thứ hai đầu tuần viên Sĩ quan cho lệnh mở các rương xem lính sắp xếp có ngăn nấp không, tình cờ ông ta bắt gặp trong rương hắn có ba ổ bánh mì hình thoi, ông tức giận tịch thâu và bắt phạt hắn hít đất 100 cái, đồng thời phạt hắn lau chùi nhà vệ sinh một tuần dài, cuối tuần không được ra khỏi trại. Cơn phạt nầy quá nặng so với hắn. Hắn vừa cực nhọc, mất tự do, lại không mua được thức ăn thêm nên hắn rất bực bội mà không dám nói.

 

     Thấy anh em cuối tuần được rong chơi gặp gia đình cha mẹ, anh em và còn mua được ít thức ăn thêm, lòng hắn càng sôi sục và thù hận viên Sĩ quan đến tột độ.

 

     Một hôm đến giờ hắn gác. Lẽ ra hắn phải ra vọng gác ngồi gác, đàng nầy hắn đi ngược vào nhà vệ sinh, hắn hy vọng đêm nay thế nào vị Sĩ quan cũng đi vệ sinh, hắn sẽ trả thù viên Sĩ quan ngay tại nhà vệ sinh nầy, rồi mọi chuyện đến đâu thì đến. Sau một tiếng đồng hồ đổi gác, bạn hắn ra chồi canh sao không thấy hắn ở đó và bắt đầu đi tìm hắn. Vừa vào đến nhà vệ sinh thì thấy hắn đang ở đây, tay cầm súng chẳng quần áo gì cả. Bạn hắn vội mắng cho hắn một trận, hắn chẳng trả lời và chỉ biết ngồi khóc. Bạn hắn nhẹ giọng, khuyên hắn hãy mặc đồ vào và trở về ngay vị trí cũ. Hắn nhất định không chịu và còn lớn tiếng với bạn, súng lên nòng, lời qua, tiếng lại cả căn trại vang tiếng giữa đêm khuya. Viên Sĩ quan chạy đến, lẽ ra ông ta phải dùng lời ngọt nhẹ để ngăn cãn, hầu tháo gỡ được vấn đề. Ngược lại ông không làm thế, cứ nghĩ hắn có bản tính luôn luôn sợ ông và ra giọng mắng cho hắn một trận rất to tiếng. Hắn bắt đầu nỗi cáo lên, gương mặt như con hổ. Hận- càng hận thêm hắn chỉa súng vào viên Trung úy- bóp cò và viên Trung úy đả tử vong tức khắc. Tưởng hắn cũng vươn súng bắn luôn người bạn đã từng giúp đỡ hắn. Nhưng không ngờ ! Hắn để đầu súng vào miệng rồi bóp cò nghe cái „Rầm „ Rồi từ từ ngã xuống, súng một nơi; Hắn một nơi.

 

     Hắn và viên Trung úy nằm bất đng trên vũng máu. Và, người bạn chân thành chỉ biết ôm đầu khóc ngất trước cảnh tình thê thảm.

 

Thủy Điền

19-04-2017

 

 

      

 

 

 

Truyện ngắn: Thủy Điền

 

 

Bildergebnis für ẢNH MÙA HÈ HOA PHƯỢNG

 

177-Sau Bài Diễn Văn

 

    Vừa đọc bài diễn văn bãi khoá. Hắn chạy u ra sau hậu trường ngồi khóc. Bạn bè hắn thấy vậy bu lại an ủi, chia sẻ. Ngỡ hắn xúc động khi đọc bài diễn văn chia tay. Ai dè......!

 

    Hắn là một học sinh học bình thường, chẳng có gì nổi bật trong lớp, đối với các môn khác hắn luôn luôn điểm năm, điểm sáu và cao lắm điểm bảy là cùng. Nhưng riêng môn văn lúc nào hắn cũng đạt điểm mười. Đặt biệt trời sinh hắn có cái tài viết văn, làm thơ và đứng nói chuyện trước công chúng rất mạch lạc và lưu lót dù hắn chưa một lần học hỏi ở ai, nên mọi người đặt cho hắn cái tên là Hoàng MC.

 

     Ngoài giờ học hắn hay viết những bài văn ca ngợi các cô gái và làm những bài thư tình lãng mạn tặng người nầy, người kia nên có nhiều cô rất thích hắn.

Cũng nhờ cái mả khá đẹp trai và tài viết lách nên hắn chiếm được quả tim của một cô gái xinh đẹp nhất, nhì trong trường. Cô ta rất khoái hắn, bởi hắn luôn ca tụng cô ta bằng văn chương hết lời. Hai người rất khắng khít suốt mấy năm trời, tưởng đâu sẽ mãi mãi bền lâu.

 

     Mỗi năm hay mỗi khi nhà trường có tổ chức những buổi lễ  đều cũng phải nhờ đến hắn. Vì ngoài tài MC hắn còn có cái tài tổ chức rất hay và trận nào hắn cũng thành công và hoàn thành nhiệm vụ nên thầy Hiệu trưởng rất tin tương ở hắn.

 

     Năm nay hắn học hết lớp mười hai, cũng là năm cuối cùng, hắn phải rời khỏi nhà trường và bước sang ngưỡng cửa mới. Mỗi năm vào mùa nầy nhà trường tổ chức rất long trọng và hắn là một thành viên cũng không kém. Ngoài những bài diễn văn của các thầy cô. Hắn được mời làm đại diện cho tất cả học sinh toàn trường để đọc diễn văn cảm ơn, tri ân tấm chân tình của các thầy cô đã bao năm dầy công dạy dỗ.

 

     Trước những ngày nầy hắn cũng đã nghe phong phanh cô nàng của hắn đã lẹo tẹo với anh chàng khác, hắn tuy chưa rõ mọi chuyện, nhưng đã ghen tức trong lòng.

 

     Không may, ngày bãi khóa hắn đang đọc diễn văn ngon trớn. Tình cờ hắn nhìn xuống hội trường thấy cô nàng của hắn đang thân thiết, âu yếm, vui vẻ bên người mới. Vừa đọc hắn vừa tức giận hằn học. Bỡi thế hắn bị vấp đi, vấp lại mấy lần, phải xin lỗi qúi thầy cô và các bạn vì hôm nay hắn không được khỏe. Vừa đọc xong hắn chạy một mạch xuống hậu trường ngồi khóc hu hu như bé lên năm. Các bạn đang tô son, điểm phấn để chuẩn bị cho kịp buổi văn nghệ sắp tới, cùng nhau đến an ủi, chia sẻ với hắn. Ngỡ hắn quá xúc động vì lát nữa đây hắn và mọi người phải chia tay nhau sau những năm dài miệt mài nơi mái trường. Bao câu hỏi tấn công tới tấp, nhưng hắn chẳng trả lời trả vốn vì cả, cứ ngồi gục dầu lặng im.

 

Thế là hết, đường chia đôi ngã

Tình chúng mình theo nước, trôi sông

Giờ em xa mặt, cách lòng

Bỏ tôi, bỏ cả một chồng thơ yêu.

 

     Và, Lặng lẽ ra về trong nỗi niềm cô đơn đầy thất vọng.

 

Thủy Điền

18-04-2017

 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

Bildergebnis für ẢNH ĐÊM TRĂNG

 

 

Đêm Ấy Bên Em

 

    Giữa đêm rằm tháng tám, trời sáng như ban ngày. Hai đứa bên nhau, đứng nhìn xa vầng trăng như một quả bóng tròn vàng đang rơi xuống đất trong thật đẹp và hùng vĩ vô cùng. Nó như một khuôn ảnh lộng đôi tình nhân đang âu yếm giữa một góc trời yên tĩnh.

 

     Đêm ấy tôi và em hẹn nhau ra bãi cỏ sau vườn. Mùa hè tháng tám trời ấm áp, đêm cũng như ngày lúc nào cũng 25 độ trở lên, trăng trời sáng rực, đến nổi những cái gì nho nhỏ xa xa cũng đều hiện lên trước mắt. Với chiếc áo lót mỏng và chiếc quần Jean cụt tôi nghĩ em không thể nào ngồi bên tôi lâu được và có lẽ đêm nay tôi phải cỡi trần để lấy áo che đỡ thân nàng. Thỉnh thoảng ngồi bên em dăm ba phút tôi lại hỏi ? Có lạnh không. Em bảo không sao, trời vẫn ấm và ngồi bên anh lại càng ấm thêm. Tuy, nàng nói thế, nhưng lòng tôi vẫn ngài ngại vô cùng. Đêm càng khuya- càng khuya là lúc đôi mắt bắt đầu mệt mỏi. Cứ nhìn em và cứ nhìn. Nàng chẳng sa sút tí nào cả vẫn thao thao bất tuyệt trò chuyện bên tôi như đang tâm sự giữa ban ngày. Tôi thầm nghĩ chắc ngày hôm qua nàng ngủ nhiều, say lắm để đêm nay thức trọn cùng tôi. Trong khoảnh khắc tôi tự thấy mình xấu hổ vô biên. Làm con trai mà sao yếu đuối quá. Tôi cố gắng gượng người và chỉ biết ừ…ừ khi nghe em nói rồi cố nén, giấu sự mệt mỏi giữa đêm khuya. Lắm lúc muốn bảo em, thôi mình về, đêm đã tàn. Nhưng không đành, sợ nàng giận. Trời cũng sắp sáng- sáng dần, xa xa làng bên có một vài tiếng gà lạnh đít đang gáy ó o gọi bạn giữa đêm trường. Sương lạnh, hai đôi vai bắt đầu thắm ướt, em đứng dậy ôm chặt thân tôi như chia sẻ phân nửa cái tiết trời giá buốt, khiến lòng tôi cảm động vô cùng.

 

Và, khuôn ảnh trăng đêm cũng bắt đầu dần dần xa, bỏ lại chúng tôi, đôi tình nhân từng khoảng nhỏ để đi nơi khác. Tôi và em tay nắm tay nhau nhẹ bước………….nhẹ bước …… ra về!.

 

Thủy Điền

 

17-04-2017

 

 

 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

Bildergebnis für mùa hoa phượng đỏ

 

 

175-Chuyện Tình Buồn

 

 

Nầy Ngọc !

  Chỉ còn vài tiếng nữa, sau buổi văn nghệ bãi trường nầy buồn lắm Ngọc.

-Tại sao? Có gì đâu mà buồn, về nghỉ vài ba tháng xả hơi, rồi mình sẽ gặp lại nhau, chứ chẳng lẽ mầy thôi học luôn à.

- Không phải, cái con nhỏ nầy ngớ ngẩn thật, chẳng hiểu gì cả.

- Mầy bảo tao ngớ ngẩn thì tao chịu, tao chẳng hiểu ý mầy muốn nói gì.

- Phượng chưa tàn, mà cảm giác của tao dường như sắp tàn cái gì đó.

- À, tao hiểu rồi "Người yêu đi xa phải không? ". Chuyện có thế mà trầm ngâm than thân, trách phận. Có ai nói từ biệt mầy chưa mà bi quan thế. Giỏi mà tưởng tượng. Làm trai lớn lên- tới tuổi- trưởng thành là phải tòng quân, ai cũng thế, đâu riêng gì người yêu của mầy. Tao chưa yêu ai, cũng như chưa ai yêu tao. Nếu lâm vào hoàn cảnh của mầy tao rất vui vẻ và chấp nhận ngay. Bởi đó là bổn phận.

- Rồi mầy để coi, tao cố chống mắt nhìn mầy. Anh hùng lắm.

 

     Dù Ngọc an ủi, phân tích thế nào đi nữa Thắm vẫn luôn sợ hãi. Khi buổi văn nghệ chấm dứt mọi người ai về nhà nấy, chỉ còn lác đác xa xa, xót lại vài đôi nhân tình đang quấn quýt bên nhau trong số đó có Thắm và Hoàng. Chàng rất buồn khi phải nói lời tạm biệt và nàng cũng chẳng vui khi xa cách người tình mà thời gian cũng chẳng ai biết được. Những giọt nước mắt, những lời nhắn gởi, hứa hẹn cứ dùng dằng như chẳng muốn xa nhau.

 

     Hai năm xa cách là cả chuỗi ngày nhung nhớ, chờ đợi. Nàng chưa bao giờ nhận được tin tức của chàng thật là thê thảm và nàng cũng chẳng biết phương nào để gởi gắm tâm tư. Vì những lời hứa hẹn ngày xưa mà nàng đã từ chối biết bao cuộc tình cũng như bao lần có người dạm ngỏ. Thời gian- thời gian sự chịu đựng nào cũng có giới hạn. Thất vọng, nhiều lúc nàng cũng định.........! Nhưng rồi cũng không, cố gắng và cố gắng.

 

     Ngỡ ngày ấy sẽ đến sau bao năm chờ đợi. Nhưng không ngờ, một hôm nàng nhận được tin chàng trở lại, trong hạnh phúc đã biến thành đau khổ khi nhìn thấy chiếc quan tài đã ôm trọn đời anh.

 

Mùa thu chưa đến, phượng tàn

Tình yêu chưa trọn, sao chàng vội xa

Ngày về chưa tặng vòng hoa

Đành mang tang trắng lệ nhòa đôi mi

 

   Một lần khóc.....lại thêm một lần khóc....khóc hôm nay và.....khóc tận mai sau !

 

Thủy Điền

16-04-2017

 

 

   

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

 

174- Gương Sầu Trăm Năm

 

Cả nhà ai cũng bảo: Cái thằng hết nói nổi, tưởng nó đi xa, học rộng có vợ đẹp, con xinh. Ai ngờ ! Đi cho đã đời, bốn năm năm trời trở về, dẫn theo con nhỏ nhìn gương mặt là thấy nghèo trăm năm.

 

   Ngày nó đậu tú tài toàn phần- lên Sài gòn học Đại học cả nhà rất vui và đặt hết niềm tin vào nó như : Học thành tài và có vợ đẹp con xinh để khi trở về quê còn hãnh diện với bà con làng xóm. Trước khi đi nó hứa hẹn đủ điều và  tỏ vẻ cho mọi người an tâm. Thú thật thì trong lòng nó chỉ nghĩ đến hai chữ công danh, chớ chưa bao giờ nghĩ đến chuyện tình duyên, tình dáng gì cả. Bốn năm trời miệt mài cứ học- học để cố lấy được cái bằng cấp sau nầy hầu tìm được một công việc nhẹ nhàng và cuộc sống khá khỉnh hơn.

 

   Mỗi năm khi đến hè, nó thường hay về quê nhà để nghỉ ngơi và phụ giúp gia đình. Một tháng nghỉ hè nó luôn nhận những câu hỏi rất khó trả lời. Và, để làm vừa lòng mọi người, nó hay nói vòng vo tam quốc như mình đang có người yêu nhưng chưa chín mùi. Để mọi người an tâm và không hỏi nữa.

 

   Ngày lại ngày, cái gì rồi cũng đến. Lòng tuy chưa tính xa vời, nhưng bỗng dưng lại xuất hiện những mối tình bất ngờ mà nó không thể nào từ chối được.

 

   Lần đấu tiên nó yêu một cô gái khá xinh đẹp, lúc đầu nó ngỡ mối tình như thế cũng khá ổn và hy vọng trong tương lai khi ra trường sẽ có thêm những gì tốt đẹp hơn. Nhưng tình yêu học trò nào có bền lâu. Trong khoảnh khắc cô ta đã tìm bến mới. Thế thì nó là kẻ bơ vơ và bị gạn qua một bên. Trong sự tức tưởi và đau khổ, nó thề nhất định sẽ không bao giờ yêu ai nữa, dù bạn bè gán cho nó là kẻ vô duyên hay khó tính mặc, tùy.

 

   Nói thì nói thế, làm người mà. Ai cũng có trái tim, hơn nữa sống giữa môi trường tập thề cả rừng người thanh trẻ, không gặp, không quen người nầy rồi cũng sẽ gặp quen người khác, không làm sao tránh khỏi.

 

   Còn một năm nữa là đến ngày nó ra trường. Tình cờ trong một đêm Văn nghệ nó quen được một cô bạn tuy không đẹp bằng người, có gương mặt buồn, nhưng có giọng nói rất dễ thương nhẹ nhàng và trìu mến. Nàng luôn âu yếm, chăm sóc cho chàng từ li, từ tí. Với những thái độ và hành động chân thật ấy nó quên mất đi những cái gì mà bạn bè và người đời cho là xấu xa và cứ nghĩ nàng hiện tại cái gì cũng đẹp cả. Mỗi lời nói của nàng dường như cuốn hút vào trong tim chàng. Đêm nào cũng thế, nó luôn mơ tưởng và chờ ngày học xong sẽ đem nàng về gia đình để ra mắt cả nhà và nhất định sẽ lấy nàng làm vợ.

Sự yêu đương càng lúc càng lên tột đỉnh, dù ai nói thế nào đi nữa nó cũng gạt ngang và bênh nàng một mực.

 

   Sau khi tốt nghiệp xong, nó rất vui vẻ và hớn hở đưa nàng về quê. Nó nghĩ mọi người trong nhà ai cũng như nó sẽ yêu thích và chìu chuộng nàng và xem nàng như một thành viên không hơn, không kém. Nhưng ngược lại, không phải thế,  khi nó vừa đưa nàng về đến nhà một lúc sau tất cả mọi người đều hổi ơi và thất vọng tràn trề khi nhìn thấy tương lai của nó là cả một đời sầu.

 

   Nó rất bất bình, nhưng không làm sao để bênh vực và giải thích cho mọi người hiểu về nàng được, trong lúc mọi người đang có ác cảm với gương mặt buồn thảm của nàng. Với những đối kỷ ấy nó phải đành lặng lẽ đưa ngược nàng trở lại Sài gòn và từ đó dường như lâu lắm ……lâu lắm …….thật là lâu   ………..nó chưa về lại quê hương ; Dần quên nơi chôn nhau cắt rốn.

 

Thủy Điền

14-04-2017

 

 

 

 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

Ähnliches Foto

 

174- Lương Tâm Của Người Bội Bạc

 

  Khứa đang nhậu ngon lành với đám bạn làng, buổi nhậu hôm nay ngon lắm nào lòng lợn, mấm nêm, khế, chuối chát. Bỗng dưng khứa nhìn thấy vợ, con khứa đi đằng xa tay xách, tay bồng trông rất cực nhọc. Khứa đứng dậy và nói: Thôi tao đi nhá, tụi bây cứ nhậu một mình đi, đừng chờ tao, tao không trở lại nữa đâu. Cả đám bạn nhìn khứa ngơ ngắc, chẳng hiểu có chuyện gì. Và, hôm nay khứa lại đổi tính như thế.

 

     Khứa là con nhà khá giả nhất nhì trong làng. Ỹ cha mẹ giàu, có của khứa chẳng thèm đi học, cứ ở nhà ăn chơi lêu lỏng. Năm khứa vừa tròn hai mươi tuổi sợ khứa hư hỏng thêm nên cha mẹ khứa đi cưới cho khứa một cô vợ ở làng bên. Hy vọng có vợ rổi khứa sẽ đổi tính và lo làm ăn. Nhưng chứng nào tật nấy, cưới vợ là cưới, khứa cứ ngỡ như mình còn đang độc thân. Khứa muốn làm gì thì làm đừng hòng ai cãn ngăn được khứa. Với bản chất như thế lẽ ra đàn bà họ bỏ khứa tám đời dương rồi. Mà không biết sao khứa rù rì cách nào cứ mỗi năm đều lọt ra một đứa. Hiện tại khứa có tất cả là bốn đứa, hai gái, hai trai. Đã có một bầy con như thế đúng ra khứa phải có trách nhiệm và bổn phận nuôi và dạy dỗ chúng. Nhưng không, khứa bỏ mặc hết cho cha mẹ khứa, cứ tỉnh queo đi nhậu và bè bạn tối ngày. Vợ khứa biết chồng vậy nên chịu thua và để khứa muốn làm gì thì làm. Có những hôm khứa say về nhà còn mắng nhiếc vợ và đánh đập mấy đứa nhỏ thật là vô lý.

 

     Bảy năm sau cha mẹ khứa già, bệnh lần lượt qua đời, các con khứa bắt đầu lớn dần, khứa cũng già theo thời gian. Theo người ta khứa cũng nên bớt dần những tật xấu xa một chút để các con noi theo. Thế mà khứa cũng chẳng quan tâm. Tình cảnh gia đình càng lúc càng xa xút- đi đến nghèo nàn, vợ con vất vả nơi đầu đường xó chợ để chạy từng miếng ăn, cái mặt. Cảnh rách nát lại càng rách nát hơn. Khứa ngày hai buổi chỉ biết lo ăn nhậu. Sáng sớm mở mắt ra không có rượu là khứa đã thấy khó chịu trong người và chẳng làm được việc gì cả, tay chân rung rẩy như con gà mắt kinh phong trông thật thê thảm. Nhưng khi gặp bạn, vô vài ba xị là khứa tỉnh và minh mẩn lại ngay như người bình thường.

 

     Một hôm bạn bè khứa trúng mánh khao khứa một chầu nhậu linh đình nào lòng lợn, mấm nêm, rau cải đủ thứ. Buổi tiệc nầy lẽ ra khứa phải nhậu đến khuya hay đến sáng mai mới về.

 

     Nhưng vừa bày tiệc ra khứa chỉ mới uống có vài ly chưa thấm vào đâu. Chợt khứa nhìn thấy đằng xa có người đàn bà tay xách, vai mang, tay bồng, tay bế đứa trẻ khóc la, ngã lên , ngã xuống trông rất thê thảm giữa trời trưa nắng. Tự dưng lương tâm của khứa cắn rứt, không chịu nổi, đành bỏ buổi tiệc đứng dậy xin lỗi mọi người và chạy đến nơi để cứu đỡ vợ con và đưa cả hai về nhà. Vợ khứa thấy sao một điều kỳ lạ và đứng ngẩn ngơ chỉ biết nhìn khứa mà chẳng nói nên lời.

 

     Khi về đến nhà vợ khứa bảo khứa trở lại tiệc nhậu tiếp đi để bạn bè trông đợi.

Khứa trả lời: vợ con như thế…. cửa nhà như thế….. ly rượu, miếng mồi còn gì ngon nữa. Và, kể từ đó khứa bỏ rượu luôn và bắt đầu ở nhà phụ hợ vợ con làm việc nầy, việc nọ.

 

     Trong những buổi cơm chiều vợ khứa thường hay nói với các con “ Con người dù gì đi nữa, ai ai cũng có một lương tâm “ Mà cha của các con hiện tại là một điển hình.

 

Thủy Điền

 

11-04-2017 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

 

 

173- Những Giọt Lệ Héo Mòn

 

Sau khi nghỉ hưu, cũng là thời điểm bà có nhiều thời gian rảnh rổi như: Làm bất cứ những việc gì theo ý thích của mình mà bấy lâu chưa thực hiện được. Đồng thời ôn lại những kỷ niệm xa xưa của thời tuổi trẻ để làm những bài thơ hay viết vài bài truyện ngắn để con cháu sau nầy có mà đọc và hiểu về bà nhiều hơn.

 

    Thuở thời bà là một nữ sinh trường Lê Ngọc Hân, khá xinh đẹp, học giỏi và luôn mang trong hồn với những dòng thơ lai láng, lãn mạn, yêu thương. Chính vì thế mà sau nầy bà trở thành một cô giáo dạy văn khá nổi tiếng và là một nhà thơ được nhiều người biết đến.

 

     Năm mười tám tuổi vừa học hết lớp mười hai, trong dịp nghỉ hè, cấm trại cùng bạn bè tại một vùng quê hẻo lánh. Bà tình cờ quen được một anh chàng cũng cùng sở thích như bà. Hai tâm hồn mơ mơ, mộng mộng gặp nhau rồi yêu nhau giữa đêm trăng sáng. Những dòng thơ tình ái của anh ta đã cuốn hút bà vào một thế giới riêng. Với bao lời hứa hẹn, vội tin bà đã trao hết những ân tình thắm thiết của đời mình và nghĩ rằng cuộc tình ấy sẽ vĩnh viễn thuộc về nhau. Đêm trăng sáng, về đêm càng sáng thêm, bà như nửa say, nửa tỉnh, lâng lâng đầu ngã người trên tay chàng và thầm ước cuộc đời nầy luôn thật đẹp như vầng trăng sáng trên cao đang gieo bao niềm hy vọng vào lòng nhân thế. Và, chàng cũng thế. Những giây phút im lặng là khoảnh khắc để thưởng thức những mật ngọt yêu đương ấy, hai người dường như đã đạt đến đỉnh cao khoái lạc trong cuộc đời.

 

     Đêm hạnh ngộ nào dù vui hay buồn rồi đến lúc cũng phải chia tay, giọt nước mắt bùi ngùi lưu luyến, chỉ còn dẳng lại trong tai những lời hứa hẹn, rồi đường ai nấy đi. Hy vọng một ngày gần nhất ta sẽ bên nhau và bên nhau mãi mãi. Nhưng, xót đau bà cứ ngóng trông từng ngày mà chẳng thấy người trở lại. Còn người đi xa thì quên mất lời hứa ban đầu. Đêm tàn- đêm qua mau bà cứ trăn trở, sụt sùi, tuổi xuân thì dần dà héo khô, ngã mầu theo thời gian từng nhịp gỏ. Chịu đựng- chịu đựng ngần mấy chục năm trời, để rồi chỉ còn nghe hai tiếng phụ bạc và người ấy đã thành gia thất mà chẳng nói một câu.

 

     Thế thì đời xem như đoạn tuyệt, tình coi như dở dang. Biết vậy, nhưng bà vẫn cứ nuôi hy vọng dù hy vọng ấy rất mỏng manh và không bao giờ đến với bà. Đặc biệt với những năm tháng hận tình lẽ ra người đàn ông ấy bà không thể nào tha thứ hay nói cách khác là ghét cay, ghét đắng. Ngược lại bà cứ yêu chàng mãi mãi, yêu như yêu những ngày đầu nơi xóm vắng, yêu như yêu chàng giữa lúc dưới trăng, yêu cho tận đến ngày nay. Chính vì sự yêu ấy, với những lúc u buồn thầm nhớ, bà hay mượn những dòng thơ để an ủi khuây khoả lòng mình. Và, cho người mình yêu biết rằng bà vẫn luôn luôn chung thủy suốt cuộc đời.

 

     Ngần bốn mươi năm ấp ủ một mối tình, gần nửa đời người chung thủy với yêu thương, gần một quảng đời làm thơ tưởng nhớ, qua một kiếp làm thầy bà tự nhũ lòng, đời người là con số và sự may mắn. Ai ai cũng có cái số; Sự may mắn cả.

 

     Nhưng riêng bà như một áng mây đen và những giọt nước mắt héo mòn từ từ rơi trên má…….!

 

Thủy Điền

 

09- 04-2017

 

 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

Ähnliches Foto

 

 

 172- Thành Phố Nhỏ Của Tôi

 

   Sáng đi làm, chiều tan sở về ngày nào cũng thế, tay trái xách chiếc cặp da, tay phải che cây dù đi ngang qua cái Nghĩa địa lớn của tỉnh gần nhà hắn. Hắn thường hay dừng lại một chút nhìn về phía cây cỗ thụ xa xa trong Nghĩa địa và thầm bảo:  Có lẽ ! Chắc cuối đời, mình phải nằm dưới gốc cây của thành phố nhỏ nầy quá. Và, chắc chắn là như thế.

 

     Hắn sang Châu âu nầy đến nay hơn ba mươi bảy năm rồi, được học hành đàng hoàng và có chỗ làm việc nhẹ nhàng như dân bản xứ. Hắn có một bà vợ tây, nhưng không có con cái gì cả. Cuộc sống của hắn rất thoải mái như một người tây thật sự. Nghĩa là hàng ngày chỉ biết đi làm tám tiếng, cuối tuần nghỉ, dẫn vợ du hí nơi đây, nơi đó và hàng năm được nghỉ phép thường niên cũng như những ngày lễ quốc gia hắn đều có một chương trình du lịch xa hẳn hoi. Chính vì thế mà hắn còn tồn tại với bà đầm cho đến khi qua đời. Còn như những anh chàng khác cũng lấy vợ tây và bắt bà Đầm mỗi ngày ngồi trước Tivi xem mấy ông chệt đánh Kung Fu thì hắn cô đơn lâu rồi.

 

     Năm nay hắn sáu mươi ba tuổi, chỉ còn hai năm nữa là đúng thời điểm hắn được nghỉ hưu. Số thời gian còn lại của cuộc đời sau đó,  hắn có thể làm bất cứ việc gì hắn muốn như: Về quê ở luôn hay đi du lịch vòng quanh thế giới mà vẫn có tiền xài cho đến khi qua đời. Ngược lại hắn không có ý định như thế mà cứ trầm ngâm suy nghĩ đâu đâu, rất nhiều lần bà đầm của hắn rất bực bội, thí điều muốn ly dị hắn. Nhưng bà nghĩ già rồi ai làm thế, đó là điều không nên. Vì bà không thể sống với một con người càng già, càng kỳ hoặc. Không bao giờ biêt nghĩ đến sự sung sướng, hưởng thụ mà toàn là là nghĩ đến cái chết và luôn chọn cho mình một chỗ yên thân thật tốt.

 

     Một buổi tối cuối tuần, hai vợ chồng đang ngồi ăn buổi ăn chiều muộn, vừa ăn xong. Hắn bảo: Mình nầy ta chọn một ngày nào đó mình sẽ đến thành phố đăng ký mua miếng đất nhỏ trong Nghĩa địa gần nhà để khi tôi qua đời có mà  chôn nhá mình. Bà đứng dậy nổi máu xung thiên quát cho hắn một trận: Ông có điên không? Ông thấy mình nói hơi lố, nên ngồi im lặng, mặc cho bà mắng thế nào thì mắng. Lẽ ra khi nói những điều mà bà không chấp nhận, ông nên dẹp bỏ những ý nghĩ ấy đi. Nhưng không ! Chiều nào vào buổi ăn xong, ông cũng điều bàn đến chuyện ấy. Nghe mãi nhàm tai, bà bỏ mặc. Kệ  ông, ông muốn làm gì thì làm, tùy . Đừng bàn chuyện nầy trước mặt tôi nữa.

 

     Và, để chìu chồng, một sáng thứ hai, hai ông bà đến Thành phố hỏi và đặt mua miếng đất trong Nghĩa địa, người ta đồng ý và đưa ông bà đến nơi để chọn lựa, ông không cần suy nghĩ rồi chọn ngay dưới gốc cây cỗ thụ mà bấy lâu nay ông hay đứng nhìn nó. Khi đã thỏa thuận giá cả ông chấp nhận và chỉ còn việc chuyển tiền trả vào tài khoản của Thành phố là miếng đất ấy thuộc quyền sở hữu của ông ngay..

 

     Khi ra về  ông rất là hớn hở, còn bà thì mặt bí xị như cái bánh bao chiều. Ông vừa đi, vừa gợi chuyện, nhưng riêng bà thì vẫn lặng thinh cho đến khi về đến nhà.

 

     Gần hơn một tháng trời hai vợ chồng chọi nhau như mặt trăng, mặt trời chẳng ai muốn đá động gì đến ai cả. Nhưng thời gian rồi cũng nguội dần đi. Bỗng một hôm bà nhớ lại chuyện cũ và hỏi? Sao ông lại làm thế ông Nhân? Ông vui vẻ trả lời: Tôi đã lấy bà hơn hai mươi lăm năm nay, bà là người sanh đẻ ở tỉnh nầy, cơ duyên tôi từ Việt nam đến đây tỵ nạn, gặp bà cũng ở đây, sống và làm việc trong thành phố lớn nầy và khi mất đi tôi muốn thu mình vào thành phố nhỏ thân yêu nầy để suốt một đời chung thủy với cả hai.

 

     Thật chuyện gì rồi cũng đến, sau khi nghỉ hưu được một năm, hai ông bà về Việt nam thăm quê được hai lần, rồi bắt đầu ngã bệnh và qua đời giữa một đêm trăng sáng. Để thoả nguyện lòng hắn bà làm y như những gì mà trước đó hắn đã dặn dò. Khi chôn cất Nhân xong bà bảo: Nhân thật là một con người chung thủy và đáng quý trên cõi đời nầy và than thở ….. còn mình mai mốt sẽ ra sao…….!

 

Thủy Điền

01-04-2017  

 

 

171- Những Ngày Đen Tối

 

Sau trận pháo liên hồi vọng từ hướng chùa Ông nhắm thẳng về Dinh Quận và Trung tâm huấn luyện ĐPQ và NQ Tân hiệp. Hơn nửa tiếng nằm chịu trận dưới thân cây Dừa cong bắt qua con kênh nhỏ và đìa cá Tra. Tôi và lão lò mò leo lên bờ. Thân tôi thì ướt đẩm, còn lão thì cả người được Bèo và Lục bình bám quanh.

 

     Lão là một Giáo chức và là Hiệu trưởng trường tôi theo học nhưng cũng là người hàng xóm với tôi gần năm nay. Nhà tôi cách nhà Lão chỉ một đìa cá Tra và con đường nhỏ khoảng hai mươi mét bề ngang. Thỉnh thoảng những lúc rảnh rổi tôi cũng hay thường sang lão tâm sự vào những buổi chiều. Đặc biệt lão cũng có cô em gái út khá đẹp, dễ mến hay rủ tôi sang nghe cô ta vừa đàn, vừa hát vào những đêm trăng.

 

     Những ngày tháng cuối tháng tư năm 1975 tình hình chiến sự ở quê tôi rất nóng bổng và ở nơi khác cũng thế. Hàng ngày vào những buổi chiều là dường như nơi đây phải hứng chịu ít nhất là năm quả pháo từ phương xa bay đến. Bởi thế, dân làng đã đùm túm tản cư đi làng khác gần cả tháng nay. Chỉ còn lác đác một vài thanh niên ở lại để trông nhà. Trong số đó có tôi và lão. Tuy biết chiều nào cũng có những đợt pháo rất nguy hiểm. Nhưng tôi với lão vẫn dửng dưng và cho việc gì đến sẽ đến. Hai thầy trò thường xuyên luân phiên nhau nấu nước trà rồi ngồi trên miệng giếng vừa uống, vừa tâm sự suốt cả buổi chiều và có khi kéo dài đến tối mới chịu về ngủ.

 

     Một hôm khoảng năm giờ chiều, trời còn sáng rực, vừa nấu ấm trà xong, định uống và vô đề tào lao. Tôi nghe từ xa vọng lại một cái “TOON ! Quen thuộc và đoán ngay là tiếng pháo kích. Tôi la lớn: Thầy ơi pháo kích. Lão bảo: Bậy bạ mầy, rồi tôi nhẩy ngay xuống con kênh nhỏ cạnh nhà tôi, nấp dưới lưng gốc Dừa. Lão còn ngồi đó nhịp đùi và khi nghe tiếng nổ cái “Rầm “ Cách đó gần ba trăm mét. Lão lao nhanh xuống đìa cá Tra, với bộ đồ tây bỏ vào quần hẳn hoi, lão không cần biết dưới cái đìa ấy có cái gì cứ nấp và cứ nấp dưới đám Lục bình để ẩn thân. Rồi cùng số phận như tôi chịu trận dưới nước hơn nửa tiếng đồng hồ. Nói chung nấp là nấp vậy, chớ rớt ngay hay gần bên thì cũng tiêu tán thoòng vì xung quanh chẳng có gì bảo vệ, chỉ có nước mà thôi.

 

     Khi lên bờ tôi thì ướt nhẹp, nhưng còn được, chỉ tấm nhẹ là sạch trở lại ngay. Còn lão thì hổi ôi, râu ria tùm lum và nhất là bộ đồ vía màu trắng bổng thành bộ đồ đen xám và phải tắm ít nhất ba ngày thì mới hết cái mùi thơm đặc biệt.

 

     Qua ngày sau tình hình yên ổn trở lại và cảnh trà chén cũng y như cũ. Khi đang ngồi uống trà, trời bắt đầu dần tối, lão cầm trên tay cây đàn của cô em gái khãy và hát bài “Giọt Mưa Trên Lá “ Lão đang hứng hát khúc “Giọt mưa trên trên lá, lác đác là đà………! Tôi ghẹo lão: Thầy ơi pháo kích. Lão không cần biêt ất giáp gì hết quăng cây đàn định nhẩy xuống đìa cá Tra lần nữa. Tôi ngăn lại và bảo: Thưa thầy em nói chơi và củng là tập cho thầy đoán trước sự việc, chứ như lần trước thầy nhẩy muộn quá, nếu quả pháo rớt ngay hay gần bên thì cô mồ côi đó thầy.

Lão cười…cái thằng vịt  vật và thụi nhẹ vào hông tôi một cái.

 

Thủy Điền

 

26-03-2017

 

 170- Cổng Đời

Vào Đã Khó, Ra Cũng Chẳng Dễ

 

Sau tám tuần nằm Viện về, chiều nào hắn cũng ngồi trước hiên nhà, tay phải thoa thoa phần tay trái còn lại và thầm bảo: Mẹ ! Đời cái gì cũng có giá của nó cả.

 

     Năm hắn vừa tốt nghiệp trường trung cấp Vật giá tức trường trung cấp Kinh tế. Lẽ ra, hắn phải lên đường về các tỉnh để nhận công tác như các bạn cùng khóa của hắn do nhà trường phân công. Ngược lại hắn không chấp hành và bỏ cuộc. Ý hắn là muốn tự kinh doanh chứ không muốn làm cho cơ quan nhà nước. Bố mẹ hắn rất bất bình điều nầy, nhưng không ngăn cãn được. Và, cuối cùng cũng phải bỏ ra một số tiền khá lớn để cho hắn kinh doanh. Phải nói hắn có đầu óc kinh doanh thật. Thời gian còn đi học, lúc sáu tháng đi thực tập để làm Đồ án tốt nghiệp hắn có cơ hội được tiếp xúc với nhiều nhà Kinh doanh như: Nuôi cá, chế biến thực phẩm, trồng cây rau sạch v.v…

 

     Khi tốt nghiệp xong, hắn bỏ ra gần hai tháng đi rong các nơi, hắn tìm hiểu đủ thứ và điểm dừng là miền tây để thực hiện phương án nuôi cá Basa. Bước đầu hắn mướn hai mẩu đất gần cuối nhánh sông Sở Hạ tại Đồng tháp và mướn Xáng đào mô hình theo ý hắn. Năm đầu tiên thực hiện hắn thâu được kết quả rất đáng kể (Xem như thành công) Thừa cơ hội hắn vai thêm tiền của ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh rồi mướn thêm năm mẩu đất khác cạnh gần đó và cũng làm y như mô hình ban đầu. Cuộc hành trình của hắn như Diều gặp gió. Chỉ trong vòng ba năm thực hiện hắn đã trở thành một Đại gia khi tuổi đời mới vừa hai mươi bảy.

 

     Nhưng không may, đến năm thứ tư không biết nhà Chế biến thực phẩm cá gặp khó khăn gì mà không trả tiền cá cho hắn. Đợi chờ- đợi chờ mãi gần một năm trời chẳng thấy đồng nào Công ty chăn nuôi của hắn cũng bắt đầu gặp khó khăn về mọi chi trả như: Công nhân, tiền thuê đất, tiền thức ăn, tiền vốn , lãi ngân hàng. Buộc hắn phải bán tất cả tài sản cố định mà chẳng đâu vào đâu. Ngân hàng càng lúc càng hối thúc và cuối cùng hắn phải vai tiền tư nhân tiền lãi rất cao để trang trải. Hầu hy vọng, chờ đợi nay mai nhà Chế biến sẽ thanh toán. Nhưng cuối cùng nhà Chế biến đã biến mất và hắn xem như là kẻ trắng tay.

 

     Số tiền nợ công nhân, ngân hàng, tiền mướn đất, thức ăn đã được giải quyết một ít nên không sao, nhưng tiền vốn và lãi tư nhân là điều quan trọng vì những số tiền nầy đều nằm trong tổ chức xã hội đen. Bởi thế hắn bị lọt vào thế đường củng.

 

    Sau những tuần lễ thương lượng với chúng, hắn có ba cách lựa chọn “Trả, chết và làm việc cho chúng, thì số nợ lớn ấy sẽ được xóa “ Kết cuộc hắn đành chọn phương án thứ ba. Phương án nầy là phải xem cái chết và tù tội như không và phải có máu mặt với hai mươi Đệ tử. Nói là phải làm, một một- hai hai không nói lời thứ ba. Khi hai bên đã thống nhất, hắn được giao nhiệm vụ tại tỉnh nhà của hắn. Nhiệm vụ của hắn là phải lo khâu thâu tiền lãi, thuế đen các tiệm, quán hằng ngày và giải quyết những toa hàng mà khách đã đặt sẵn như đánh ghen, thù hận v.v…

 

     Qua hai năm làm việc với nhập thu rất lớn, hắn được đàn anh cho xóa nợ và sau ngày ấy hắn được chính thức ăn lương và muốn cái gì cũng đều được cả. Cũng may cho hắn, là nhờ có chút kiến thức học vấn nên hắn chỉ nằm nhà tính toán và điều động đàn em làm việc mà không gặp khó khăn chỉ xãy ra vài vụ với băng nhóm khác không đáng kể.

 

     Từ một nhà Kinh doanh rồi trở thành trưởng Băng nhóm xã hội đen hắn luôn nghĩ đây đâu phải là cái nghề của mình. Đó chẳng qua là hoàn cảnh, khi nợ xong mình sẽ nghỉ và không làm nữa. Một hôm các chúa của các tỉnh về họp rút kinh nghiệm, hắn nói với đàn anh hắn xin thôi, không tiếp tục. Đàn anh cười cười mà chẳng trả lời. Khi trở về hắn tự động giao lại cho người kế vị rồi giải nghệ không tham gia vào giới giang hồ nữa.

 

     Đúng một tháng sau khi tự nghỉ, hắn trở lại bình thường và chẳng thấy ai nói động gì đến mình, hắn ngỡ là đã yên ổn mọi việc và nay mai có thể làm một công việc khác, tuy ít tiền, nhưng lương thiện hơn.

 

     Nhưng không ngờ ! Đêm ấy vừa đi uống Cà phê ngoài ngõ về, một nhát Dao chém lén từ phía sau bay tới đã cắt đứt nửa cánh tay trái của hắn rơi xuống đất máu chảy……và máu chảy lênh láng.

 

Thủy Điền

 

19-03-2017

 

 

169-Canh Vịt Tiềm

 

Bà sáu đứng ngoài lan can căn chung cư lầu bốn vọng xuống:

-         Hùng ơi Hùng, ngưng đá bóng đi cháu, mau lên nhà tắm rữa, ăn cơm, đi ngủ,  mai còn đi học . Trời tối rồi cháu. Bà đã dọn cơm sẵn. Mau lên! Mẹ cháu sắp về rồi đó.

-         Dạ, con lên ngay.

-         Ừ.

 

     Từ ngày ba mẹ nó mở cái quán ăn ngoài đầu phố, nó dường như thấy và sống gần bà ngoại nó nhiều hơn. Tối nó ngủ xong thì ba mẹ nó mới lò mò về, sáng nó dậy đi học thì ba mẹ nó còn ngái ngủ. Mọi việc ăn sáng, đưa đón đi học, cho ăn trưa, ăn chiều đều một tay bà ngoại làm hết. Bà già đâu có biết tiếng tây, nên mỗi khi nói chuyện với nó đều bằng tiếng việt, ngày nầy qua tháng nọ nó hiểu và nói tiếng mẹ đẻ rất rành. Những đứa trẻ cở nó sống bên tây nầy đều thua nó cả. Nó nói giọng người việt một trăm phần trăm. Đặc biệt nó chỉ biết ăn đồ việt nam còn những món đồ tây là nó không thích lắm. Mới tám tuổi mà ăn bún riêu thiếu rau muống hay mấm tôm là nó chê ngay hay ăn vịt tiềm thuốc bắc mà thiếu kim châm, núm mèo, núm Tonko, bún tàu là nó biết liền.

 

     Bà ngoại nó thấy nó có một mình, thiếu tình cảm cha mẹ nên bà rất thương và chìu chuộng nó đủ thứ. Hàng ngày nó hay nói với bà khi ăn cơm là nó thích ăn món vịt tiềm thuốc bắc bà nấu nhất. Nên cách một vài ngày là bà nấu cho nó ăn. Mỗi khi bà nấu xong là nó ôm hôn bà lia lịa. Bởi bà làm đúng ý nó.

 

     Một hôm đang ngồi ăn, nó thỏ thẻ với bà:

-         Ngoại ơi, cháu thì thích ăn món nầy, mà chưa bao giờ cháu thấy bà mút cho cháu miếng thịt vịt nào, toàn là bà mút nhằm xương cho cháu không? Ngoại nó cười.

-         Bà cũng không biết sao nữa, bà mút đại, chắc cháu xui đó, ngày mai bà để ý hơn, bà mút thịt cho cháu nha. Thôi bà mút lỡ rồi cháu ăn đi, bỏ thừa mang tội lắm.

-         Dạ, mai ngoại mút thịt cho cháu nha.

-         Ừ. Hùng của bà ngoan lắm.

 

     Thật tình thì trong nồi vịt tiềm thuốc bắc của bà làm gì có thịt mà mút. Bởi hàng ngày mẹ nó mua nguyên con vịt ở chợ về, rồi lóc thịt ra để dành bán cho khách, còn lại những bộ xương, ngoại nó tiếc nên mang về để trong đông lạnh và nầu từ từ hai bà cháu ăn. Bà nghĩ bỏ uổng, hơn nữa bộ xương nấu nước tiềm rất ngọt, hai bà cháu ăn qua ngày cũng được rồi. Ai ngờ ! Nó vô tình phát hiện và nói lên, khiến bà cũng thấy ái ngại vô cùng.

 

     Bà đêm ấy ngồi thức chờ ba mẹ nó về, lúc nó đang say ngủ, bà học lại tất cả câu chuyện. Rằng, thằng Hùng hôm nay nó nói, lâu rồi, nó chỉ toàn ăn xương mà không thấy thịt. Tao mắc cở với nó rối đành nói khéo và hứa với nó ngày mai cháu sẽ được ăn thịt vịt, vậy mai bây mang về cho tao nguyên một con để tao nấu cho nó ăn, chớ tao thấy bấy lâu nay mình có lỗi với nó lắm rồi.

 

     Dạ, được mai con làm theo ý mẹ. Nghĩ cũng xấu hổ cứ lo cấm cúi cái tiệm, kiếm ba đồng bạc mà quên chú ý đến con. Thật tệ . Con xin lỗi mẹ và thằng Hùng, từ đây về sau con sẽ quan tâm mẹ và thằng Hùng nhiều hơn.

-Thôi tối rồi mình đi ngủ đi mẹ.

-Ừ.

 

Thủy Điền

 

11-03-2017

 

 168- Thương Người, Người Chẳng Thương Ta

 

   Gần tháng nay, trong một làng nhỏ, khoảng gần một ngàn dân, nằm ngoài ngoại ô một thành phố lớn, đang xôn xao, bàn tán về chuyện một bệnh viện chuyên trị về bệnh ung thư sắp được dời ra nơi đây. Việc bàn tán nầy cũng có nhiều người ưng thuận, nhưng cũng không ít số người chống đối. Và, người ủng hộ nhiều nhất đó là bà Lorenz.

 

     Bệnh viện nầy đã có hơn năm mươi năm tuổi, được xây dựng ngay trung tâm thành phố. Hồi đầu dân số ở đây rất ít, sự vận chuyển bệnh nhân từ xa đến tương đối dễ dàng, không phiền hà nhiều người. Nhưng qua thời gian, mật độ dân càng lúc càng tăng cộng sự phát triển của thành phố về mặt địa ốc nên phương tiện giao thông càng bị eo hẹp hơn và điều quan trọng khác là bảo vệ mội trường nên thành phố quyết định dời bệnh viện nầy đi nơi khác gần mấy năm nay và cuối cùng tìm được một nơi rất thích hợp, cách ngoại thành khoảng mười lăm cây số. Nơi nầy vừa ít dân, vừa thoáng khí và dễ dàng liên kết các hướng giao thông từ mọi nơi.

 

     Khi chọn địa điểm xong, nhà nước cũng không tránh khỏi làn sóng phản đối của dân bằng những cuộc biểu tình táo bạo “Không chấp nhận “ Vì họ rất sợ khi nghe hai tiếng ung thư và lấn chiếm một diện tích đất khá lớn của họ. Mặc dù phần đất nầy nhà nước đã đền bù rõ ràng. Nhưng bản chất họ là người nông dân họ rất bảo thủ.

 

     Trước làn sóng chống đối ấy, ngược lại cũng có khá nhiều người tán thành và cho đây là sự ích lợi chung. Trong số nầy có người rất hồ hởi phấn khởi vô cùng. Đó là bà Lorenz, bà là một nông dân chân chất cũng giống như bao gia đình nông dân khác và bà cũng cùng số phận là bị mất một diện tích đất khá lớn chứ đâu phải không. Nhưng bà rất vui. Chính vì sự ủng hộ ấy mà ngày nào hể gặp ai là bà bà cũng đều đem chuyện nầy ra bàn tán. Có người thích thì đứng nghe bà nói, còn người không thích thì mỉa mai đi luôn. Có điều đặc biệt là chồng bà từ lúc đầu cho đến khi thành hình bệnh viện chỉ lặng câm chẳng nói lời nào. Bà nói thế nào thì bà nói, ông chẳng chống đối hay ủng hộ vì cả.

 

     Vì quá ủng hộ mà bà vô tình thốt lên những câu nói mà thiên hạ, những người láng giềng choáng váng như: Có cái bệnh viện nầy gần bên thì tốt lắm, nếu nay mai chúng ta có bệnh ung thư thì rất là tiện, chỉ trong vòng năm, mười phút là có người chữa trị cho ta ngay, khỏi cần phải lòng vòng đi xa nguy hiểm và mất thời gian. Khi nghe bà nói xong thiên hạ chỉ biết ôm đầu mà không biết phải trả lời với bà như thế nào. Thật lòng thì bụng dạ bà rất tốt, nhưng vì trước khi nói không lựa lời nên dễ bị hiểu lầm cũng như làm mất lòng người đối diện và kể từ đó bà bị rất nhiều người trong làng nguyền rũa cho bà là một con người ác độc.

 

     Một hôm khi bệnh viện đang khánh thành, chồng bà từ quán nhậu ngoài phố trở về, ngồi bệt trên bộ Salon phòng khách và nói: Tôi chưa từng thấy ai như bà, thuở đời lại vái, trù cho mình được bệnh thập tử, nhất sinh để được vào bệnh viện cho nhanh và gần và còn tệ hại hơn bà đi trù cho cả làng nầy nữa, để ngoài đường giờ ai gặp tôi cũng đều tránh né.

 

Thủy Điền

 

08-03-2017

 

 167-Vua Rượu Đế 2017

 

Khi Ban Tổ chức tuyên bố hắn là người chiến thắng với danh hiệu “Vua Rượu đế 2017“ Và được lãnh số tiền thưởng là năm triệu đồng, cũng là lúc hắn không còn biết gì nữa và nằm bẹp trước khán đài. Mọi việc còn lại đều do vợ hắn thay thế.

 

   Hắn là người dân sống trong thôn chuyên sống bằng nghề mỗ lợn, bò và các thú vật khác. Mỗi năm đúng ngày mồng một tết là hội mỗ lợn tổ chức nguyên một ngày thi nhậu rượu đế để chọn ra một “Vua rượu đế “ và có thưởng với giải năm triệu đồng.

 

   Mấy năm trước năm nào hắn cũng đi thi, nhưng vì tửu lượng còn kém nên đều bị trượt cả. Năm vừa qua hắn cố gắng tập luyện để chuẩn bị cho mồng mười tết năm nay đi thi lại. Mặc dù mỗi ngày luyện tập hắn rất mệt và bị người nhà mắng nhiết vô vàn, nhưng hắn vẩn câm nín và nhịn nhục tất cả. Mục đích sẽ dành chiến thắng.

 

   Trước khi vào cuộc thi, hắn phải làm thủ tục đăng ký như bao người khác, sau đó được cho mượn cái mâm nhôm và phải mua số thức ăn tùy theo sở thích của mình như: Lòng, thịt v…v. và số rượu theo tửu lượng của mình, nếu không đủ được phép mua thêm còn số rau cải và nước chấm miễn phí. Nói chung mỗi mâm nhậu dự thi trị giá tối đa khoảng một trăm ngàn.

 

   Khi giai đoạn chọn lựa thức ăn và mua rượu xong, ai về vị trí nấy, đã được phân chỗ sẵn và đúng tám giờ sáng Ban Tổ chức bắn súng pháo là tất cả bắt đầu nâng chén.

 

   Cả hơn năm chục người trong thôn, tuổi từ mười tám trở lên ngồi dọc theo hai bên lề đường tha hồ hò hét ăn nhậu, có nhiều tay rất mạnh chỉ trong vòng hai giờ là uống hết cả lít và đi mua thêm rượu khác, rồi cũng có kẻ mới vài ba xị là quắt cần câu, bắt đầu nhề nhệ nằm bẹp, dài theo hai bên vệ đường trông rất thê thảm.

 

   Đến gần đứng bóng, hàng chục người như cây nhang tàn rũ ngọn, chỉ còn lưa thưa, lác đác năm ba người còn uống trông rất khỏe, trong đó có hắn. Ai ai cũng ngạc nhiên cái thằng A Lìn nầy năm nay oai thế, hắn uống từ tám giờ sáng đến bây giờ mà vẫn chưa say, mọi lần khoảng một tiếng là hắn nằm ngay bụi chuối rồi.

 

   Quả thật như mọi người dự đoán đến mười lăm giờ trưa ai ai cũng đều xỉn trất, rớt đài dài dài. Chỉ còn riêng một mình hắn là người  tỉnh khô và trước mặt đã hết một lít rưởi rượu đã mua cũng như ba trăm gramm lòng lợn hắn ăn sạch sẽ. Nếu Ban Tổ chức tuyên bố hắn thắng cuộc ngay liền lúc đó thì hắn có thể tự về nhà được. Nhưng Ban Tổ chức chờ mãi đến năm giờ chiều mới tuyên bố . Rượu càng lúc càng thấm dần vào cơ thể, nên khi họ tuyên bố hắn là “Vua rượu đế 2017 và đoạt giại thưởng là năm triệu đồng xong và cũng là lúc hắn ngã cái “Rầm “ Không biết gì nữa hết. Vợ hắn phải đích thân lãnh giải thế hắn và sau đó thân nhân phải võng hắn xuyên bốn cây số đường đồi.

 

   Không biết khi về đến nhà số phận hắn sẽ ra sao khi trong người chứa tròn một lít rưởi rượu ngà cay, đắng……….!

 

Thủy Điền

 

26-02-2017

 

 166- Lỡ Bước

 

Từ lúc nhận giấy báo hưu trí- về Việt nam- mua đất- cất nhà- ở cho đến nay là ngoài một năm rồi. Ngày nào hắn cũng đi ra, đi vào rồi bệt trên chiếc băng dài trước hiên nhà, tay xoa xoa gương mặt buồn và tự hỏi? Tại sao kỳ cục thế, hồi gần hưu trí anh em, bè bạn ai cũng bảo: “Chừng nào mầy hưu trí, mầy về Việt nam sống với tụi tao cho có  anh em“ Thế mà, khi về rối, mãi đến nay chẳng có con ma nào đến thăm hỏi mình cả. Thật thất vọng vô cùng.

 

     Hắn là một Ngư dân được sanh ra và lớn lên ở vùng biển Phan thiết. Từ nhỏ học hành chẳng được bao nhiêu rồi theo cha đi làm nghề biển cho đến khi đi vượt biên chỉ biết cá và biển mà thôi. Cho nên khi sang nước ngoài sống, ngoài giờ đi làm việc về, hắn chỉ biết ngồi nhà hoặc lâu lâu cùng mấy anh em đồng nghiệp Việt nam nhậu một trận tơi bời. Ngoài ra chẳng có một người bạn tây nào cả để trò chuyện vào những lúc rãnh rỗi hay tham dự những buỗi tiệc tùng do người tây tổ chức. Chính vì lẽ ấy hắn dường như  trong thế bị đọng; cô đơn và trong đầu luôn luôn vọng quốc. bởi nên, khi có ý định về Việt nam sống, hắn thường có những hành động giao cảm trước để khi về sẽ không gặp khó khăn như: Ai cần gì thì hắn cũng giúp đỡ như cho mượn tiền làm ăn, trị bệnh v…v. Mỗi khi đưa tiền cho ai đó, ý hắn là cho mượn, nhưng người nhận tiền thì lại nghĩ khác (Giữa hai không rõ ràng qua hình thức giúp đỡ) Nên về sau có nhiều chuyện đáng tiếc xãy ra.

 

     Thời gian- rồi thời gian trôi qua và ngày ấy đã đến, sau khi nhận giấy hưu hắn không chần chừ và trở về Việt nam ngay, xây nhà và ở luôn tại Phan thiết quê cũ của hắn ngày xưa cho đến nay.

 

     Nói mới về Việt nam mua đất cất nhà thì cũng chưa đúng, việc nầy hắn đã chuẩn bị từ lâu rồi như đã nói ở trên. Hắn ở xứ người, nhưng hắn không rành rỗi về tiếng tăm cũng như không hiểu hết nền Văn hoá của xứ sở tại, cộng bao lần về quê đãi đần bạn bề ăn nhậu, thiên hạ nói qua loa gây tình cảm đẹp, hắn ngỡ thật, cứ tưởng ai cũng tốt với mình. Nhưng khi về ở luôn thì mới vỡ lẽ mình bị nhầm. Vì lúc trước với tư cách là Việt kiều về thăm quê, cái gì hắn cũng chi hết nên ai cũng đến với hắn, còn bây giờ ở luôn hắn chỉ có đồng tiền hưu trí cố định, hắn không thể bao thầu hằng ngày như những lúc làm Việt kiều được nên mọi người đều tránh xa. Và, một việc quan trọng nữa là những món tiền ngày trước hắn đã từng giúp đỡ cho những người làm ăn, trị bệnh bây giờ hắn muốn lấy lại để hắn bồi đấp ngôi nhà cho khang trang, nhưng chẳng ai chịu trả và tìm mọi cách xa dần hắn. Chính vì những lẽ trên mà hơn năm nay khi về đến quê nhà, ở thật sự, hắn còn thấy cô đơn nhiều hơn khi còn ở ngoại quốc. Ở ngoại quốc tuy ít ỏi, nhưng vài ba tuần cũng còn có vài người đến nhậu với hắn hoặc ngược lại. còn ở đây chẳng thấy con ma nào ghé thăm, hỏi? một tiếng “Khỏe không” Hoặc khi đến thăm bạn thì bảo bố chẳng có ở nhà.

 

     Buồn thay, mỗi khi về chiều, sắp tắt đèn đi ngủ hắn thường hay đọc tám câu thơ như tự an ủi lòng cho một người lỡ bước.

 

Đầu hai thứ tóc vẫn còn ngu

Mắt sáng như pha, bỗng lại mù

Trời trong lại bỗng âm u

Cái thân, cái thiện giờ như oán thù

 

Khi còn Kiều bạn bè  một lũ

Khi hết Kiều thân biến mất tiêu

Chỉ còn lại những buổi chiều

Ngồi nghe Tu hú, chim kêu ngoài đồng.

 

Thủy Điền

19-02-2017

 

 

165-Vĩnh Biệt Anh Yêu

 

Thông lệ thì cứ khoảng 16 giờ 30 chiều là Chỉnh về đến nhà. Khi thấy chiếc BMW quẹo vào cổng là Sabine đứng ngay trước cửa cái chờ chàng m cửa và tặng một hụ hôn. Nhưng hôm nay thì không, chẳng thấy nàng đợi như mọi ngày và cái Ti-Vi nhà ở phòng khách vẫn còn bật, các Tài tử Hongkong còn đang trình diễn bộ phim tập “Tề Thiên Đại Thánh “

 

     Năm 1979 Chỉnh cùng gia đình đi đăng ký hợp pháp và sang định cư tại Tây Đức. Sau một năm học tiếng đức cùng mọi người xong xuôi, chàng xin đi học nghề tiếp và tìm được một công việc cách nhà 30 cây số. Trong thời gian nầy chàng cũng quen được một cô gái Đức đồng nghiệp, rồi kết bạn và dọn ra ở riêng cách nhà cha mẹ vài cây số gần đó. Vì còn bản tính Việt nam và đồng lương của chàng cũng tương đối đủ sống nên chàng khuyên nàng khỏi đi làm, cứ ở nhà mọi việc có chàng lo tất cả. Khi nghe chàng nói, nàng đồng ý ngay và mọi kế hoặch bắt đầu được tiến hành. Có nghĩa là hàng ngày chàng chỉ biết đi làm, còn nàng ở nhà chuyên công việc nội trợ mà thôi. Sau những giây phút nấu nướng, dọn dẹp nhà cửa nàng còn trống rất nhiều thời gian. Và, những giây phút nầy chàng chạy đi mướn cho nàng hàng chục bộ phim tập Hồng kong để nàng tự do giải trí trong lúc vắng chàng.

 

     Mới qua Tây ở, không riêng gì Chỉnh mà người khác cũng thế, ai mà hiểu hết nền Văn hóa của họ. Như ngày Sinh nhật, ngày Valentine, Ngày Giáng Sinh hay cuối tuần v…v Cần phải làm như thế nào để cho vừa lòng nhau. Điều nầy Chỉnh chưa hoàn toàn thấu rõ, chàng cứ nghĩ như ở quê nhà cưới vợ, về sống chung, lo cho nhau là được. Nhưng Sabine lại khác dù hòa nhập với Chỉnh trong mọi lĩnh vực, nhưng lúc nào nàng cũng nhớ rõ những phong tục, tập quán như vừa kể trên một cách thấu đáo và cần phải có cho một người Đức. Dù người ấy đang sống trong một gia đình hoàn cảnh nghèo hay giàu. “Xin nói thêm là sau Đệ nhị Thế chiến, hòa bình được lập lại, người dân Đức tổ chức lại xã hội rất trật tự và cuộc sống rất công bằng. Ở Đức khó ai phân biệt được người ấy giàu hay nghèo. “

 

     Cứ đinh ninh như ở quê nhà, hơn nữa ngày nào cũng mãi đi làm việc, chiều về mệt mỏi quên mất, không tìm hiểu vể cách sống của người đối diện mình. Ngày qua ngày, tháng qua tháng cứ ăn rồi ngủ, thức dậy ngồi trước màng hình nhìn mấy ông Chệt đánh tới, đá lui nàng bắc đầu sanh chán.

 

     Vào một ngày giữa tháng hai nàng nhắc Chỉnh, vài hôm nữa là ngày Valentine, ngày lễ tình nhân. thôi mình đi đâu đó vừa nghỉ ngơi, vừa ăn uống, vừa kỷ niệm hai năm chúng mình yêu nhau ví dụ như Paris, Luân Đôn hay Berlin nơi nào cũng được nha anh. Nghe nàng nói chàng chẳng thèm trả lời, trả vốn vì cả. Không biết vì phải bỏ ra số tiền quá lớn hay chàng không thích những kiểu cách nầy. Rồi lơ đãng và bỏ qua luôn. Lòng nàng rất giận, nhưng một khi có ý kiên mà người tình không ưng thuận thì biết làm sao bây giờ. Bởi, hai người chưa chính thức là vợ chồng nên cũng khó mà tranh cãi.

 

     Câu chuyện ấy tuy không vui vẻ, nhưng nàng chấp nhận cho qua. Và, vào dịp cuối năm năm ấy, lễ Giáng sinh nàng cũng đưa ra ý kiến mua tặng bên nhà nàng một ít để gọi là, vì đến ngày nầy chàng phải bỏ ra rất nhiều tiền cho chính gia đình chàng và gia đình cha mẹ chàng. Tuy, không từ chối lời đề nghị của nàng , nhưng vì bực bội, nóng tính chàng không tự kiềm chế và quát cho nàng một trận tơi bời. Nàng giận và để bụng mà chàng không hay.

 

     Một hôm chờ sáng, chàng vừa ra khỏi nhà đi làm việc. Ở nhà nàng soạn tất cả những gì riêng của mình, rồi ra đi không một lời từ giã.

 

Thủy Điền

12-02-2017

 

 

 

 164-Chiếc Áo Dài

 

Đang lúc làm việc, Michael bạn tôi xoay ngang gọi: Ê Điền! Bạn nhìn nè, tớ vừa bắt gặp một trang phụ nữ Việt nam mặc áo dài thật là tuyệt đẹp. Điền có đồng ý với tôi không? Chưa nhìn thẳng vào màng ảnh tôi nói: Đương nhiên, bạn làm BBT với tôi cả năm nay mà hôm nay mới thấy à. Ờ ! Mà mới thấy lần đầu bạn thấy đẹp là việc tất nhiên. Còn Điền? Riêng tôi thì ngày cũng thấy và lúc nào cũng đẹp. Và, anh ta cứ ngắm hoài hết hình nầy sang hình khác mà bỏ lơ công việc để tôi phải thầu hết.

 

    Thật tình đến từng tuổi nầy tôi cũng không thấu hiểu hết ý nghĩa của chiếc áo dài tại sao là như vậy. Một điều đặc biệt là trên Thế giới nầy chỉ có ở Việt nam ta thôi thật là ngộ nghĩnh vô cùng. Có lẽ vì không quan tâm đến nó mà không tìm ra xuất xứ, chứ rõ ràng thì cái nào cũng đều có xuất xứ cả. Mặc dầu khi nhìn một người phụ nữ mặc chiếc áo dài là tôi có thiện cảm ngay.

 

     Nó đẹp từ lúc tôi nhìn thấy từ thời còn học trung học. Ngày nào đi ngang qua trường Lê Ngọc Hân cũng đều thấy các cô mặc chiếc áo dài trắng thướt tha đang tung tăng như một đàn cò trắng . Rồi đến trường tôi cũng thế hàng trăm cô ngược xuôi với chiếc áo dài màu nâu (Vì ngày ấy tôi học Nông lâm Súc) Nên nam, nữ đều phải mặc đồng phục màu nâu cả trong rất hiền hòa và nhân hậu.

 

     Rồi khi bước vào trường Trung cấp cũng thế, lúc nào những chiếc áo dài trắng ấy cũng đập vào trong mắt tôi và những buổi chiều về tôi cũng thường hòa chung bên những tà áo ấy, đi bộ dưới hàng me ven đường trong rất tình tứ và thơ mộng và trong những tà áo nầy có cả nhà tôi bây giờ.

 

     Ngoài thời học sinh ra, tôi cũng như mọi người thường hay gặp vào những ngày lễ hội, đám đình, tết nhất. Tùy theo lễ hội hay đám đình tà áo dài hiện lên những sắc thái khác nhau. Khi người đối diện nhìn vào thì sẽ biết ngay không cần phải suy nghĩ. Thí dụ: Đám ma thì mặc áo dài đen, đám cưới thì mặc áo dài màu. Tiệc tùng mặc áo dài bông v…v…

 

     Nói chung người con gái hay phụ nữ Việt nam dù xấu hay đẹp mỗi khi mặc chiếc áo dài vào là ta thấy khác ngay. Người đẹp sẽ đẹp thêm, người dễ coi sẽ rạng rỡ hơn, người xấu sẽ không còn mặc cảm nữa. Đặc biệt đối với những người có hình dáng cao ráo khi mặc chiếc áo dài và đi trên đường thì phải nói là khỏi chê và dễ làm cho cánh đàn ông rũ lòng và mờ đôi mắt.

 

     Khi tôi vừa kể xong Michael nhìn tôi với cặp mắt trìu mến và nói: Điền nầy ! Chắc tôi phải kiếm một phụ nữ Việt nam để làm vợ quá Điền. Bạn thấy được không? Tôi trả lời: Được quá đi chứ, tôi đã có vợ rồi mà thấy người phụ nữ Việt nam mặc áo dài đi ngang qua mà còn thích, huống hồ chi Michael là người còn độc thân.

 

Bốn mùa xuân hạ thu đông

Mùa nào anh cũng đứng trông thấy nàng

Đi xuôi, đi ngược, đi ngang

Sắc khoe áo đỏ, áo vàng, áo hoa

Áo hồng, áo trắng, áo cà

Áo vào trường học, áo ra Đình làng

Áo sang đám cổ họ hàng

Áo đưa em gái theo chàng về Dinh.

 

 

Thủy Điền

10-02-2017

 

 

 

 

 

 163- Chí Phèo Thời Mới

 

Thường thường thì xưa nay trên Thế giới nói chung hay Việt nam ta nói riêng. Người ta hàng năm thường tổ chức những cuộc thi người đẹp cho cả hai giới. Nhưng phần lớn người ta hay đề cập và nói nhiều về giới nữ còn giới nam chỉ ca ngợi lúc đầu rồi mất dạng luôn. Về người mẩu cũng thế dường như nó cũng tương tự như vậy. Đặc biệt những năm gần đây khi đất nước đã được nới rộng về mọi mặt, giới văn hoá kinh doanh bắt đầu lấn mạnh vào thị trường chung như làm phim, chụp ảnh và tổ chức những đêm văn nghệ tầm cở nhằm phục vụ xã hội.

 

   Riêng về mặt chụp hình người mẩu rất ăn khách nhằm phục vụ cho báo chí, triển lãm và in quảng cáo. Phần nầy các Nhiếp ảnh gia thường hay chọn những người mẩu hay diễn viên (Nói chung là những người đẹp và có tiếng tăm để dễ thu hút người xem và người mua. Những nhà Nhiếp ảnh nầy thường hay chọn những biểu tượng đặc thù của xứ sở mình đề ghép vào ảnh như  hoa Sen, hoa Mai, hoa Đào, hoa Cúc và các cảnh trí thiên nhiên. Đồng thời họ còn chọn những bộ đồng phục cổ xưa để cho bức ảnh được sắc sảo hơn.

 

   Như ta thường thấy những cô nàng nầy hay đứng bên bờ đê cạnh hồ Sen, làm duyên bên hoa Sen, ôm đóa hoa Sen hoặc bưng ấm trà Sen v…v.. Và, những bức ảnh nầy sau khi chụp xong lên báo, lịch, quảng cáo người ta rất thích vì nó hiện lên ngay người mình quen biết, đẹp và hình ảnh quê hương rất rõ nét. Nhưng cái gì cũng thế, qua nhiều năm họ làm đều giống nhau chỉ có điều là thay đổi một vài người mới mà thôi, nên cũng dễ gây sự nhàm chán của giới đam mê. Từ đó sự kinh doanh của họ bị sút giảm và đưa đến tình trạng thua lỗ.

 

   Một khi bị thua lỗ nhiều lần, đương nhiên các nhà kinh doanh nầy phải tìm ra kế khác, hầu bù đấp lại những thiệt hại trên.

 

   Điển hình là năm vừa qua các nhà Nhiếp ảnh gia đã nghĩ ra một điều rất kỳ lạ mà ai cũng ngạc nhiên. Họ không thèm chọn phụ nữ nữa, mà chọn nam giới và những người nầy cũng làm giống hệt phụ nữ như vừa kể ở phần trên. Có nghĩa là vẫn mặc vái, đeo yếm, đội khăn mõ quạ, cũng lội xuống hồ Sen hái Sen, cầm Sen làm duyên và yểu điệu với Sen trong thật là vui nhộn và ngộ nghĩnh.

 

   Vừa mới xem qua ai cũng nghĩ mấy ông tướng nầy làm chuyện tào lao, ai mà mua mấy cái hình trơ trẻn, dị hợm Chí phèo nầy về treo trên tường nhà. Khi sản xuất ra các nhà sản xuất có lẽ tự treo một mình. Nhưng không, lại là một sự bất ngờ, khi vừa cho ra những hình ảnh nầy trên những quyển lịch và các trang quảng cáo trên báo người ta thấy lạ nên ùng ùng nhau mua. Thế là những ảnh của các anh Chí phèo thời nay đằt như tôm tươi và ngược lại các cô bị thất nghiệp phải đi tìm việc khác. Lý do: Không phải các cô không còn đẹp nữa, nhưng vì đã lỗi thời.

 

   Nghĩ cũng vui, thời buổi hiện đại ngày nay, mỗi ngày mỗi khác không giống như ngày xưa. Hỡi có cái gì là lạ là họ thích ngay, nhưng sự thích thú không lâu và lần tìm đến cái mới khác. Bởi thế đàn ông bây giờ có thể thay thế cái gì mà đàn bà đã từng làm trước đây và những điều nầy vẫn luôn có người ủng hộ; Tôn trọng.

 

Thủy Điền

 

10-02-2017

 162-Tục Bắt Vợ

 

Giữa ban ngày, ban mặt. Bỗng nhiên có bốn chàng trai người dân tộc Thái trạt hai mươi tuổi đi trên hai chiếc Hon-Da rượt đuỗi bắt một nàng thiếu nữ cũng người Thái khoảng mười tám tuổi trên đường phố về làm vợ. Cuộc truy đuỗi giống như cuộc bắt cóc người không hơn, không kém. Thế mà thiên hạ đi trên đường và những người sống chung quanh vẫn cứ dửng dưng. Vì đó là tục lệ xưa nay.

 

   Tục lệ gì mà kỳ hoặc thật? Nhưng đó là sự thật.

 

     Phò Anh Chánh yêu Huệ A Mỹ gần một năm nay, nhưng tình yêu ấy không được nàng đáp trả lại, vì nàng đã trót yêu Tòng Ý Khang làng bên nhân dịp trên đường đi chợ tình hồi năm ngoái. Nhiều lần Chánh tỏ tình cùng A Mỹ, nhưng nàng từ chối liên tục, vì đã yêu Ý Khang thật lòng. Biết thế, nhưng chàng mặc xác, cứ đeo đuỗi nàng đến cùng và nhất định sẽ bắt nàng cho được để về làm vợ mình.

 

      Ngày xưa hễ nếu hai người yêu nhau, khi người con gái thật sự muốn lấy chồng và bật đèn xanh cho người tình thì người con trai rủ thêm vài ba người bạn cùng lứa tổ chức bắt nàng dù bất cứ nơi đâu cổng hay mang về làm vợ. Sự việc nầy rất là hợp lý và đúng theo nguyên tắc, phong tục của dân tộc Thái xưa nay. Còn khi người con gái dẫu đã yêu mình rồi, nhưng chưa bật đèn xanh thì không được phép.

 

      Ngày nay đơn giản và tiện lợi hơn. Việc bắt vợ không phải khó khăn và cực khổ như xưa, có khi phải mang nàng về tận chục cây số đường núi. Mà chàng trai chỉ cần canh nàng đi đâu đó, rồi hú vài người bạn lấy xe gắn máy đến tóm, bỏ lên xe chở về là xong.

 

      Trường hợp của Phò Anh Chánh là trường hợp ngoại lệ, vì quá yêu, trong khi phía đối diện từ chối, không bật đèn xanh, mà anh ta vẫn rủ người làm càng nên bị cô gái phản ứng, la khóc, giẫy dụa dọc đường không chịu leo lên xe về làm vợ. Lẽ ra ra mọi người đi đường hay những người sống chung quanh nhìn thấy cảnh nầy phải có hành động giúp đỡ cô gái trong lúc hoạn nạn. Nhưng họ cứ dửng dưng và cho đó là chuyển bình thường giữa đôi trai gái yêu nhau.

 

       Sau tai nạn ấy, hai ngày sau tất cả trở lại yên ổn, cô con gái đến nhà chức trách kiện thưa về việc bị hành hung. Và, những chàng thanh niên nầy được mời đến để chất vấn. Đúng ra hành động nầy đáng được xử lý gắt gao, nhưng chính quyền ở đây chỉ cảnh cáo họ về tội lợi dụng phong tục tập quán mà thôi. Bởi, xưa nay trên vùng đất, xứ sở miền sơn cước nầy đều làm như thế, các anh chàng trên chẳng qua là phạm lỗi hôn nhân là vì cô gái chưa bật đèn xanh mà tự động làm càng và ông bảo trường hợp nầy rất ít ỏi xãy ra.

 

     Qua sự việc trên, với những lời cảnh cáo, ông nhấn mạnh thêm rằng “Để kịp theo đà tiến hoá của xã hội, ông mong rằng bà con trong Bản hãy học hỏi và dần dần xóa bỏ những tục lệ xưa cũ và làm việc gì khi đối diện đã bật đèn xanh.

 

Thủy Điền

 

08-02-2017

 

161-Lầm Lì Cùng Mây Gió

 

Hơn hai tháng nay, ngày nào cũng thế. Kể từ lúc Oanh bỏ đi, sau giờ làm việc Vân chẳng chịu về nhà ngay hay đi bất cứ nơi đâu mà chàng chỉ một hướng ra bến sông ngồi trầm lặng nhìn những chiếc lá vàng rơi đến sụp tối mới về. Trông rất là buồn thảm.

 

     Lấy nhau gần một năm. Ngỡ về xứ nầy hai vợ chồng ngày ngày đi dạy, chiều về quấn quýt sống hạnh phúc bên nhau, rồi sinh con, đẻ cái chọn nơi nầy làm quên hương. Ai ngờ ! Chưa chi nàng đã đổi dạ, thay lòng, bảo rằng buồn, thiếu thốn mọi bề, rồi bỏ về Thành phố. Thật không sao hiểu nỗi.

 

     Trước ngày lấy nhau, lúc còn là Sinh viên trường Đại học Sư phạm Sài gòn chàng đẵ hỏi nàng rất nhiều lần vì nàng là con gái thành, không dễ dàng đến một vùng quê hẻo lánh để sống. Nhưng nàng đã nhất nhất đồng ý là sẽ đi bất cứ nơi đâu khi nhà trường phân nhiệm sở. Vì yêu nàng nên chàng tin vì lòng dũng cảm.

 

     Ngày lên đường nhận nhiệm sở, nàng rất vui vẻ và phấn khởi vô cùng. Khi đến nơi nàng làm việc rất sốt sắng. Ngoài giờ làm việc hai đứa hay thường rủ nhau ra bến sông của khu rừng vắng đi dạo, hóng mát, nhìn phong cảnh núi rừng thật là hứng thú. Nàng thường bảo: Cuộc sống của nàng luôn phải gần và gắn bó với thiên nhiên, mỗi lời nàng thốt ra là mỗi lần gieo vào đầu chàng sự tin tưởng cao độ. Cuộc sống thú vị và hạnh phúc chỉ hơn năm tháng dài thì bỗng dưng nàng đổi ý và muốn lìa xa chốn nầy. Nhiều lần nàng đã khuyên bảo chàng hãy lánh xa nơi nầy càng nhanh, càng tốt. Nhưng chàng cứ chần chừ và dường như không đồng ý. Vì chàng muốn chọn nơi nầy làm quê hương thứ hai và nghĩ rằng nghề giáo thì đi nơi nào cũng là nghề giáo mà thôi. Chàng thường tâm niệm ở đâu cũng thế, bước đầu lạ, không quen, nhưng dần dần thì đâu cũng vào đó như bao người khác.

 

  Qua những lần thương lượng với nhau không thành công. Một chiều cuối tuần nàng thâu dọn tất cả những gì riêng của mình và đón xe về Thành phố mà không một lời từ giả. Chính chàng còn bất ngờ, huống chi cả trường lại bất ngờ hơn khi thấy nàng ra đi một cách đột ngột, mà trước đó không có hành động khó chịu hay chê chán nơi nầy.

 

      Thấy nàng bỏ đi chàng và mọi người nghĩ có lẽ vì bồng bột tuổi trẻ. Chàng và mọi người luôn nuôi hy vọng và đợi ngày nàng sẽ trở lại. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, hình bóng nàng càng dần xa khuất và không bao giờ trở lại xứ núi rừng nầy nữa.

 

    Sau mấy tháng trời chờ đợi, chàng trở lại thành phố để tìm nàng. Nhưng nàng cũng bặt tăm không còn ở Thành phố nữa và hiện tại cũng chẳng ai biết nàng đang ở và làm việc phương nao.

 

      Nỗi buồn càng ngày càng chồng chất, chàng như là người cuồng trí, cứ chiều nào khi đi dạy về là ra bến sông nhìn nước chảy, lá rơi lầm lì cùng mây gió.

 

Thủy Điền

04-02-2017

160-Chúc Tình

 

      Đang ngồi đun ấm nước, vừa suy nghĩ. Xuân về, tết đến mình cần phải làm cái gì cho thiên hạ ngạc nhiên chơi. Kha …kha….Kha….!

Bà đứng gần bên.

-Lan nầy! Bộ mầy khùng hả Lan? Đàn bà con gái gì có chồng, có con mà không nên thân, nên hình gì cả. Hỡi muốn cười lúc nào thì cười, muốn nhẩy lúc nào thì nhẩy, chẳng ý tứ, ý tư, các em, bọn nó cười cho mà xem.

-Đâu có gì đâu mẹ, tại hôm nay con vui, con mới nghĩ ra một điều rất hay.

-Điều gì ?

-Mai mốt mẹ hãy biết, còn bây giờ con đang giấu kín.

-Cha mầy, không nói thì thôi.

-Kha…kha…kha….!

 

      Sau khi nấu nước cúng tổ tiên xong. Hai chị em cùng theo mẹ lên chùa gần bên cúng Phật. Trên đường về , gần đến ngõ vào nhà Lan bảo mẹ vào trước đi, hai chị em con ra vườn Đào một tí sẽ về sau. Ngọc ngạc nhiên hỏi?

-         Sao chị rủ em ra đây làm gì ?

-         Thì bẻ Đào.

-         Trời đất, bố bẻ cậm một nhà mà không đủ sao? Người ta phải bẻ Đào là bẻ trước tết, hôm nay muộn lắm rồi chị ơi hay là chị muốn tặng ai.

-         Ậy ! Cứ đi với chị một lát đi rồi em sẽ hiểu, chị muốn làm gì. Con nhỏ nầy hôm nay nhiều chuyện thật.

-         Có chồng, có con rồi đó nha, tính hò hẹn với ai ngoài nầy, sợ, rồi rủ em theo phải không?

-         Đừng nói điên nè. Anh Nam nghe được là phiền lắm đấy.

 

      Lan vừa nói, vừa với tay bẻ một hoa Đào thật đẹp, nàng cài lên tóc Ngọc, rồi cười hí hí. Lan hỏi ?

-Em thấy có đẹp không?

-Đẹp lắm chị, mà giữa vườn Đào có ai nhìn ngắm mình đâu. Thật uổng nhỉ.

-Không phải, chị muốn em ra đây để chị tự tay bẻ và cài lên tóc em. Ý là muốn tặng em một nụ lộc hồng đầu năm và chúc cho em năm nay sẽ sớm có người yêu như người ta vậy mà và tạo cho em sự ngạc nhiên cho vui. Biết đâu trong cái nhí nhỏm nầy nó sẽ trở thành hiện thực, ai mà biết được. Đúng không ?

-Có lý, em cảm ơn chị thật nhiều và em cũng hy vọng là thế.

 

      Thật tình thì Lan cũng thấy em mình năm nay cũng hơn hai mươi hai tuổi đầu mà chưa có mối tình nào vắt vai nên nàng cũng buồn và tìm mọi cách giúp Ngọc, nhưng chưa được mối nào thành công. Ngọc cũng khá đẹp gái, diệu hiền, dễ thương. Nhưng ngặt một nỗi là trong cái làng bé nhỏ nầy bây giờ còn rất ít thanh niên, vừa lớn lên là họ đi tứ tán ra thành hay đi nơi khác cả, chỉ còn xót lại một vài anh chàng sáng say, chiều xỉn thử hỏi làm sao mà nàng phải lòng được chứ. Bây giờ chớ đâu phải như ngày xưa con gái lớn lên mười tám, hai mươi tuổi là có cả khối con trai đeo đuỗi.

 

      Trong cái vui chơi, dị đoan, cũng có cái may mắn. Một tuần sau tết có mấy người bạn chồng Lan từ Thành phố ghé thăm, chúc tết và cũng có mặt Ngọc trong ngày hôm ấy. Lúc đang tiệc người kể qua, kẻ kể lại, vui nhộn, vô tình có một anh chàng trạt tuổi Ngọc, có vẻ thích nàng. Anh ta vừa ăn, vừa nhậu, vừa dò dè tán tỉnh, khiến cho nàng mắc cở, đỏ mặt, mất tự nhiên và đành phải chạy u xuống nhà bếp với chị như trốn tránh ngôi sao tình đang chiếu rọi vào tim.

 

      Qua cuộc viếng thăm tết, thỉnh thoảng chàng cũng hay dành riêng thì giờ rảnh rổi cuối tuần để ghé ngang thăm Ngọc. Và cuối cùng họ rất thân thiện và trở thành người yêu với nhau………!

 

      Mẹ Lan chiều chiều thường hay bảo: Tao thấy con Lan nhà mình nhiều lúc nó làm những chuyện khùng khùng, điên điên mà không ai hiểu nỗi. Nhưng có lý và vô tình nó giúp được em nó có nơi, có chốn.

 

Thủy Điền

31-01-2017

 

 

159- Lời Tiên Tri

 

    Kể từ ngày về quê đến nay, tôi như người thất nghiệp. Vì là anh cả trong gia đình nên mỗi ngày mẹ tôi phân công cho tôi là phải đong đầy hai lu nước, vừa có tiêu xài trong ngày và tắm hai con heo. Tay vừa thả thùng xuống giếng múc nước, mặt vừa nhìn ra ngõ. Bỗng dưng tôi thấy có dáng người nho nhỏ, đang chạy chiếc xe đạp hướng về nhà tôi, chiếc xe đạp càng lúc càng tiến gần, tôi nhận ngay ra thầy Lân. Mừng quá, tôi chạy lại bắt tay thầy và nói, hôm nay thầy đi lạc đâu đây. Thầy bảo, thầy biết em ở Tân hiệp mà không biết ở đâu, thầy hỏi thăm vài người đầu ngõ và họ chỉ thầy. Thế thì thầy tìm được ngay, em thấy thầy tìm hay không? Tôi trả lời, thầy tài thật, rồi hai thầy trò áp cười toe toét, không ngờ chúng ta được hội ngộ.

     Sau ngày trường giải thể, tôi và thầy Vinh lo thâu xếp hành trang và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, để trả căn nhà trọ lại cho bà chủ. Rồi từ đó chúng tôi tạm chia tay trở về quê cũ. Thầy thì về Thủ thừa còn tôi về Tân hiệp.

    Thời gian đó trở về sau, gần khoảng một năm trời tôi không gặp lại thầy Vinh nữa, mà ngược lại tôi thường hay gặp thầy Lân nhiều hơn, vì thầy Lân sau ngày trường giải thể, thầy được Ty Nông nghiệp Tiền giang phân công về trường Công nhân Kỹ thuật Nông nghiệp tỉnh gần nhà tôi, cách một khoảng không xa,  chừng ba trăm mét (Trường nầy là trường Nông lâm Súc Tân hiệp cũ).

    Buổi gặp gỡ thầy Lân trở lại sau ba tháng cách xa, tôi mời thầy vào nhà và chạy đi đun ấm nước mời thầy uống.Thầy bảo: Thôi khỏi Màu, mình kiếm cái gì nhậu chơi. Tôi nói: Mới sáng sớm mà nhậu cái gì thầy hơn nữa em đâu biết nhậu, chẳng lẽ một mình thầy nhậu thì buồn quá. Thầy hỏi? Ở nhà có ai biết nhậu không. Tôi nói: Có, cậu Năm em được không? Thầy gật đầu, thế thì tôi đi mời cậu Năm tôi sang, tôi để cậu tôi và thầy trò chuyện ở nhà trên, còn tôi xuống nhà dưới bắt con gà giò cắt cổ, nhổ lông và luộc rồì chấm muối ớt, ngoài ra tôi cũng chẳng biết làm món gì khác để đãi thầy. Chỉ trong vòng gần một tiếng đồng hồ là mồi đã có, tôi chạy ra trước ngõ mua nửa lít rượu trắng mang về. Hai thầy trò và ông cậu lai rai tới trưa hết ba xị. Riêng tôi chỉ uống vài ly còn bao nhiêu thì thầy Lân và cậu Năm tôi chia đều. Khoảng mười hai giờ trưa tôi đi nấu cơm mời thầy ăn, nhưng thầy bảo: Thầy còn phải về, thật lòng khi thấy thầy ra về mà lòng tôi chẳng an tâm chút nào cả, dường như thầy say rồi, thầy dẫn chiếc xe đạp ngã lên, ngã xuống thật là thê thảm. Trong bụng tôi lúc nầy cứ vái cho thầy về đến nơi, đến chốn. Nói dại! Lỡ có chuyện gì ăn nói thế nào với cô Mai (Vợ thầy Lân) đây.

    Nhưng may quá, hôm sau thầy lên và ghé lại nhà tôi khoảng mười phút. Nhìn thầy an toàn lòng tôi vui sướng biết bao.

    Rồi ngày qua ngày, Thầy đi làm việc, còn tôi lêu têu trước ngõ thỉnh thoảng thầy trò hay gặp nhau tâm sự đôi điều hoặc mời thầy vào nhà uống vài ly rượu với cậu Năm tôi rồi về.

    Một hôm thầy hỏi tôi? Màu bây giờ em định làm gì. Tôi trả lời: Thưa thầy thật lòng em cũng chẳng biết làm gì, học thì không có chỗ, làm thì còn nhỏ quá ai mướn, ai thuê hơn nữa gia đình cũng đâu đến đổi phải đi làm kiếm sống, còn ở không lổng nhổng thì coi cũng không được. Khó quá ! Nhưng em quyết định phải đi học tiếp, dù sớm hay muộn. Tôi hỏi ? Đâu thầy xem trên trường còn chỗ trống thầy nhét em vào được không? Thầy suy nghĩ một hồi rồi nói. Em quyết định đúng, nhưng ở đây không phải là nơi em dừng chân, với cương vị của thầy, thầy có thể nhét mười đứa như em vào lúc nào cũng được. Nhưng thầy không làm, vì thầy thấy không có tương lai. Bởi vì học một khoá có ba tháng rồi ra trường, thử hỏi làm được cái gì, ráng chờ một khoảng nữa xem sao. Nghe thầy nói xong tôi giận vô cùng mà không dám nói sợ thầy buồn. Tại sao thầy nghĩ như vậy, học ba tháng ra đi làm còn hơn ở nhà báo cha, hại mẹ. Thầy nói thì thầy nói, tôi cứ dạ dạ, vâng vâng cho thầy vui lòng để qua câu chuyện.

   Đúng ba ngày sau, Tiết bạn tôi (Đỗ văn Tiết) học cùng lớp, quê Mỹ tho. Tám giờ đêm anh ta chạy chiếc xe đạp từ Mỹ tho lên Tân hiệp báo tin cho tôi biết, có người nhận bọn mình đi làm Công nhân Nông trường. Mầy có chịu đi làm không? Tôi không một phút do dự và trả lời “Ừ “ Nếu ừ thi vào xách gói theo tao ngay. Tôi vào nói với mẹ tôi vài lời và xin ít tiền làm lộ phí rồi theo Tiết ngay. Sáng hôm sau chúng tôi có mặt và trình diện Ban lãnh đạo Nông trường và làm việc nơi đây đúng một năm. Nông trường nầy có tên là Nông trường Bộ tư lệnh Quân khu 9 đóng tại căn cứ Đồng tâm cũ. Trong thời gian vừa làm, vừa nghe ngóng, tôi nạp đơn vào hai trường để dự thi đó là trường: Thủy lợi 3 Tiền giang và trường Sư phạm Long an. Khi thi mỗi trường chỉ lấy 10% số đậu mà thôi. Trong 10% nầy được ưu tiên trước 50% số Bộ đội phục viên và 25% cán bộ công nhân viên các Ty gởi đi học, thế thì tôi chỉ còn 25% cuả 10% tiêu chuẩn cho khóa học nầy, thật là thê thảm. Nhưng rất may “Chim nhả miệng Ve “ trong hai kỳ thi ấy tôi đều đậu cả và cuối cùng quyết định học trường Thủy lợi 3 Tiền giang và bỏ trường Sư phạm Long an. Bỏ trường Sư phạm Long an thấy cũng tiếc và chịu sự phàn nàn của gia đình khá nhiều nhất là mẹ tôi, vì bà muốn tôi làm Thầy giáo. Nhưng cũng thú vị hơn khi tôi trở lại học dưới mái trường cũ của mình.

   Khoảng cách ba năm đi học và ở nội trú tại trường Thủy lợi 3 thì không còn gặp thầy Lân nhiều nữa, chỉ đôi ba lần. Mỗi lần gặp thầy luôn động viên tôi mọi thứ.

   Thú thật tôi không thể ngờ được, thời gian trôi nhanh quá, một quá khứ, những kỷ niệm và nhất là kỷ niệm của thời niên thiếu, học sinh tôi không thể quên được và luôn luôn ghi nhớ, cảm phục những lời nói, cũng như sự dự đoán tiên tri của một người thầy đã dành cho cá nhân tôi và những đứa em học sinh yêu quí của mình.

            

Thầy nào mà chẳng mắt tinh

Thầy nào đành bỏ trò mình bơ vơ

 

Thủy Điền

 

158-Niềm Vui Trở Lại

 

      Những cây Phượng, hàng Dương liễu, những hàng Chuối và những Ao hồ dường như không còn xinh xắn, thơ mộng, xanh tươi như những ngày trước nữa. Tất cả đã ủ rũ theo những giọt lệ của những nàng thiếu nữ và bùi ngùi theo những nét mặt u buồn của những chàng trai áo nâu, thật não nùng trong giờ chia cách.

      Cuối mùa hè năm ấy, khi nhận được tin trường giải tán, để nhường chỗ lại cho trường Bổ túc Công nông tỉnh. Cả trò lẫn thầy đứng ngơ ngác như con Nai vàng đang tìm mẹ giữa Bàu cỏ xanh um.Tất cả nhìn nhau trong nghẹn ngào, tiếc nuối.Một cảnh vật quen thuộc, một mối tình đậm đà, đằm thắm bỗng biến mất trong giây phút mà không ai ngờ được.

      Bao cây Phượng, mấy hàng Chuối, những cây Dương liễu, những Lớp học, Hội trường và những Thữa ruộng mà hàng ngày thường hay kề cận cũng mất đi những người thầy, người bạn thân thiết. Bây giờ đã tạo thành một khoảng cách vô vị và xa lạ hẳn.

     Cái bắt tay, lời chào tạm biệt, biết nói gì đây khi mọi chuyện đã an bài. Trong khoảnh khắc chỉ còn lại nỗi luyến thương của những ngày bên nhau.

    Sự chung đụng đã hết, nhưng dù sao tình bạn vẫn còn. Mỗi người giờ mỗi nơi, tự tìm cho mình một lối riêng, anh tìm trường khác, chị ở nhà, kẻ làm công nhân Nông trường còn người khác bôn ba tìm sống, thậm chí có bạn trống không lêu bêu chẳng biết làm gì. Bao nhiêu đó cũng nói lên nỗi buồn khi ngôi trường vừa bị giải thể. Rồi thời thế khách quan mỗi ngày, mỗi khác vì cuộc sống anh em lại càng phải xa nhau, hơn nữa có khi năm ba năm mới gặp nhau một lần và tệ hại hơn chẳng gặp nhau luôn. Lắm lúc gặp người bạn hiền năm cũ ngang qua đường mà ngỡ dường như ai đó.

    Những năm xa cách, tuy không gặp nhau, nhưng ai ai cũng tin rằng sẽ có một ngày nào đó, dù lâu hay mau chúng ta sẽ được gặp lại nhau trong một hoàn cảnh ngẩu nhiên. Và đúng vậy hoàn cảnh ấy đã trở thành hiện thực được thể hiện rõ rệt là bằng chứng ngày một tháng năm hàng năm.

Nỗi buồn nào mà không vui trở lại

Sự chia cách nào rồi không sum hợp

- Qua bài viết (Niềm vui trở lại) trước tiên phải thành thật cảm ơn Thầy, cô và các anh chị đã bỏ nhiều công sức gầy dựng lại mái trường tinh thần. Một sự việc không hề đơn giản mà tất cả Qúi vị đã làm được thật vô cùng kính phục.

-Thứ hai là sự đoàn kết keo sơn của tất cả các thầy và các bạn hữu vẫn còn như xưa thậm chí còn nhiều hơn nữa, tuy không toàn vẹn, nhưng hy vọng mỗi ngày sẽ được đông đúc hơn.

-Thứ ba là lòng nhiệt tình, các thầy, cô tuy tuổi già, sức yếu vẫn cố gắng bỏ công sức để về tề tụ với nhau như ngày nào, các bạn cũng thế, bỏ cả công sức và việc làm hàng ngày để về họp bạn và tri ân thầy cô thật là một điều đáng quí vô biên.

-Thứ tư là anh em chúng ta rất là diễm phúc khi mái nhà tinh thần của mình vẫn còn  một người cha, một người anh, một cánh chim đầu đàn đó là thầy

Hiệu truởng Nguyễn tấn Phúc

Còn cha còn mẹ thì sang

Không cha không mẹ như đàn đứt dây.

 

Thủy Điền

 

 

 

157-Tình Bạn

 

     Đang ngồi ăn cơm vĩa hè, tình cờ nhìn một người lái Hon-da giao nước đá cho một quán ăn, Lân thấy sao ai giống người bạn mình, chờ giao hàng xong Lân dần mò hỏi.? Thì ra thằng Chín bạn mình một thời quân ngũ. Hai thằng mừng quá ôm nhau, tay bắt, mặt mừng.

     Trước ngày giải phóng hai thằng cùng chung binh chủng Nhẩy dù, cùng Lữ đoàn, cùng Tiểu đoàn, cùng Đại đội, cùng Trung đội và cùng Tiểu đội thậm chí cùng cấp bực, hai thằng sống chung gần năm năm trời, sống chết có nhau như anh em ruột. Có lúc Lân bị thương, Chín phải hy sinh một phần máu của mình để cứu bạn.

     Ngày 28 tháng 04 năm 1975 khi Lữ đoàn tan rã Lân về quê Sa đéc, còn Chín về Cần thơ đường ai nấy đi và từ đó tình bạn cách chia, không còn gặp nhau nữa. Sau những năm sống tại quê nhà hai thằng thường ao ước được một ngày gặp lại, nhưng khó quá.

      Sau khi về Sa đéc được một năm, Lân lập gia đình và hiện tại được bốn cháu.Thời gian về quê làm ruộng, Lân ngỡ cuộc sống sẽ an bình hơn, lúc đầu thì cũng dễ thở, nhưng sau mấy mùa nước nổi liên tiếp Lân bị trắng tay và lâm vào cảnh khó khăn chưa từng có. Ngồi chờ con nước rút, gia đình thiếu thốn vợ trẻ, mẹ già và bốn con thơ Lân không đành lòng và tìm cách xuống Cần thơ tìm việc gì để hái ra tiền về giúp gia đình. Hồi đầu gia đình cản ngăn, chờ nước rút sẽ làm tiếp, nhưng Lân cố quyết ra đi, chàng không thể ngồi chờ được nữa, cuối cùng cả gia đình ưng lòng để cho Lân đi.

      Chín thì sau ngày về, chàng làm đủ mọi việc nào làm mướn, kinh doanh, thợ hồ, thợ mộc chàng làm đủ hết, nên quen biết rất nhiều giới, dành dụm được ít tiền chàng cưới vợ và hành nghề bỏ mối nước đá cho các cửa hàng lớn nhỏ, cuộc sống hiện tại cũng tương đối khấm khá.

      Những ngày xuống Cần thơ tìm việc là những ngày vất vả của Lân không người thân, không người quen bạn bè thì có Chín, nhưng chẳng biết nơi đâu mà tìm.

      Một hôm ngồi uống Cà-phê Lân lần hỏi vài người để tìm việc thì có một anh chàng bảo, nếu Lân thích làm thì đi theo anh và anh sẽ tạo cho một công việc. Lân hỏi làm việc chi? Anh bảo

*Bán hàng chạy một ngày một trăm năm chục ngàn, cơm nước anh lo cả.

-Hàng chạy là hàng gì?

*Hàng chạy là bán những mặt hàng trốn thuế như thuốc lá, quần áo và những vật dụng khác, nếu Công an đến thì bưng chạy

-Lân trả lời ghê quá anh ơi.

*Bây giờ có chịu làm không? Tôi đi tìm người khác, lòng vòng quá, mất thì giờ

-Dạ em làm anh đừng vội nóng.

*Làm thì bắt tay ngay.

     Lân làm được nửa tháng, công việc trôi chảy, nhẹ nhàng một ngày xài vặt còn dư hơn trăm ngàn, dành dụm được gần triệu rưởi Lân điện thoại về cho vợ là nơi mơi anh sẽ gởi tiền về để em trả nợ và lo cho gia đình. Vợ Lân mừng quá và bảo ráng giử gìn sức khỏe. Lân cúp điện thoại. Cơn vui chưa tan, hôm sau Lân trở lại công việc bình thường không ngờ, ngày hôm đó Công an bao vây tóm gọn những người bán chạy và giải về Phường. Lân bị bắt và bị phạt hành chánh một triệu ba và tịch thu hàng hoá. Lân đóng tiền phạt xong, đi ra khỏi cơ quan Phường thểu não như kẻ mất hồn. Chàng buồn quá và đi lang thang khắp chốn ,nửa muốn về lại quê nhà, nửa muốn tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng cũng may là chàng gặp một bà chủ bán Cà-phê tốt bụng cho mấy trăm ngàn, Lân không lấy, nhưng bà bảo cứ lấy mà xài rồi đi tìm việc tiếp. Có ba trăm ngàn Lân ghé vào quán cơm gần đó ăn đỡ lòng, vô tình Lân gặp lại người bạn chí tình, bằng hữu đang giao nước đá cho quán cơm. Hai thằng gặp nhau mừng quá, Chín mang Lân về nhà khoe với vợ anh vừa tìm được Lân. Hai vợ chồng làm gà vịt đãi bạn nhậu cho một trận và giữ Lân ở lại nhà để tìm cho Lân một công việc vì Chín quen rất nhiều người. Lân ở nhà Chín nghỉ ngơi được hai hôm rồi đi nhận việc ngay, làm việc xong Lân nghỉ tạm tại công trường. Làm việc tại Công trường được hai tháng Lân gởi tiền về cho vợ hai lần, anh em bè bạn ai cũng thương và giúp đỡ. Một hôm bạn bè xích mích với mấy tay Bảo vệ Lân nhẩy vào can ngăn, cuộc ấu đả làm hai tay Bảo vệ trọng thương Lân một lần nữa phải về đồn Công an thẩm vấn và cũng bị phạt hành chánh hai triệu đồng, Lân không có tiền trả phạt, anh em thấy vậy đóng góp và Lân được trả tự do.Về nhà Lân kể cho Chín nghe, Chín giận quá.

*Sao mầy không điện thoại cho tao để tao ra chuộc mầy về.

-Tao sợ phiền mầy quá Chín.

*Trời đất ơi, đến nước nầy mầy còn nói vậy tao thấy mầy đổi tính rồi đó Lân, mà thôi bỏ qua chuyện đó đi, tao và mầy đi nhậu thì quên chuyện cũ hết hà. Chín móc hai triệu đưa cho Lân để trả bạn bè.

*Chín nầy tao hỏi thật nhé, nếu có gì mầy bỏ qua cho.

-Mầy cứ nói đi ,vòng vo làm gì.

*Hình như mầy bị bệnh phải không Chín.

-Ờ đúng đó mầy,bị Gan lâu rồi.

*Hèn chi tao thấy người mầy vàng quá, chắc uống rượu nhiều hả?

-Làm ăn, quen biết nhiều người, hở hở là nhậu, con vợ tao nhăn quá trời, nhưng giềng bỏ không được mầy ơi.Thôi kệ nó tới đâu thì tới, gặp mầy là vui rồi, uống đi mầy.

*Ngày mai còn phải làm, mình thôi nha Chín bữa khác uống tiếp.

-OK  Tao tôn trọng công ăn việc làm của mầy, thôi mình về.

     Về làm được một tuần thì Lân bị ngã vì trượt cầu thang, nên bị gảy tay và chở vào nhà thương. Bác sĩ băng bó xong Lân đi lang thang ngoài hành lang cho thoáng thì tình cờ Lân gặp Lý vợ Chín. Lân hỏi?

*Sao Lý lại ở đây.

-Anh Chín bị bệnh Gan nặng lắm.

*Trời đất sao không cho tôi hay, giờ sao rồi?

-Bác sĩ bảo thay Gan khác thì hầu sống thêm thời gian nữa còn không phải đành chịu chết và tốn rất nhiều tiền. Tiền thì có đứa em bên Úc châu cho mượn còn Gan lấy đâu ra, buồn quá anh ơi, em nói hoài ảnh chẳng chịu nghe em, để giờ ra nông nỗi hại vợ, hại con. Em chỉ trông nhờ bên gia đình nhà chồng, nhưng vô vọng….

*Không sao đâu Lý, tôi và Chín là hai người cùng chung loại máu.

-Anh hiến Gan cho anh Chín à.

*Ừ. về lo tiền bạc đi.

     Thế là sau ngày đó Lân nhớ lại Chín đã hy sinh một lần cho Lân và Lân được sống đến ngày hôm nay, bởi nên Lân trao cho Chín nửa lá Gan là chuyện bình thường.Vợ Chín ôm Lân khóc và nhìn Lân như một vị cứu tinh.

 

Thủy Điền

 

 

156- Những Giới Hạn Đáng Buồn

 

     Tân lái chiếc xe hơi, quẹo qua một cái cua phía trái, vừa đến đèn xanh, đèn đỏ. Bỗng đèn đỏ hiện lên, chàng vội vã thắng lại và nghe một cái „Rầm“. Người lái chiếc Hon-da ngã ra và la lên. Tiếng chưởi thề „ Scheiße „ Vang lồng lộng, rồi anh ta ngồi dậy, kéo chiếc Hon-da vào lề. Trời về đêm tám, chín giờ tối, đen như mực, chẳng hiểu người lái xe hơi hay người lái Hon-da, ai là người gây ra tai nạn.

     Anh chàng lái Hon-da chẳng nói năng gì cả, móc trong túi lấy cái điện thoại di động ra, gọi 110 báo ngay cho Cảnh sát giao thông biết để Cảnh sát đến ăn kết. Đường lộ bây giờ kẹt cứng, thiên hạ nhấn kèn „Tin, tin um xùm „ Nghe rát tai, hiện trường xẩy ra tai nạn vẫn còn nằm nguyên đó, chỉ riêng chiếc Hon-da được kéo vào lề.

    Trong lúc chờ nhân viên Cảnh sát đến, Tân lấy máy chụp hình ra, chụp quang cảnh cuộc xảy ra tai nạn rồi xếp vào túi, đứng lặng yên, xem như không có gì xảy ra, mọi chuyện khác là chuyện của Cảnh sát.

    Đúng ba mươi phút sau, nhân viên Cảnh sát đến, hai người, một người cầm cây thướt dây đo vẽ ngang dọc, một người khác đến hỏi Tân sự việc thế nào? Tân bảo vừa quẹo trái, thấy đèn đỏ, thắng lại và nghe một cái „Rầm“ Tân không biết anh ta chạm vào Tân hay Tân chạm vào anh ta, vì trời quá tối. Xong cảnh sát cũng hỏi người lái Hon-da tương tự, không biết người lái Hon-da giải thích như thế nào. Ông nhân viên Cảnh sát leo lên xe làm giấy ăn kết và bảo hai người phải ký tên vào biên bản, thế là mọi việc xem như xong, để con đường được trống trải cho mọi người qua lại.

   Anh chàng lái Hon-da nhanh nhẹn ký vào biên bản, còn Tân thì không. Ông nhân viên Cảnh sát hỏi?

*Tại sao anh không ký vào.

-Tôi sẵn sàng ký với điều kiện.

*Anh muốn điều kiện gì?

-Cuộc xảy ra tai nạn nầy ai là người có lỗi.

* Anh, chớ còn ai vô đây.

-Ông chắc không?

*Chắc chớ, mọi việc đã rõ ràng anh còn chối cãi gì nữa.

-Không! Tôi không chối, tôi chỉ hỏi để biết thôi và tôi chỉ ký khi ông viết thêm những hàng chữ trong biên bản rằng. Chử ký nầy có giá trị đây là cuộc xảy ra tai nạn, còn lỗi phải thì chưa biết là ai, thì tôi sẽ ký, còn không thì tôi không ký.

-Ông nhân viên cảnh sát thấy Tân nói tiếng người không mấy gì suông sẽ và ngỡ Tân chẳng rõ luật lệ gì đâu, nên viết theo lời yêu cầu của Tân và cuối cùng Tân ký vào biên bản tai nạn.

    Mọi việc ông Cảnh sát và người lái chiếc Hon-da hôm đó tưởng rằng truông chảy và ngon như ăn bắp. Nhưng không ngờ! Sáng hôm sau, kể từ lúc gây tai nạn Tân tìm đến một ông Luật sư đưa tấm hình làm chứng và kể tất cả mọi sự việc xảy ra cho ông ta nghe. Ông ta nhận lời và hứa giúp Tân. Ông nói.

*Khi ra Tòa, nếu Tân thua, thì mọi sở phí Tân phải trả tất cả, còn hễ Tân thắng thì phía bên lỗi họ phải trả tất cả. Ông hỏi tiếp, Tân có chịu không?

-Vâng tôi sẽ làm theo ý ông.

    Hai ngày sau, anh chàng lái Hon-da cứ điện thoại đến nhà Tân hối thúc, rằng Tân phải đưa số Bảo hiểm, để anh ta đi sửa chiếc Hon-da và anh còn phải thanh toán tiền bệnh phí, vì chân anh đang bị thương và đang chữa trị. Tân trì hoãn và bảo, việc anh thì anh cứ làm, còn việc tôi thì cũng đang nhờ Luật sư làm rõ vấn đề, khi kết thúc ta sẽ tính sau theo như luật lệ hiện hành. Anh chàng lái Hon-da tức giận và chưởi mắng ôm xồm. Tân mặc kệ và tỉnh bơ mọi việc có Luật sư lo.

    Anh chàng lái Hon-da tức giận gọi cho ông nhân viên Cảnh sát và tường thuật lại những lời Tân nói. Ông Cảnh sát tá hoả, tưởng tay nầy không biết gì. Ai ngờ …….rồi ông an ủi anh chàng lái Hon-da. Thôi anh cố chờ ít hôm thử xem sao.

    Gần hai tháng sau, Tòa gởi giấy mời Tân, ông Cảnh sát và anh chàng lái Hon da đến xử. Ông Tòa hỏi anh lái Hon-da? Tại sao đang lúc tai nạn xảy ra anh không để y dấu vết tại hiện trường cho Cảnh sát xử lý, mà anh tự động kéo chiếc Hon-da vào lề. Có phải anh đụng người ta rồi tìm cách phi tan dấu vết. Phải không? Anh lái Hon-da trả lời.

*Dạ thưa Tòa, vì tôi quýnh quáng quá nên làm như thế.

-Ai là người gọi điện thoại cho Cảnh sát?

*Dạ tôi.

    Đến lược Tòa hỏi ông Cảnh sát ?

-Khi nhìn thấy vụ tai nạn xe cộ xảy ra, có một người phi tan dấu vết mà anh vẫn cho là họ đúng sao?

*Dạ tôi chỉ làm theo lời kể của anh lái Hon-da.

-Còn hiện trường anh không cần xác minh gì hết?

*Dạ vì trời tối, hơn nữa kẹt xe nhiều quá nên tôi thiếu xót.

   Cuối cùng đến Tân

-Anh có nghĩ anh đụng người ta không?

*Theo tôi, có thể có, có thể không, tôi không chắc chắn. Nhưng một điều ngạc nhiên nếu tôi đụng người khác, tại sao họ không để nguyên hiện trường cho Cảnh sát dễ dàng làm việc, mà đàng nầy họ vội vàng phi tan dấu vết.

-Thôi được mọi người ngồi xuống.

     Mười phút sau Tòa xử anh lái Hon-da hoàn toàn lỗi. Bởi vì luật tai nạn dù có lỗi hay không lỗi người gây tai nạn không được phép phi tan dấu vết và cảnh cáo một nhân viên Cảnh sát không làm tròn bổn phận.

     Qua sự việc trên, cộng những kinh nghiệm bao năm sống tỵ nạn nơi xứ người. Sự bình đẵng dường như có ẩn sự giới hạn. Bởi thế, con người lắm lúc cũng bùi ngùi và thất vọng trước những giới hạn ấy.

 

Thủy Điền

 

 

155-Hai Nải Chuối

 

         Bà Út Hạnh đứng trước hàng tư nhà, tay chống nạnh. Hai cha nội nầy mình mời đúng mười hai giờ sang ăn cơm, cứ hứa hứa mà bây giờ cũng chẳng thấy tới, đồ ăn nguội lạnh cả rồi, thiệt là giờ dây thun. Vừa nói xong thì hai người đàn ông lơn tơn tới.

     Ba Hồng vừa từ Sài gòn về đây mua căn nhà và miếng đất gần ba tháng, ba Hồng thì độc thân nên dễ gần gũi với láng giềng như bà Út Hạnh và anh sáu Bông.

     Anh sáu Bông thì vợ chết sống lủi thủi với hai đứa con gần cả chục năm nay.

     Bà Út Hạnh thì không có chồng con gì cả, bà sống cùng đứa cháu gái làm cô giáo cạnh bên.

     Ba người đều độc thân cả nên họ kết tình bạn xóm giềng, mỗi khi nhà nào có đám đình hay việc gì họ cũng đều ghé qua cùng nhau chia sẻ. Vì chỗ tình bạn, qua những lần mời mọc nhiều buổi tiệc ở nhà hai ông bạn già, bà Hạnh không đi thì không được, còn đi viếng mãi thì bà cũng ngại. Bà nghĩ ra cách làm buổi cơm thịnh soạn mời họ lại, sang nhà mình cùng ăn buổi cơm cho vui gọi là trả nghĩa.

    Qua lời mời chân thành hai ông bạn già đồng ý và vui vẻ nhận lời.

Trưa hôm sau ba Hồng dân Sài gòn quen tánh nết khi đi tiệc thường hay mang theo quà cáp dù ít hay nhiều, riêng sáu Bông thì dân nhà quê nếu dự tiệc lớn hoặc đàn ông mời thì hay mang theo rượu hoặc tiền ngoài ra không mang quà cáp như ba Hồng. Bởi khi đến nhà Út Hạnh, cả ba đều ngỡ ngàng.

   Út Hạnh thì nghĩ chỉ mời sang dùng cơm cho vui đâu có tiệc tùng gì mà quà với cáp, sáu Bông thì thấy kỳ vì mình sang tay không, còn ba Hồng thì hơi quê sợ sáu Bông nghĩ lầm mình có dụng ý gì với Út Hạnh. Hồi đầu thì Út Hạnh không nhận quà của ba Hồng, nhưng nhờ sáu Bông nói đỡ.

*Nhận đi mà, người ta có lòng chẳng lẽ từ chối sao, bà nhận của ảnh đi rồi nhận của tui sau.

- Anh đâu có mang cái gì mà anh bảo tui nhận.

*Có chớ, tui thì không được sang trọng như anh ba, chỉ cây nhà lá vườn thôi

-Cái gì đâu anh mang ra xem nào?

*Chỉ có hai nải Chuối.

-Thôi đi anh ơi, ở đây ai mà không có chuối.

*Nhưng chuối của tui đặc biệt lắm nhen.

-Thôi tui không nhận chuối đâu, anh mang về đi.

*Chê thì tôi mang về.

-Mà đâu anh đưa tôi xem nào.

   Sáu Bông đưa hai bàn tay lên chỉ Út Hạnh. Nè, bà thấy chưa? Hai nải chuối nè. Ba người áp cười rần bà Út Hạnh quê đỏ mặt, sáu Bông nói tiếp

*Thôi không nhận tôi bỏ vào túi quần, lát nữa mang vìa.

-Anh vô duyên dữ lắm rồi nhen anh sáu.

   Út Hạnh mang món quà của ba Hồng vào trong buồng cất, ba Hồng khiều nhẹ sáu Bông hỏi? Bộ ở đây đi dự tiệc đi tay không hã anh sáu? Không phải là như vậy.

*Tiệc tùng người ta thường đi rượu hay tiền còn ở đây bả mời mình sang ăn cơm cho vui, quà cáp cái gì.

    À ra tôi mới hiểu, nhưng có một chút cũng vui chớ anh.

*Đành vậy, thì tui cũng đi hai nải Chuối đó, có đi không đâu.

   Anh vui tính thật anh sáu à.

            Buổi tiệc tàn Út Hậu tiễn hai người về, Út Hạnh quây sang nói nhỏ với ba Hồng, anh mới về đây anh không biết, ở đây anh sáu vui tính lắm, tính tình cà rỡn, nhưng rất được mọi người mến yêu.

    

 

Thủy Điền

 

154-Thích Làm Người Mẩu

 

   Trong dáng điệu thểu não, quần thì ống cao, ống thấp, tay thì chóng đỡ tấm thân gầy, tay xách một bịch thuốc, mặt mày nhăn nhó, vừa đi, vừa than thở.

   Ba Cang và tư Ốm vốn là bạn bè cùng thôn, nông dân chân chất từ lúc thuở nhỏ.

*Đi đâu về vậy anh Ba?

- Ờ ! Anh tư đó hả? Tôi vừa đi chợ Huyện về đây anh.

* Sao mà nhìn anh thấy quảy quá vậy anh ba, có chuyện gì không? Chiều hôm qua tôi chờ anh tới nửa đêm mà chẳng thấy anh sang tui, anh hứa kiểu nầy làm tui một mình cổng hết hai xị, tưởng hôm nay ra ruộng không nổi, anh ác vừa vừa vậy anh ba.

-Xin lỗi anh tư, tôi bệnh quá anh tư, định qua anh hồi rồi, nhưng đi không nổi, nên đành thất hứa, bậy quá, anh đừng giận tui nha anh tư.

* Mà anh bệnh gì, sao không nhờ ai qua cho tui hay, anh kỳ thật anh ba, tui bên nầy có biết trời trăng, mây nước gì đâu, không lẽ mỗi lần rủ anh nhậu phải qua nhà hú năm lần, bảy lượt kỳ cụt lắm, ai mà làm vậy.

-Đúng rồi, tôi hiểu.

*Thôi mình bỏ qua chuyện nầy đi, tôi hỏi anh bệnh gì? Có nặng lắm không, xem tôi có giúp ích gì cho anh được không, lòng vòng quá.

- Thú thật anh chuyện là như thế nầy, sáng hôm qua tôi nhận làm cỏ cho ba Trân, vừa vác cái cuốc đi khoảng trăm thước tôi gặp Út Cường, hắn đang bày dụng cụ vẽ ra định vẽ cái gì đó, tôi không biết và vọt miệng ghẹo hắn chơi.

* Bộ anh bị hắn đánh hả?

-Đâu có.

*Chứ tại sao thân thể anh te tua hết vậy?

-Anh từ từ, để tui kể cho anh nghe đầu đuôi câu chuyện. Hắn hỏi tôi? Anh Ba đi làm đồng một ngày được bao nhiêu tiền? Tôi trả lời, lạ thì một trăm ngàn, quen thì tám. chục ngàn. Rồi hắn vọt miệng hỏi tôi? Nếu muốn làm cho hắn, hắn trả cho ba trăm ngàn. Tôi hỏi mà làm cái gì? Hắn nói rất đơn giản, chỉ đứng làm mẩu cho hắn vẽ xong thì thôi.Tôi nghĩ cũng sướng, công việc rất nhẹ nhàng mà nhận ba trăm ngàn, tội gì không làm anh, còn hơn ra đồng còng cọc cả ngày chỉ kiếm có trăm ngàn, nên tôi nhận lời ngay. Anh biết không? Hắn còn đưa tiền tôi trước nữa, tôi khoái quá và đứng cho hắn vẽ. Tôi tưởng, năm mười phút là xong. Ai ngờ! Hắn bắt tôi đứng ẹo qua, ẹo lại sữa tới, sữa lui cả ngày mà cũng chưa vẽ xong, lỡ nhận tiền hắn rồi, nên tôi đành ngậm họng mà làm. Anh biết không? Tôi ẹo gần tám tiếng đồng hồ thử hỏi gân cốt nào chịu nỗi, khi xong rồi, tôi ra về, đi toàn hình chữ S muốn chết luôn anh ơi. Hễ ai đi ngang qua tôi giả đò đứng nghiêm chịu trận một lúc rồi đi tiếp, bực mình quá trời, quá đất anh ơi. Tôi tởn cái vụ người mẩu nầy tới già luôn, bây giờ tới sau hắn mà có trả một triệu một ngày tôi cũng chẳng thèm làm.

 *Hèn gì, té ra là như vậy, ai biểu anh muốn làm người mẩu

-Đâu có, anh nói oan cho tôi rồi, chủ yếu tôi thấy công việc nhẹ, tiền nhiều thôi.

*Tôi nói anh nghe, không phải hắn đày đọa một mình anh đâu, mấy hôm tôi nghe cháu bà Hậu kể, hắn cũng gạn bà Hậu ngồi làm mẩu, bà Hậu khoái ngồi cho hắn vẽ, vẽ xong hắn hỏi bà Hậu xem hình có đẹp không? Bà Hậu cầm bức ảnh lên tá hoả tam tinh, bức ảnh y như là một cụ già bảy chục tuổi. Trời ơi, anh biết không? Bả mắng Út Cường một trận quá trời, quá đất. Bả hỏi tại sao bôi bát bả như thế, bả mới năm chục tuổi, mà sao dám vẽ bả bảy chục tuổi, nghĩa là như thế nào. Út Cường trả lời thì anh vẽ phòng hờ trước vậy thôi, mà trước sau gì em cũng bảy chục tuổi, chẳng lẽ em muốn năm mươi mốt tuổi chết à. Bà Hậu về bả khóc gần cả tuần, tụi tui bên nầy ôm bụng cười cho một trận, giờ đến lượt anh, không biết nay mai rồi sẽ tới ai đây.

   Thôi hiểu rồi, anh về uống thuốc, nghỉ dưỡng đi, tui đi làm tiếp mấy luống khốm còn lại.

-Thôi tui về anh tư.

*Ừ về đi.

-Thiệt là tai nạn, bởi ham tiền.

   Vài hôm sau bà Hậu sang nhà ba Cang nhờ làm cỏ mấy luống khốm, vô tình gặp con Lan đang bán Xôi dạo ghé nhà Út Cường. Hai người rình thì nghe Út Cường muốn con Lan ngồi làm mẩu cho hắn vẽ, hai người nhẩy vào can ngăn, con Lan nghe hai người kể về lai lịch của Út Cường, hết hồn, hết vía gánh gánh hàng đi tuốt một nước. Út Cường quê quá đóng cửa rào cái rầm, mắng hai người cho một trận và bảo „Đồ Kỳ đà cản mũi, khó ưa „.

 

 

Thủy Điền

 

153- Bị Rầy

 

        Chỉ cú phôn hỏi đứa cháu gái, sao mấy ngày nay Cô gọi cho mẹ cháu mà chẳng thấy mẹ cháu bắt phôn gì cả, Cô lo quá, không biết có chuyện gì nên sang qua hỏi cháu thử xem sao. Thế mà hai Cô cháu lời qua, tiếng lại mà đã mất hơn một tiếng đồng hồ.

      Lâu rồi, hơn mười năm nay chưa bao giờ nó gọi thăm Cô một tiếng hay lái xe ghé qua nhà, mặc dù nó thường hay đi qua ngang chỗ Cô nó ở lắm. Cô nó nhiều lúc cũng giận con cháu ngày nay khó hiểu quá, nhưng rồi Cô nó bỏ qua, thây kệ tất cả lớn hết rồi, có ngồi trách cũng bằng thừa.

     Bỗng dưng mấy ngày nay ngồi nhớ mẹ nó, nên gọi điện thoại hỏi thăm bà xem có khỏe không? Vậy mà chẳng nghe ai bắt điện thoại gì cả, sợ bà có mệnh hệ gì nên đăm lo. Ngồi tính tới, tính lui thôi gọi nó thử xem nó có biết được chuyện gì về mẹ nó chăng.

    Gặp nó, nó bảo chắc có lẽ mẹ nó đang ở sau vườn nên không nghe điện thoại, vì mùa nầy tháng năm trời bắt đầu ấm áp, nên mẹ nó  tích cực vun xới để trồng một ít bông hoa và hoa màu cho khu vườn nhà được xinh ra. Nghe nó nói mẹ nó vẫn khỏe thấy cũng an tâm và chờ dịp khác bà rảnh rỗi điện thoại hỏi thăm sau cũng không muộn. Ai ngờ! Sẵn dịp điện thoại nó thao thao bất tuyệt nào hỏi thăm sức khỏe, nào kể chuyện trên trời dưới đất đã ấp ủ trong lòng nó gần cả chục năm nay như chưa một lần thố lộ cùng ai bao giờ. Làm Cô nó chỉ biết ngồi nghe nó nói rồi cười vui vẻ trong những câu chuyện. Nó kể về việc trồng trọt cho Cô nó nghe, sao năm nào cũng thế, mỗi lần trồng cháu cũng đều bị rầy cả Cô ơi. Còn Cô trồng có bị rầy không ?

 *Cô nó trả lời không, Cô chưa hề bị rầy bao giờ.

-Thế thì Cô hên quá, còn cháu thì vô số kể.

*Cô nó nghĩ tại nó trồng không đàng hoàng và không thứ tự, mẹ nó thì lại khó khăn cho nên cái gì cũng rầy la, cốt để con cái làm cái gì cũng phải ý tứ hơn thì công việc mới tốt được.

-Nó nói Cô làm cách nào để không bị rầy, Cô chỉ giùm con để năm sau con không bị rầy.

*Cô nó chậm rãi nói, cháu làm cái gì cũng vậy phải nhẹ tay, khéo léo, sạch sẽ, thứ tự và nề nếp, mẹ cháu chỉ thế nào, cháu làm y thế nấy. Cô tin chắc lần sau, năm sau và cả những năm kế tiếp cháu sẽ không bao giờ bị rầy.

-Nó bảo cháu lần nào và năm nào cũng đều làm theo ý mẹ cháu mà cháu vẫn bị rầy, thế là sao hả Cô?

*Rõ ra là mẹ cháu khó quá, cháu có muốn Cô giúp cháu điều gì, Cô thú thật, cô đành bó tay.

     Nó suy nghĩ một hồi rồi nói tiếp, chắc là Cô hiểu sai cháu rồi, ở đây cháu muốn nói là sâu rầy kia chứ không phải mẹ cháu rầy la gì cả, mẹ cháu dạo nầy dễ lắm Cô à, bà không như lúc trước đâu, bà tân thời rồi.

     Cô nó bật ngửa, té ra là như thế, Cô hiểu sai về cháu rồi, tại cháu nói không rõ ràng nên Cô nhầm lẫn. Thú thật với cháu Cô tài giỏi vì đâu cháu, chẳng qua nhà Cô không bị rầy là vì Cô ở tầng ba,  hơi cao nên bọn chúng không đến quấy nhiểu, còn cháu ở tầng trệt nên thường hay xẩy ra đó là chuyện bình thường. Nếu cháu muốn sau nầy không có sâu rầy thì nên dọn lên tầng ba mà ở hay cao hơn, hy vọng năm sau cháu sẽ giống như Cô. Cám ơn Cô, chào cô, hẹn dịp khác Cô cháu mình tâm sự nhiều hơn còn bây giờ cháu phải đi bắt rầy đấy.

 

Thủy Điền

 

152- Chuyện Nàng Karin

 

   Sau khi sanh cô con gái đầu lòng, lẽ ra Karin phải mừng rỡ vì nàng đã sanh cho một gia đình Hoàng tộc một đứa con xinh đẹp và khỏe mạnh. Đàng nầy ngược lại nàng cứ khóc và u buồn suốt gần mấy tháng qua, vì Ngài Bá tước chồng nàng bất bình, không thèm nói và cũng chẳng đến thăm nàng nữa. Bởi Ngài chỉ chờ đợi ở nàng một cậu con trai để mai nầy còn có người nối ngôi, kế vị.

   Trong chuyến kinh lý tại một làng nhỏ, tình cờ Ngài Bá tước nhìn thấy Karin đang tưới hoa trong sân nhà. Ngài cho ngựa dừng lại, rồi bảo quân lính tránh xa và chờ đợi. Ngài xuống ngựa và làm quen với Karin. Biết ra Karin là con gái độc thân, mồ côi cha mẹ và hiện sống cùng đứa em trai đã có gia đình và cô em gái cũng độc thân. Ba anh em từ ngày cha mẹ mất cùng nhau gói gọn, đùm bọc lẫn nhau trong căn nhà bé nhỏ nầy. Lời qua, tiếng lại Ngài Bá tước giã từ và lên ngựa cùng đám lính hầu đi tiếp. Mọi người xung quanh cứ ngỡ như câu chuyện qua đường, việc Ngài Bá tước thăm hỏi dân làng là việc bình thường nên mọi người chẳng ai thèm để ý, để tâm. Hơn nữa Ngài Bá tước đã có vợ và hai cô con gái sờ sờ.

   Sau khi chuyến kinh lý trở về, Ngài Bá tước cứ ngồi trên ngai vàng trầm ngâm suy nghĩ chẳng nói điều gì và cũng chẳng thèm động địa đến ai. Bao Quan hầu ngỡ Ngài bị bệnh bèn mang thuốc than đến, nhưng Ngài cứ gạt ngang và bảo mang đi nơi khác.

   Hai hôm sau, Ngài cho dời Chánh phi và hai cô con gái sang căn Biệt thự khác và ra lệnh cho quân hầu mời cho được Karin về. Karin về đến nơi Ngài vui vẻ trở lại và nói thao thao bất tuyệt. Chỉ trong khoảnh khắc Ngài tuyên bố cùng mọi người Karin sẽ trở thành Chánh phi trong tương lai và cho mời tiếp những người trong gia đình Karin vào Tòa Lâu Đài ở cùng.

   Chánh phi đầu tiên của Ngài coi như mất chức, vì sanh cho Ngài chỉ hai nàng con gái. Khi nghe Ngài sắp đính hôn cùng bà vợ kế, bà như điến hồn, nửa say nửa tỉnh, nhưng cũng phải đành chịu một khi Ngài đã quyết. Hơn nữa bà quá rõ vì bà không sanh cho Ngài được một chàng trai nào để nối ngôi. Trong ghen tức và hờn giận, bà và hai cô con gái ngậm ngùi sống âm thầm nơi căn biệt thự nhỏ cạnh gần cây cổ thụ.

   Vừa về đến Tòa Lâu Đài vài ba tháng, Ngài nhìn thấy cô em gái của Karin càng lúc càng sang trọng đẹp ra, Ngài bắt đầu dò dẫm và ăn ở với nàng. Karin và anh trai biết được điều nầy, nhưng phải đành câm nín. Một hôm Ngài Bá tước đi vắng cô em gái chạy sang than thở và kể rõ cho Karin biết hết mọi việc. Karin giận quá, tát cho cô em gái một tát tay rồi ôm đầu gục khóc. Karin vừa giận, vừa thông cảm nỗi khổ đau của em mình và của chính bản thân mình rồi nàng mặc kệ Ngài muốn làm gì thì làm, có chống trả lại cũng vô ích khi nàng và em nàng là những viên sỏi nhỏ trong Tòa Lâu Đài nầy.

   Karin về ở với Ngài gần tám tháng nay mà chẳng thấy có tin tức gì, còn cô em gái bụng dạ càng ngày càng phì to và sắp đến ngày ra hoa, nở nhụy. Nhìn em mình Karin bỗng đăm ra lo sợ, lỡ Ngài nghĩ mình chẳng sinh được con thì chết mất. Nhưng cũng may, vừa gần tròn một năm sống với Ngài nàng đã mang thai, sự vui mừng nổ tung cả Tòa Lâu Đài và loang rộng khắp nơi, Karin bây giờ là Chánh phi danh giá có một không hai.

   Trong lúc Karin có thai, cô em gái cũng sinh được một cậu con trai thật khá khỉnh. Ngài rất hài lòng. Nhưng luật lệ Triều đình không cho phép, nên cô em gái xin Ngài cho về quê chốn cũ, Ngài chấp nhận, ưng lòng.

   Ngày tháng đã đến, Ngài chờ đợi Karin sinh cho Ngài một chàng trai, ai ngờ Karin sinh một nàng con gái trong thật xinh xắn và khỏe mạnh. Khi nghe nàng sinh con gái, Ngài dường như vỡ mộng, Karin và mọi người cũng thế. Kể từ đó sau một năm dài sống chung ân ái Ngài bắt đầu hờ hợt, lạnh nhạt và dường như thưa dần với Karin. Chỉ một năm, vừa ôm đầu khóc hận vì cô em gái, nay lại phải ôm đầu vì sinh nàng con gái, bao vất vả, khổ đau chồng chất lên đầu nàng, nàng chỉ biết khóc trong âm thầm ,lặng lẽ.

    Trước những tình huống và tham vọng nàng nhất định không chịu thua và nhất định sẽ sinh một chàng con trai rồi ở tại Toà Lâu Đài nầy, chứ không như bà Chánh phi trước phải ra Biệt thự nhỏ mà ở gần bên cây cổ thụ.

    Thừa cơ hội Ngài đi kinh lý, Karin bàng với người em trai ruột thịt, rằng nàng nhờ anh ta cho nàng một cậu con trai rồi sau đó thế nào cũng được. Cậu em trai từ chối, nàng cứ bắt buộc, chàng vẫn từ chối, vì đây là một cuộc loạn luân không thể chấp nhận được. Cậu em trai nhiều lần bảo Karin xin Ngài cho tất cả về quê, nhưng nàng không chịu và nhất quyết ở lại đây.

   Một hôm hai chị em ngồi bàng cãi về câu chuyện sinh con, đẻ cái Karin không cần xin xỏ, năn nỉ vì nữa cả, nàng bạo dạng cưởng hiếp em mình một cách trắng trợn .Nhưng vô tình vợ chàng tìm đến và bắt gặp. Nàng ôm mặt khóc vì thấy chồng mình đang ân ái cùng chị ruột, nàng liền báo ngay cho Ngài biết sự việc. Ngài tức giận vô cùng vì hiện tại Ngài và Karin ít ăn ở với nhau, nhưng Karin là Chánh phi là vợ của Ngài. Tại sao em trai nàng dám làm chuyện tài đình đến thế. Ngài ra lệnh sai quân hầu lôi cổ em nàng và nhốt trong ngục sâu chờ ngài ra tòa lãnh án. Riêng Karin Ngài cho mời vào Dinh tra hỏi? Nàng nhận tội và cho vào ngục sâu khác.

   Trong phiên tòa xử Karin và em trai hai người đều cùng một tội, sai qui luật Cung đình nên phải phạt tù chung thân và đày ra một đảo xa sống cùng chung những người mọi rợ, bần hàn khố rách.

      Nghe tin anh chị bị án tù chung thân và đày đi đảo xa, cô em gái từ làng quê nhanh chân về xin Ngài tha thứ và giảm tội. Rất tiếc Ngài đã quyết xin nàng hãy về đi.

     Ngày hai anh em lên tàu ra đảo, Karin nhắn nhủ người em gái hãy mang con gái chị về quê nuôi dưỡng và nhất quyết không cho để lại ở Dinh. Chuyến tàu đưa hai người càng lúc càng xa, tay vẫy tay đưa tiễn, những giọt nước mắt của cô em gái và cô con gái thân yêu cũng theo dòng trôi chảy.

    

  Thủy Điền

Ngày 12, tháng 3, năm 2016

Thivanviet.wordpress.com

Tran.vanmau@yahoo.de

 

Thủy Điền

 

151- Tiếng Chó Sủa

 

       Giữa đêm thanh vắng, tiếng Chó sủa ầm vang lúc sau nhà, lúc trước ngõ. Ông Hai ngồi dậy lắng tai nghe tiếng động và bảo bà cùng dậy xem coi sắp có chuyện gì xảy ra. Rồi cả hai đành phập phòng thức trắng đêm.

       Ngày xưa khi nghe tiếng Chó sủa phía nào là ông biết ngay rằng ai sẽ đến, còn bây giờ thì ông chịu thua.

        Nếu Chó sủa sau nhà là ông biết ngay phí bên kia.Họ nói nho nhỏ hoặc cho những ám hiệu, ông chỉ cần tằng hắng là con Vện sẽ im lìm đi nơi khác.Họ đến trong chớp nhoáng. Ông giải quyết những gì họ yêu cầu thế là đi ngay.

        Nếu Chó sủa trước nhà chắn chắn là Cảnh sát, Dân vệ đến khám xét sổ gia đình, ông cũng chỉ tằng hắng là con Vện không hề nhúc nhích. Sau khi khám xét xong, không có gì nghi vấn thì họ đi nhà khác.

        Qua những lần như thế, con Vện nhà trở thành thói quen và ông Hai dường như nằm lòng tiếng Chó sủa. Bởi thế khi giải quyết những nhu cầu hay mở cửa cho Chính quyền khám xét thì ông bà trở lại giấc ngủ bình thường và ngon giấc.

        Sau những năm Hòa bình lẽ ra ông bà phải ngủ ngon hơn thời Chiến tranh là khác, nhưng ngược lại ông bà lúc nào cũng phập phòng, sợ hãi.Tiếng Chó sủa ngày nay khác hẵn hơn ngày xưa nhiều. Nó sủa liên tục như trấn áp kẻ địch đang tấn công nó. Mặc dù ông thỉnh thoảng la rầy, nhưng nó không nghe và vẫn sủa, không phải là nó không sợ chủ, nhưng nó đang chóng chọi kẻ thù, nó không thể chùng bước. Nếu nó chùng bước và nghe ông trong lúc nầy có lẽ ngày mai ông Hai sẽ mất đi ổ trứng gà hay chiếc Hon-da quên khóa.Và cũng có lúc nó đang sủa dữ tợn rồi bỗng dưng tắt hẳn. Bởi nó đang ngậm phải miếng mồi ngon mà thiên hạ vừa biếu cho nó. Sau khi ăn xong nó cũng được người ta nhẹ nhàng mang đi luôn.Và từ đó ông Hai sẽ không bao giờ nghe tiếng nó sủa vào những đêm khuya cũng như nhìn thấy hình dáng yêu kiều nó nữa.

 

Thủy Điền

 

150- Vĩnh Biệt Một Cuộc Tình

 

   Nghe tiếng gõ cửa lốp cốp Lê đang ngủ. Giật mình dậy, hai tay dụi dụi hai con mắt. Không biết Phương hay Phượng đến đây, chàng nửa mừng, nửa lo. Chờ một chút anh mở cửa ngay.

    Lê và Phương cùng học chung một khoá, hai đứa yêu nhau hơn hai năm nay có thể khi ra trường họ sẽ cưới nhau nữa là khác. Những ngày nơi mái trường họ khăng khít với nhau như Sam không rời xa một tất.

    Ngày lên đường đi thực tập Lê được đưa về Sông bé còn Phương thì về Thành phố. Quãng đường từ Thành phố về Sông bé không xa, nên vài ba ngày thì Phương đi xe Buýt lên Sông bé thăm Lê. Hai tháng đầu thì Lê chẳng ghi chữ nào ngoài cánh cửa cái, Phương lên thăm lúc nào cũng được, hể khi nào nàng lên thăm, là chàng mở cửa ra và bảo à Phương mới đến, rồi lập tức mở cửa ngay không cần do dự hoài nghi vì cả. Nàng cũng thế rất tự nhiên như nhà mình.

    Sau hai tháng thực tập chàng quen một cô bạn gái khác ở Lái thiêu, cô ấy tên Phượng. Cứ đúng vào ngày thứ bảy cuối tuần là Phượng đều lên thăm Lê rất đúng hẹn. Qua vài tuần như thế Lê sợ bại lộ, lỡ hai người đến thăm một lượt hay cùng ngày là nguy mất. Nên Lê nghĩ ra cách lấy phấn vẽ chữ P thật lớn trước cửa cái và ghi phụ thêm hàng chữ (nhỏ) chờ anh một tí. Như thế Phương hay Phượng có lên đều nhìn thấy và chẳng ai nghi kỵ gì, tất cả đều ngỡ P là tên của mình như vậy sẽ ổn hơn.

    Một hôm Lê về Thành phố gặp Phương, chàng bảo nếu Phương có lên thăm anh thì nên đi vào ngày làm việc còn những ngày cuối tuần anh thường hay ra Thủ dầu một chơi cùng mấy anh em trong đội để lấy lại không khí sau những ngày làm việc mệt nhọc.Thoạt đầu nàng giận .Tại sao anh ta không dành ngày nghĩ cuối tuần cho mình, nhưng nghĩ đi, nghĩ lại chắc Lê hay đi nhậu nhẹt cùng những người bạn nên chìu lòng.Thế là từ đó về sau Phương chỉ đến sau giờ nghĩ và trọ lại một đêm sáng mai về Thành phố làm việc. Xong phần Phương đối với Phượng thì chàng khỏi cần lo vì nữa cả, vì Phượng chỉ đến cuối tuần như thường lệ ngoài ra ngày thường có lẽ Phượng bận việc học hay buôn bán hoặc làm việc gì đó không lên được.

    Kể từ đó Lê như ông Hoàng nho nhỏ, tuần nào cũng có hai con Ghệ đến thăm trong khi những thằng bạn của Lê chẳng có con nào. Bỗng dưng trong buổi cơm chiều anh Đoàn trưởng nửa vui, nửa đùa, Lê ơi mầy làm tao hồi hợp quá Lê, tao liên tưởng có ngày căn nhà nầy nổ tung quá mậy. Lê trả lời không sao đâu, tôi sắp xếp cả rồi, anh đừng lo gì cả.

    Chỉ còn một tháng nữa thời gian thực tập sẽ kết thúc, tháng cuối cùng mọi việc gần như xong tất cả. Mọi người rất rảnh rang, chỉ ăn với ngủ và còn chờ ngày về trường. Đùng một cái Phượng từ Lái thiêu lên, nàng lên ngay trưa thứ năm chứ không như thứ bảy thường lệ, lần nầy lên chủ đích của nàng là báo cho Lê biết là thứ bảy nầy nàng sẽ xuống Thành phố ở luôn vì nàng vừa thi đỗ vào trường Cao đảng Nông nghiệp hay nói cách khác nàng muốn từ giã Lê một thời gian.Trước lúc chia tay hai người đang bùi ngùi âu yếm thì Phương từ Thành phố lò mò lên. Lê không còn cách nào khác là phải mở cửa cho Phương vào.Tình thế kẹt cứng cả ba đều lặng câm không ai nói lời nào. Phượng đứng dậy chào và ra cửa để nguyên tay áo chà chữ P cho thật sạch, đi một nước và lầm bầm “Đồ gian dối “.

     Không gian chỉ còn lại Phương và Lê, Lê bày tỏ, xin lỗi đủ điều, nhưng nàng vẫn lặng câm rồi đứng dậy chào vĩnh biệt.

     Ngày trở về trường Lê muốn nối lại tình xưa, nhưng Phương chỉ xem Lê như người bạn cùng lớp cũng như bao người bạn khác.

 

Thủy Điền

 

149- Nếu Tôi Là Ông Chủ

 

    Tại sao ta không nhìn những phong cảnh thiên nhiên, những đặc thù của nơi khác mà học hỏi để tô điểm cho xứ sở mình một ngày một tươi đẹp và ấn tượng hơn ví dụ.

-Hải phòng với những con đường Phượng đỏ

-Trái vãi Hưng yên

-Gốm Bát tràng

-Mận Trung lương

-Bánh phòng Sađéc

-Bưởi năm roi Vĩnh long

-Mấm lóc Châu đốc

-Lụa Hà đông

-Đà lạt ngàn hoa v.v…

    Nếu tôi là ông Chủ trước tiên tôi sẽ dùng đất của Thị trấn sẵn có, rồi tuyễn mộ vài ba người thợ ương, rép cây và thành lập vườn ương cây Hoa giấy hay còn gọi là Vạn hoa lầu. Cây Hoa giấy rất dễ trồng, thích họp vùng nhiệt đới, không cần tưới nước nhiều, phát triển rất nhanh, đủ loại sắc màu như: trắng, hồng, cam, tím và ra hoa bốn mùa.

     Loại cây nầy trong tương lai, tôi sẽ phát động trồng toàn Thị trấn. Trước tiên là tất cả các Cơ quan nhà nước, kế đến là những con đường chánh và phụ, Công viên và những ngõ hẻm xa xôi. Những cây nầy có thể trồng trên chậu hoặc trực tiếp xuống đất hay những hàng rào công cộng.

     Sau khi đường phố, công viên bắt đầu nở hoa. Tôi kêu gọi các Hãng xưởng, Xí nghiệp, Thương gia và những người giàu có trồng trước bằng cách mua cây giống giúp Thị trấn với giá ủng hộ, để lấy tiền trả cho nhân viên vườn ương. Có như thế vườn ương sẽ sinh sản ra nhiều cây giống khác. Khi ra nhiều cây giống tất nhiên giá thành sẽ hạ thấp như ý muốn.

     Giai đoạn hai nầy tôi sẽ kêu gọi những người có thu nhập trung bình, quí vị Công nhân viên nhà nước cùng hưởng ứng phong trào và Thị trấn sẽ bán cây giống với giá phải chăng cho họ, để họ đồng tham gia và Tôi sẽ chờ đợi một thời gian ngắn khi Thị trấn thật sự tỏa hương, đượm sắc, tôi sẽ thực hiện tiếp giai đoạn ba.

     Giai cuối cùng tôi cho mời họp tất cả những hộ nghèo, giải thích sự ích lợi chung và kêu gọi họ cùng trồng và cây giống được biếu không.

     Đồng thời cũng vạch ra Nội quy và điều lệ để mọi người cùng nhau thực  hiện như sau:

1-Khi đã trồng cây Hoa giấy phải chăm sóc cho chu đáo, không được phép trồng có lệ, qua loa.

    2-Ai làm hư hại cây Hoa giấy dù của Tư nhân hay Nhà nước (Có bằng chứng) Sẽ bị phạt tiền. Số tiền nầy được xung vào qũy ương cây

    3-Dọc theo các con đường đều dựng lên những Thùng rác công cộng, mỗi Thùng cách nhau 50 mét. Như thế vừa bảo vệ Môi trường và tập người dân sống gần nếp sống văn minh.

    4-Tạo mọi điều kiện cho người dân trồng cây Hoa giấy để sản xuất.

    5- Mọi nhà có thể trồng các loài Hoa khác, nhưng không thể thiếu cây Hoa giấy.

     Qua những ý tưởng và kế hoặch trên tôi hy vọng, sau một năm, hai năm hay lâu hơn một chút Thị trấn quê tôi sẽ trở thành một rừng Hoa giấy đủ sắc màu. Từ đó

-Ai từ Thành phố về Lục tỉnh cũng nhìn thấy rừng Hoa giấy Tân hiệp

-Ai từ Lục tỉnh đi Thành phố cũng nhìn thấy rừng Hoa giấy Tân hiệp.

     Mỗi ngày có hàng vạn người đi qua, mỗi ngày có hàng vạn tiếng đồn đãi, một năm, hai năm, mười năm, hai chục năm sau tôi tin chắc trong đầu mỗi người từ bé đến lớn đều gọi Tân hiệp quê tôi là xứ Vạn hoa lầu.

        

 Nếu tôi là ông Chủ quê tôi

Tôi cố quyết dựng xây tuyệt đẹp

Tôi sẽ họa quê tôi lắm nét

Một vườn hồng Hoa giấy xinh tươi.

 

Thủy Điền

 

 

148- Cây Thông Vắng Chủ

 

  Năm nào cũng thế, cứ độ chừng mười chín, hai mươi tháng chạp dương lịch là vợ chồng thằng Bern về chặt cây Thông để trang điểm trong căn nhà vào những ngày Giáng sinh,Tết đến. Riêng năm nay chẳng thấy hai đứa nó về, bà Anne ngồi buồn nhìn ra cổng.

   Kể từ khi con gái bà lập Gia đình với thằng Bern năm nào bà cũng trồng thêm một cây Thông cho vợ chồng nó, trình tự như thế năm năm liên tiếp. Hể bà đốn cây nầy là bà trồng cây khác ngay và vừa đúng năm năm là cây Thông cao lớn, đủ chưng diện trong căn nhà nhỏ vào những ngày lễ trọng đại. Bà chăm sóc nó rất cẩn thận và xem nó như là một vật quí giá. Mặc dù hàng năm con bà có thể mua ở một trại ương cây nào đó chừng vài ba chục bạc.

    Cứ khoảng còn năm ngày nữa là Giáng sinh thì hai vợ chồng thằng Bern lon ton về vừa thăm mẹ già, vừa mang cái Sẻn ra bứng cây Thông mang về trong niềm vui phấn khởi, sung sướng và xem như phúc lộc đầu năm, bà Anne cũng thế mỗi khi cho con, giúp con được cái gì bà mừng vô hạn.

    Nhưng gần một năm nay bà nghe loáng thoáng hai vợ chồng nó lục đục về tình cảm, cảnh nhà không vui, bà rất buồn, nhưng không tiện hỏi. Bà nghĩ dần dần rồi cũng sẽ qua, chuyện vợ chồng cơm không lành, canh không ngọt là chuyện bình thường. Nhưng đáng buồn hơn là mọi chuyện không như bà nghĩ, chúng nó vừa chia tay và đang chờ ngày ly dị. Con gái bà đã dọn nhà đi nơi khác.Căn nhà chỉ còn lại thằng Bern và hai đứa con nhỏ.

     Cảnh nhà thằng Bern bây giờ vắng lặng, thiếu bóng đàn bà, bề bộn. Bởi thế những ngày Lễ nhỏ, lớn hay Sinh nhật, Đám đình đối với Bern bây giờ không còn ý nghĩa, hứng thú như xưa nữa, tất cả đã nhạt nhoà . Chàng luôn trầm lặng và ít giao tiếp bên ngoài.

     Tuy biết hoàn cảnh Bern như thế, nhưng bà vẫn luôn nuôi hy vọng rằng thằng Bern sẽ về mang cây Thông đi. Rồi bà cứ chờ, chờ đợi mãi mà chẳng thấy bóng dáng thằng Bern đâu.

      Mùa Giáng sinh năm nay bà bứng cây Thông của bà vào chưng và bà  bùi ngùi đặt tên cho cây Thông của thằng Bern là Cây Thông vắng chủ

  

 

Thủy Điền

147- Còn Một Chút Tình

 

    Cầm cây AK47 đâm băng đạn vào, lên nồng. Tao sẽ giết mầy rồi đi tù hay bị xử bắn tao cũng hã dạ. Một phút sauVịnh lấy đạn ra và nói. Thôi tha hắn đi, vì hắn đã cứu mình một lần.

    Năm 1978 trận lụt kéo về thôn của Vịnh, nước ngập mênh mông Vịnh bắt ghế sửa cầu điện,Vịnh xui bị điện giật và ngã xuống bất tỉnh.Vợ Vịnh la lên nhờ người cứu giúp. Cũng may có thầy Khánh đang dọn dẹp sách vở và bàn ghế bên trường học chạy sang, vì nhà Vịnh cách trường học chừng năm chục mét.Thầy Khánh là một giáo viên dạy Thể thao nên ông ta rất rành rõi những động thái hô hấp, chỉ trong một tiếng đồng hồ Vịnh bắt đầu ngoa ngoe sống dậy, nhưng rất yếu. Nếu không có thầy Khánh chạy sang là Vịnh chết mất.Vợ Vịnh cám ơn thầy Khánh không lời nào tả hết.

    Năm 1979 trường thầy Khánh được Tỉnh chuyển sang trường dạy nghề. Thầy Khánh và một số Giáo viên vẫn còn dạy ở đó và vợ của Vịnh cùng mấy cô gái cùng thôn cũng xin vào trường làm việc với công việc chị nuôi. Sau thời gian gặp nạn Vịnh dần dần hồi phục và ở nhà làm nương rẫy.

   Năm 1981 Vịnh được giấy gọi đi Nghĩa vụ quân sự và anh ta lên đường, học tại Đồng tâm được ba tháng rồi đưa thẳng sang Campuchia công tác. Thời gian công tác gần một năm rưởi, Vịnh có dịp trở lại Đồng tâm để nhận quân và tạt về thăm vợ con.

   Bước vào nhà gặp vợ con mừng rỡ sau những ngày xa cách, rồi vòng quanh thăm cha thăm mẹ, bạn bè vô tình Vịnh nghe tin vợ mình bây giờ đã ân ái cùng thầy Khánh. Vịnh bàng hoàng choáng váng, nhưng cố giữ bình tĩnh.Vịnh giả đò không hay biết gì cả. Hết ngày thăm vợ con Vịnh vui vẻ trở về đơn vị. Hiện tại vợ Vịnh nghĩ chồng mình không hay biết gì cả. Mặc dù lúc đầu hơi lo lo.

    Thời gian Vịnh đi nghĩa vụ là thời điểm Campuchia rất ác liệt. Có đi, nhưng khó về, có về cũng chẳng mấy ai còn nguyên vẹn. Vợ Vịnh không biết vì đa cảm hay phòng khi gió lạnh.

    Vừa về đơn vị được năm ngày,Vịnh năn nỉ Thủ trưởng rằng Vịnh xin nghĩ phép ba ngày về gia đình có nhiều chuyện cần giải quyết. Thủ trưởng không cho và bảo anh vừa về Gia đình tuần rồi đấy mà.Vịnh năn nỉ miết Thủ trưởng chấp nhận và Vịnh về Việt nam.

    Bước vào nhà vợ Vịnh tá hoả. Vịnh không vòng vo và đi thẳng vào vấn đề.Vợ Vịnh thừa nhận sự việc.Vịnh hồi đầu cứng rắn, nhưng khi nghe vợ mình thừa nhận chàng như điên mất. Bao nghi ngờ, đồn đãi đã thành hiện thực.Vợ Vịnh chấp nhận mọi hình phạt đối với Vịnh, nàng ngồi gục đầu và khóc, kể lể đầu đuôi câu chuyện.

    Nàng nghĩ chàng không bao giờ trở về nữa nên gây ra lỗi lầm.Vịnh thấy vợ ăn năn nên chàng không nở và càng câm hận hơn người đàn ông đã hữu hoá vợ mình. Chàng chẳng trả lời, trả vốn vì với vợ tất cả mọi việc đã quá rõ ràng còn gì mà tra vấn nữa.

    Vịnh lấy súng ra lên đạn, nàng ngỡ chàng sẽ bắn mình nên quì lại, khóc lóc vang xin chàng gạt qua một bên và đi đăm đăm về hướng trường học, chàng định cho thầy Khánh một băng AK cho hả giận. Nhưng đến cổng trường chàng nghĩ Hắn đã một lần cứu mình thoát chết, giờ chẵng lẽ giết Hắn, thôi tha cho Hắn một phen.

     Sau ba ngày nghĩ phép về đơn vị đúng hẹn. Chàng ngẫm nghĩ „Đời sao khốn nạn đến thế“ Có kẻ đã từng cứu ta, rồi lại giết ta.

 

Thủy Điền

 

 

 

146- Gặp Lại Nhau

 

        Vừa bước xuống xe, đang chờ anh Phụ xế chuyển giỏ đồ trên mui xuống. Thằng Hùng bỗng đâu la lên. Thành hả Thành, rồi hai thằng ôm nhau, vỗ vai, mầy đi đâu mất biệt mấy năm trời.

        Thời gian bảy tám năm nay, Thành đi làm ăn xa, không còn gặp lại Hùng nữa và cũng chẳng thư từ, liên lạc vì cả. Hai thằng dường như đứt tuyệt.

        Gặp lại Hùng mừng quá, hai thằng vào quán nước gần bên tâm sự. Thành hỏi ?

-Sao dạo nầy vợ con đều khỏe chứ ? Hùng hả miệng cười.

*Kể từ thời gian mầy đi cho đến nay bết và cực khổ quá mầy ơi.

-Tao đang hỏi mầy về sức khẻo của Gia đình, mầy trả lời đâu đâu, không đúng câu hỏi của tao tí nào cả. Tao chưa hỏi đến công ăn việc làm. Hùng hả miệng cười.

*Xin lỗi mầy, tại tao gặp mầy mừng quá, nên trả lời lung tung. Gia đình tao cũng bình thường. còn mầy ?

-Thì cũng khỏe cả. Riêng mầy thì tao khỏi hỏi nhìn hiện tại là biết rồi, hỏi thêm cho phí. Ê mà sao tao hỏi cái gì mầy cũng hả miệng cười vậy mậy.

*Chớ chẳng lẽ mầy bảo tao khóc sao Thành, có khổ cách mấy cũng phải cười chớ mậy.

-Bây giờ đến lượt tao hỏi về đời sống mầy đây.

*Thú thật anh em lâu gặp nói ra thì kỳ, khổ lắm Thành ơi, làm việc cực nhọc mà chẳng dư dả, thấy làm sao mầy ạ.

- Mầy định chiều nay không cho tao tới nhà mầy sao ? Mầy làm việc chỉ một mình hay làm cả nhà?

*Làm cả nhà, một mình có môn mà chết đói.

-Mầy nói xong chưa Hùng?

*Thì đại để chỉ vậy thôi, rồi hả miệng cười.

-Hùng nầy, tao không tin mầy cực khổ đâu Hùng.

*Chớ mầy bảo tao nói sướng, sướng cái nỗi gì.

-Công việc cửa Hùng hàng ngày như Hùng đang kể, Hùng cầm trên tay mười tờ Vé số đi vòng quanh bán, một người mua, hai người mua thậm chí có người mua hết một lần. Mỗi tờ Hùng lời một ngàn, mười Vé Hùng lời mười ngàn. Đó là tao nói riêng mầy, còn con mầy cũng kiếm một ngày mười ngàn và vợ mầy cũng thế. Như vậy mỗi ngày Gia đình Hùng kiếm được ba chục ngàn.Vậy là ngon lắm rồi Hùng. Đặt trường họp ngày ấy bán trên mười Vé thì khỏi nói rồi và mười tờ Vé số chỉ cân nặng không tới năm chục gram. Thế mà Hùng bảo là nặng nhọc và cực khổ. Hùng thấy tôi nói đúng không. Riêng Thành một ngày đi nhổ cỏ ruộng, đầu đội trời, chân đạp đất tám tiếng đồng hồ mới được ba chục ngàn, chủ thỉnh thoảng còn hối thúc làm nhanh lên. Còn Hùng sáng ra, may thời có người mua hết là Hùng nghỉ việc cho đến chiều, ngày ấy chỉ làm nửa tiếng đồng hồ là cao. Như vậy thử hỏi giữa tao và mầy ai cực khổ và nặng nhọc hơn ai. Hùng hả miệng cười.

*Thỉnh thoảng thôi mầy ơi, chim nhả miệng ve.

-Nói cho vui vậy thôi, thấy mầy khỏe, Gia đình mầy hạnh phúc là tao mừng rồi. Sẵn dịp về thăm nhà tao có đem ít chuối tao trồng, tao tặng mầy hai nải mang về vợ con ăn cho vui.

*Thôi Thành mang về nhà đi tao không nhận đâu.

-Tao còn cả tám nải kia, mầy nhận đi, nếu không gặp mầy ở đây thì mầy cũng khỏi cần khuyên tao.

     Thằng Hùng ngày trước được lắm, dân chơi một thời. Lẽ ra ngày gặp lại, Nó nhận ra mình trước, nó phải mời mình đi uống nước, Cà-phê .Ai ngờ gặp lại, Nó chỉ biết Than giản. Thật ngược đời.

 

Thủy Điền

 

145- Những Cảnh Đời Trước Mắt

 

         Nhìn những đứa trẻ ngày ngày bán Vé số, móc Bọc mũ, đánh Giầy, Bụi đời, ăn dực tranh nhau, rồi thốt lên những tiếng chưởi thề nghe chát tai. Thầy So ngồi bên vệ đường hàng ngày Vá xe, bỗng dưng lòng thầy thấy buồn buồn và rưng rưng nước mắt.

    Trước ngày Đất nước thống nhất. Thầy đã đi dạy được ba năm tại một trường Trung học của Quận, lúc ấy thầy hai mươi tám tuổi. Nhưng sau ngày ấy thì thầy không được dạy nữa như bao cô thầy khác. Mặc dầu thầy có làm đơn xin dạy lại nhưng không được cứu xét. Thế thì thầy đành thất nghiệp và phải tự đi tìm một công việc khác để sống.

    Ngày xưa thầy chỉ dạy môn Toán - Lý Hóa, môn học nầy chẳng dính dáp vì đến chế độ mới, nhưng luật lệ hiện hành của nhà nước là không trưng dụng những người chế độ cũ, nên phải đành.

    Trong thời gian thất nghiệp thầy chọn tiếp cho mình cái nghề bán thuốc lá lẻ ven đường, ngày ngày ông đi qua, bà đi lại mua vài đìếu thuốc thì cũng sống lây lất được.  Được gần một năm thì thầy chuyển nghề sang Vá ép xe đạp. Thầy có hai Cơ sở và đặt tên là cây Đa.

-Một là tiệm Vá xe đạp gồm có:

     Một cái thau đựng nước, hai cái lốp xe cũ, treo tòn ten trên cây Đa, vài ba cái ruột xe bị hỏng, dụng cụ sửa xe đạp và một ít keo.

-Hai là cây Xăng gồm có:

     Một cái chai một lít đựng nước lả, cái ghế đẩu và một cái phểu úp lên đầu cái chai.

     Hàng ngày kẻ qua, người lại, ai cần chi thầy đều giải quyết được tất, thầy vừa kiếm sống qua ngày, người qua đường cũng không hề chậm bước. Trong những lúc vắng khách thầy nằm trên cái ghế đu nhìn ra lộ chính từ sáng sớm đến chiều, thầy thấy hết tất cả những hoạt động hàng ngày rồi thầy tự hỏi.

    Nếu trường hợp thầy và hàng chục ngàn thầy cô khác được tiếp tục dạy cho đến ngày nay thì những đứa trẻ đang diễn ra trước mắt thầy đâu đến nỗi và có thể tương lai chúng là những người giúp ích cho xã hội nữa là khác.

    Miền nam trước đây theo thống kê dân số tổng cộng mười bảy triệu rưởi dân, ta đem chia làm ba, trẻ em, trung niên và những người cao tuổi thì trẻ em đã chiếm khoảng năm triệu người hay nói cách khác là một phần ba dân số.

       Mặc dù sau ngày thống nhất, nhà nước có điều động số cán bộ giáo viên từ Bắc vào cộng một số Giáo viên gia đình cách mạng được trưng dụng lại, thử hỏi số người ấy làm sao thay thế hết toàn bộ số Giáo viên cũ. Chính vì lẽ đó nhiều em không được đi học. Mà một khi không đi học đương nhiên, các em phải rơi vào những hoàn cảnh thật là đáng tiếc.

     Làm việc thì ít, nghĩ ngợi thì nhiều. Thầy ngày nào cũng ra cây Đa cổ thụ nằm tòn ten trên chiếc ghế đong đưa nhìn những cảnh đời không tưởng, rồi thầm tiếc cho một tương lai.

 

Thủy Điền

 

 

 

144- Con Quạ Xám

 

  Cứ mỗi độ vào tháng năm, khí trời bắt đầu ấm dần, khoảng còn một tháng nữa là mùa Xuân sẽ đi qua và mùa Hè lại đến. Không biết từ đâu con Quạ xám lại lù lù hiện ra đứng trên nhánh thông già, mắt đăm đăm nhìn về cánh đồng mạ non cao gần hai ba tấc.

     Con Quạ xám có bộ lông nhiều chấm trắng, cái mõ vàng cong vắt, bàn chân rộng, dài và những cái móng rất sắt cộng đôi mắt trong sáng lẫn gương mặt rất hùng hồn.

     Nó đứng trên cành thông quan sát về mọi phía như anh lính đang gác chồi canh để săn những con mồi đang lạc bước. Hể khi thấy chú Thỏ đang nhẩy tung tăng, chú Trĩ đang cùng đàn con đi tìm những con Côn trùng hay chú Nai con đang nghiền thảo là nó bay cái vù ra và cắn vào cổ con vật nó nhìn thấy một cách mau lẹ mà không cách nào trở tay kịp.

    Ngày nào cũng thế, dù muốn, dù không nó cũng phải bắt được con mồi để giải quyết cái bầu diều to tát, vì nó to lớn như con Gà trống.

    Ròng rã từ đầu tháng năm, đến cuối tháng mười thì nó tự nhiên biến mất, không biết nó tránh hàn trở về Nam cực hay ẩn trốn trong lòng đất mà hiện giờ cũng chẳng ai biết được. Như thế sáu tháng dài nó tiêu diệt trên dưới gần một trăm tám chục con mồi lớn, nhỏ. Bởi nên xung quanh khu vực có nó xuất hiện dường như diệt chủng. Những Nông dân nơi đây muốn bảo tồn những con thú hoang cho cánh đồng thêm đẹp xinh, họ tìm cách tiêu diệt nó bằng cách đi săn, nhưng không được phép. Hiệp hội bảo vệ Động vật cấm mọi hành động sát sinh gọi là bảo vệ môi trường. Có nhiều ý kiến đối nghịch nếu không diệt nó, nó sẽ tiêu diệt hết những cầm thú hoang. Nhưng đã là luật lệ thì phải chấp hành ,chuyện chúng tiêu diệt lẫn nhau là chuyện của chúng. Còn chúng ta là con người, chúng ta cần phải bảo vệ môi trường.

    Cứ hết luật lệ nầy, đến luật lệ khác. Cứ hết năm nầy, đến năm khác nó liên tục như thông lệ, khi đến mùa khô là nó đều làm như thế. Cũng may, là những con thú sau một năm thoát nạn, chúng lại tiếp tục sinh sôi, nẩy nở thêm hết đàn nầy, đến đàn khác và chúng vẫn còn tồn tại mãi đến ngày nay.

 

Thủy Điền

  

143- Chiếc Bóng Bên Cầu

 

      Hoàng đang đợi người yêu nơi cầu tàu, bỗng dưng có hai chàng thanh niên trạc tuổi Hoàng đi ngang qua, hất vào người Hoàng một cái, Hoàng xiểng niểng, té nhào. Các anh đi đứng thế nào đấy. Hai thằng quây ngang qua. Ê ! kiếm chuyện hả mậy, rồi đập cho Hoàng một trận, xong nhìn quanh không thấy ai và vọt mất.

        Mai vừa kịp đến thấy Hoàng gặp nạn, bèn gọi người đến cứu. Chở đến nhà thương Bác sĩ bảo cũng may, bị đánh nhiều chỉ ngất, nhưng không trúng vào chỗ độc. Chàng nằm viện được ba ngày thì Bác sĩ cho về. Mai hỏi chàng vì sao ra sự thể ? Hoàng trả lời.

-Chỉ một lời nói thôi, mà Họ đánh anh như thế.

-Mà anh nói cái gì ? Nên họ mới đánh anh.

-Có gì đâu! Họ đụng anh, anh bảo họ đi đứng thế nào, chỉ vậy thôi.

-Vô lý, thật vô lý, nếu như thế em sẽ đến Công an làm cho ra lẽ.

-Thôi đi Mai, xem như mình xui thôi, đừng làm ầm lên không ích lợi gì.

-Anh thì lúc nào cũng xui, cũng xui, thôi tùy anh.

   Trước khi là người yêu của Hoàng, Mai đã yêu Lân, hai người quen nhau và yêu nhau trong thời gian hai người cùng đi Thanh niên xung phong. Sau ba năm trở về Mai theo học ngành Sư phạm dạy trẻ, còn Lân thì chẳng có nghề nghiệp gì cứ lỏng ngỏng, rượu chè hết ngày nầy, sang ngày khác. Mai nhiều lần khuyên bảo Lân hãy tìm cái gì đó cho cuộc sống đàng hoàng hơn, nhưng Lân cứ chứng nào, tật nấy. Ngày qua ngày đi dạy học, Mai quen được Hoàng. Vì Hoàng là đại diện của hãng cung cấp đồ nhựa của Thành phố. Hãng nầy nhận đài thọ và bảo trợ cho trường học của Mai, nên anh hay đến nhiều lần để cung cấp những vật dụng mà nhà trường cần đến.

    Hai người quen và yêu nhau hơn nửa năm nay, ngày nào khi tan sở chàng hay hẹn nàng đến cầu tàu gần đó rồi hai đứa cùng đi dạo một vòng. Lân biết Mai yêu người khác lâu lắm rồi, nên không còn đến với chàng nữa. Cơn tức giận bị người yêu phản bội. Chàng cứ để trong lòng và hẹn một ngày trả thù cho thỏa giận. Mặc dầu chàng biết tình yêu của chàng và Mai chẳng còn thắm thiết gì.

    Một hôm ngồi quán Cà phê cùng mấy thằng bạn cũ thời Thanh niên xung phong, chàng kể hết cho mọi người nghe câu chuyện trên. Thế là có hai thằng bạn thân ra tay nghĩa hiệp. Lân chỉ rõ lịch trình Mai và Hoàng thường hay hò hẹn và ấn định ngày giờ rồi cho thằng bồ mới của Mai một trận bỏ ghét.

    Sau thời gian Hoàng gặp nạn, Mai mằn mò và nghe những người bạn cũ kể lại rằng Lân đã nhờ người đánh Hoàng. Nàng bực tức và nhất định tìm cho được Lân để hỏi rõ chuyện nầy, nhưng chàng biến mất và để lại cho nàng bức thư nội dung. Vì anh quá yêu em, xin em đừng giận hãy xem đó là kỷ niệm. Có lẽ hai đứa mình không bao giờ quên em nhỉ, ký tên Trần thế Lân.

    Cầm bức thư ra về nàng bật khóc. Hôm sau đi dạo cùng Hoàng nàng bỗng dưng khóc. Hoàng hỏi ?

-Tại sao?  Hôm nay em lại khóc, anh có làm gì em buồn không ?

-Không ! Anh chẳng làm gì để em buồn cả và nàng thuật lại hết câu chuyện cho Hoàng nghe.

-Hoàng ngồi trầm ngâm không nói một lời.

-Mai bảo nói gì đi anh.

-Thế là Lân vẫn còn yêu em nhiều lắm, vô tình anh đã làm tổn thương đến tình yêu hai người. Anh thật sự có lỗi, khi nào gặp lại Lân em cho anh xin lỗi, còn sự việc xảy ra anh không bao giờ buồn giận gì Lân cả.

-Mai nghe xong nàng ôm đầu khóc ngất

   Hoàng bảo Mai, thôi mình về, trời đã nhá nhem tối và từ đó nàng chẳng còn nghe tiếng hẹn ngày mai đúng năm giờ anh chờ em nơi Cầu tàu nữa.

 

Thủy Điền

 

142- Khứa

 

      Trời tháng bảy nắng chang chang. Khứa ngồi một mình trên chiếc ghế dài tay cầm cây gậy, tay cầm cái khăn Muchoi lau những giọt mồ hôi chảy trên vầng trán. Khứa thở rất mệt nhọc vì cái bụng quá to như người đang mang thai. Miệng cứ lập bập sao mình dại quá.

      Khứa là con độc nhất của một Nông dân giàu, có tiếng sống bằng nghề chăn nuôi và trồng lúa. Lúc trưởng thành học xong trung học cha Khứa bảo lấy vợ và phụ giúp gia đình. Khứa trả lời rằng phụ giúp thì được, còn lấy vợ thì không. Cha Khứa nghĩ tại Khứa còn trẻ nên nói thế, không sao ! Vài ba năm nữa Khứa sẽ đổi ý chứ gì, chừng ấy lo không kịp nữa là khác.

     Công việc hàng ngày cha Khứa lo một đàn Heo,Bò. Còn Khứa thì phụ trách về phần đồng áng, mẹ Khứa thì nhiệm vụ nấu nướng và giặt vũ trong gia đình. Ba người ba công việc khác nhau. Nhưng công việc của Khứa thì nặng nhất, lắm lúc phải mướn thêm nhân công thì mới kịp vụ. Ngày nầy, qua ngày nọ công việc cứ liên tục phủ lên đầu Khứa. Khứa chỉ biết đi làm ,về ăn và ngã phèo ra ngủ,  mọi chuyện khác, riêng tư Khứa chưa bao giờ nghĩ đến. Khứa bây giờ như là cái máy không hơn, không kém.

     Kể từ ngày cha mẹ Khứa qua đời. Khứa vẫn ở một mình thay thế, chăm sóc làm tất cả mọi việc. Nhiều người xung quanh cũng giới thiệu, động viên Khứa nên lấy vợ để giúp Khứa một tay, nhưng Khứa một mực từ chối. Khứa nghĩ cuộc đời Khứa cực khổ thế là đủ rồi bây giờ kéo niếu người khác vào rồi sanh con, đẻ cháu sẽ khổ thêm và khổ mãi mãi hết đời nầy, sang đời khác.Trên cơ bản Khứa nghĩ thì cũng đúng, nhưng quy luật Tạo hóa thì như Khứa cũng chẳng mấy vì hay ho.

     Năm nay Khứa bắt đầu già, già trước tuổi, sức lực yếu, công việc mỗi lúc càng nhiều. Khứa quyết định bán hết tất cả đàn Heo, Bò và nghỉ việc, nhưng riêng ruộng đất cha ông để lại Khứa nhất quyết không bán. Mặc dầu có rất nhiều người dạm hỏi.

     Cả ba năm nay ruộng đồng không cầy xới, trồng trọt, cỏ lát thừa sức mọc cao, chuồng trại không ai chăm sóc, tàn lụy theo thời gian. Khứa biết rõ điều đó, nhiều lúc muốn sửa chữa, nhưng sửa chữa để làm gì, cho ai? Ruộng đồng cũng thế nên Khứa cứ thây kệ và bỏ lơ.

      Mỗi ngày chẳng làm gì, cứ chống gậy ra vào nhìn cánh đồng bao la Khứa dường như đỗ lệ, thương tiếc rồi ngồi bên vách nhà, Khứa suy nghĩ hết chuyện nầy, đến chuyện khác và cho mình sau quá ngu si. Khứa tự an ủi. Phải dè ngày xưa lập gia đình bây giờ còn có người nối khố thì đỡ biết bao.

  Sau khi Khứa mất, căn nhà được đóng kín gần một năm trời, không người kế vị nhà nước mời Luật sư và Thừa phát lại làm Hồ sơ bảo chứng rồi xung tất cả tài sản của Khứa vào công quỷ nhà nước.

    

Thủy Điền

 

 

 

141- Đoạn Đường Số 4

 

     Tình hình chiến sự đang biến động mạnh, ngoài đường giặc giã rầm rầm, xa xa một chút là nghe tiếng nổ, một lát là nghe những tràng Đại bác. Mắc chứng gì thằng Sơn cứ giục tôi phải cùng nó đi Sài gòn. Tôi không đi nó cứ năn nỉ, bao nhiêu tiền xe tao trả hết cho mầy. Tôi bảo, không phải vấn đề là tiền, mầy có thấy không ? Nguy hiểm lắm. Nó nói nhầm nhè gì mầy cứ đi với tao, mầy chết chắc tao sống à. Tôi vị bụng và đi theo nó, nhưng hỏi ? Mà đi lên Sài gòn làm gì. Nó bảo, bà Ngoại tao biểu tao lên phụ cậu Tư tao sắp xếp nhà cửa chở đồ đạc về Tân hiệp. Thôi đi thì đi. Hai thằng nhất trí và ra đón xe đò đi Sài gòn.

-Lên xe tôi nửa đùa, nửa thật lúc đầu tao tưởng mầy lên Sài gòn vào tòa Đại sứ Mỹ cầm Nạng thun bắn mấy thằng Quân cảnh Mỹ, leo qua cửa sắt trèo lên lầu đi Trực thăng qua Thái lan rồi sang luôn bên Mỹ chứ. Ai ngờ lên Sài gòn phụ ông Cậu mầy chuyển ít hàng về quê, việc nầy tao nghĩ ổng và mấy thằng con ổng tự làm cũng được, đâu cần đến mầy. Nó cười và thụi tôi một cái rồi bảo, mầy chơi tao hoài.

-Không phải, mầy hiểu sai tao rồi, hai thằng con ổng lên bốn, lên năm mà phụ giúp cái gì. Hơn nữa tao có muốn đi đâu, tại sợ Ngoại tao buồn nên tao đi. Mầy biết đi một mình thấy thế nào, nên tao mới rủ mầy.

   Nói qua, nói lại chiếc xe đò đã đến Tân hương. Đến Tân hương thì xe phải dừng lại vì phía trước hướng về Sài gòn bị kẹt cứng. Nhìn phía bên kia đường hướng về Lục tỉnh cũng giống nhau. Phí trước hướng Thủ thừa-Tân an

đang có đụng lớn giữa Sư đoàn 7 và Bộ đội khói bay nghi ngút, tiếng súng nổ lụp bụp rền vang. Trên bầu trời những chiếc Máy bay F5, B52 đảo qua, đảo lại rồi những tiếng Bơm ì ầm xé nát không gian thật khủng khíếp. Hai thằng chờ như bao người khác, hy vọng tiếng súng lắng dần đoàn xe sẽ vượt qua quãng đường nguy hiểm nầy. Chờ mãi gần ba tiếng đồng hồ, lúc ấy trời sắp xế chiều. Tôi nói:

-Không xong rồi Sơn ơi, thôi mình về, nguy hiểm quá. Tao nghĩ Ngoại và Cậu mầy cũng hiểu là tại sao mầy không đi Sài gòn được. Nó lặng thinh dường như muốn nán đợi. Chiến tranh đâu có thời hạn, một lúc sau nó bảo.

-Về thì về, nhưng về bằng cách nào, chẳng lẽ đi bộ. Tôi nói

-Nếu không có xe thì cũng phải đành. Tân hương, Tân lý tây, Tân hiệp là đến nhà ngay. Nó cười cười.

-Mầy nói dễ như ăn cơm không bằng.

   Tôi thì chịu đi bộ về, còn nó thì chần chừ, lưỡng lự. Nhưng cũng may bốn giờ rưởi chiều Lính xả cảng cho xe đi tiếp, nhưng chỉ về hướng Lục tỉnh. Tôi và nó nhẩy đại lên chiếc xe tải chở Xi măng ngồi, cũng hên là ông Tài xế không thấy, nếu thấy thì ông ta đuổi xuống mất rồi. Ngồi trên đống Xi măng cao hai thằng nhìn thấy hàng trăm chiếc xe nhà binh chở Lính nối đuôi nhau về hướng Mỹ tho, bọn tôi chỉ đoán thế thôi, nhưng chẳng biết Họ sẽ về đâu.

   Gần tới Tân hiệp thằng Sơn đập mạnh vào sau lưng ông Tài xế la lớn, làm ơn cho tụi tui xuống . Làm ơn cho xuống Tân hiệp giùm Bác tài. Ông thắng một cái két và bảo xuống lẹ giùm con đi mấy ông nội, bực mình quá. Hai thằng mừng quá nhẩy xuống, xe chạy tuốt không tốn đồng nào. Hai thằng đứng thở một hồi cho khỏe. Tôi bảo Sơn mình vào quán Việt hương làm ly Cà-phê đá rồi về cũng chẳng muộn.

   Hai thằng đang uống Cà-phê ngồi nhịp đùi, nhìn ra lộ chính thì những chiếc xe chở lính cũng vừa đến. Họ đậu lại một dọc cho lính xuống nào là Nhẩy dù, Biệt động quân, Thủy quân lục chiến, Bộ binh v.v.. đủ hết. Bỗng dưng Họ cởi những bộ đồ trận, bỏ súng ống chất thành đống, rồi mặc chỉ áo thun và quần tài lõn tìm xe khác đi tiếp. Tôi nghỉ chắc Họ được lệnh giải tán cho nên mới làm thế.

   Tôi và Sơn từ giã, ai về nhà nấy.Trên đường về nhà nhìn thấy hai bên đường toàn quần áo lính, giầy trận, nón sắt, ba-lô, súng đạn nhỏ, lớn vẫy đầy thật là ghê sợ. Những chiếc xe GMC thì đậu lại nằm ụ còn những chiếc xe đò bây giờ người ngồi chật cứng trên mui. Tôi liên tưởng trong đầu chiếc xe chỉ chạy đến Trung lương là cùng, vì quá tải.

    

Thủy Điền

 

 

 

140-Chuyện Mở Đầu

 

     Ngày 25 tháng 12 năm 2013. Mùa đông, nhân dịp lễ Giáng sinh gần nơi tôi ở người ta có tổ chức buổi Đại nhạc hội chủ đề „Mừng Giáng sinh 2013” quy tụ những nam, nữ Ca sĩ Việt nam từ Hoa kỳ sang biểu diễn, sẵn dịp tôi và vài người bạn thân thiết mua vé đi xem. Tình cờ tôi nghe anh chàng MC kể câu chuyện vui trong lúc chờ đợi Ca sĩ tô son, điểm phấn. Câu chuyện nghe thì rất hoang tưởng, nhưng ngồi ngẫm nghĩ thấy cũng vui vui.

     Anh ta kể rằng! Có một nhóm người từ các nước trên thế giới được triệu tập để tham dự cuộc họp cấp quốc gia. Cuộc họp được tổ chức tại một quần đảo nhỏ, bởi thế những người nầy phải chia thành tổ nhỏ, mổi tổ bốn người và đi bằng xuồng từ đất liền sang đảo.

     Tổ mà anh ta kể ở đây là tổ có người Việt nam. Trên chiếc xuồng nầy gồm có bốn loại người như sau: Việt nam, C, N  và  I.

      Không may là ngày vượt sông sang đảo trời mưa gió khủng khiếp, xuồng nặng quá khó chèo lái để qua sông. Xuồng vừa khỏi đất liền một đoạn, bốn người hội ý nhau cần phải có một người hy sinh cho xuồng nhẹ bớt thì hầu có thể qua được. Bốn anh chàng liếc mắt nhìn nhau không ai chịu nói một lời. Bỗng dưng anh N đứng dậy vỗ ngực. Ta lấy danh dự người N anh hùng chết vì dũng, ta sẽ hy sinh để cứu các bạn, vừa nói xong anh ta nhẩy cái đùng xuống sông, trên xuồng bây giờ chỉ còn lại ba, chiếc xuồng có vẻ thoải mái hơn lúc ban đầu. Cơn yên tỉnh chừng mười phút thì một trận bão kéo đến chiếc xuồng lâm vào cảnh bi đát trở lại không thể nào qua được, ba người còn lại hội ý tiếp, chưa nói câu nào anh chàng I đứng lên. Ta sẽ hy sinh cứu những người còn lại, điều nầy cho cả thế giới biết rằng nhân dân I cũng biết hy sinh, cũng yêu thương nhân loại chứ bao lâu nay người ta cứ nghĩ rằng chúng tôi là những người khủng bố không nhân đạo, dứt lời. Anh nhẩy ngay xuống sông hai người còn lại trên xuồng thật cảm phục sự hy sinh cao cả, tấm lòng quí báo của người bạn I. Cơn bão đã đi qua, thế là cuộc hành trình còn lại sẽ an lành đến bến. Anh Việt nam và anh M vừa chèo, vừa ngắm trời, mây nước kể trăm ngàn câu chuyện từ đời Tần Thủy Hoàng đến vua Hùng Vương thứ 18 cũng chưa hết. Anh M bỗng dưng la hét to. Coi chừng! Kìa bão đến nữa chú ý, anh Việt nam hổi ơi, xui sao mà xui tận mạng. Khoảng đường chỉ còn một phần ba nữa là đến đích, tức thật. Bão càng lúc cứ dồn dập, chiếc xuồng con ngã nghiêng sắp đấm chìm trong nước, anh Việt nam hỏi anh M ? Thế bây giờ phải làm sao, anh M ngồi lặng yên không nhúc nhích, anh Việt nam thấu rõ được tâm trạng của anh bạn M nên thốt lên một câu lịch sử. Bây giờ chỉ còn lại hai ta, trong hoàn cảnh nầy ta phải làm cái gì để hậu thế mai sau còn lưu nhớ. Anh M mừng thầm trong bụng, thế là anh chàng Việt nam nầy sẽ nhẩy sông để cứu mình. Cơn mừng thầm chưa dứt, anh Việt nam đứng dậy nhìn về phía bờ bên kia như tiếc nuối. Anh M giả bộ ngậm ngùi, khóc lóc và ca ngợi lòng can đảm của anh Việt nam. Ai ngờ! Anh Việt nam không nhảy mà quây ngược lại đạp cho anh M một đạp lọt xuống sông, rồi một mình chèo nhè nhẹ sang bờ bên kia một cách an toàn.

    Ngoài trời tuy giá lạnh, Tuyết phủ giăng đầy, nhưng cả rạp hát vỗ tay cười rần với câu chuyện thú vị, vui tươi không kém phần đụng chạm. Tôi và mấy ông bạn đi chung nhìn quanh về phía sau thấy mấy người M gốc việt đang xì xào với câu nói bất bình Ối giờ cái anh chàng MC nầy thật bố láo.

 

Thủy Điền

 

 139-Bán Tình

 

     Kể từ ngày dọn nhà về xứ biển sống, Michael thường bảo với vợ. Anh sẽ xin vào một nhà hàng lớn để làm việc, như bồi bàn hay phụ bếp gì cũng được miển sao có tiền gia đình mình sống là được. Em khỏi làm chi cả, chỉ ở nhà trông coi hai con, em đồng ý chứ ?  Ela gật đầu và nhìn chồng với gương mặt triều mến.

      Nghe bạn bè kể, làm việc ở xứ biển sáu tháng có thể sống cả một năm vì nơi đây toàn là khách du lịch đến, nên các nhà hàng đắc như tôm tươi, chủ mướn công nhân rất cao giá, hơn nữa khí hậu biển rất tốt. Bởi Chàng đang làm việc tại hãng Bột giặt, mỗi ngày hít thở những chất hoá học vào người chàng chán ngấy quá rồi, còn Ela thì mỗi ngày phải lau chùi, quyét dọn cho một trường học lưng nàng cũng sắp gẩy cong. Hai vợ chồng cậm cụi làm việc kể từ lúc lấy nhau đến nay mà chẳng dư dả được gì.

      Đầu mùa Hè chờ các con nghỉ học, chàng chuyển cả gia đình lên xứ biển gần ba trăm cây số để sinh sống. Đầu tiên chàng xin vào được một Hotel gần nhà với công việc dọn dẹp và rửa chén, được năm tháng chủ cả cứ rầy la ngày nầy, sang ngày nọ chàng bực quá xin nghỉ việc. Mặc dù trong thân tâm chàng cố muốn làm một công việc nào đó để nuôi sống gia đình, nhưng ức quá chàng không chịu nổi. Ở lâu ngày chàng làm quen được một vài người, họ giới thiệu chàng vào một nhà hàng lớn với công vìệc phụ bếp, sắt thịt, rửa rau. Chàng rất phấn khởi và làm việc rất tốt. Nhiều lúc ông chủ ghé qua, thường bảo, mai mốt tôi sẽ cho anh làm bếp chánh. Chỉ lời nói qua loa của ông chủ mà cả bọn đang làm trước sợ mất chỗ và bắt đầu nẩy sinh ganh ghét, vì sự ganh tị, vô tình chúng đẩy anh vào thế kẹt, đì đà đủ thứ. Buồn quá, anh nói ông chủ và xin nghỉ việc.Thế là, anh lại thêm một lần thất nghiệp nữa.

    Nghỉ việc Michael buồn bã đi lang thang ngày nầy, qua ngày nọ dọc theo bờ biển, rồi eo biển cho thỏa đi những giây phút căng thẳng. Michael đẹp trai, cao ráo tướng tá như tài tử Alain Delon nên những cô nàng độc thân đi tắm biển, nghỉ mát nhìn chàng không chớp mắt. Michael cũng liếc mắt, đưa tình như trao đổi những giây phút tình cảm qua đường. Có nàng nửa chơi, nửa thật gợi cảm, ân ái lại còn bồi dưỡng cho chàng ít tiền gọi là công phí. Hồi đầu chàng không nhận, nhưng gì hoàn cảnh gia đình nên chàng đành nhận. Về nhà chàng suy nghĩ thật nhiều về công việc mình làm, chàng thấy như vậy là mình đã vong phụ Ela và các con một cách trắng trợn. Nghĩ thì nghĩ như vậy, nhưng hôm sau chàng vẫn tiếp tục tới lui những nơi mà chàng đã từng qua lại và nhận những món tiền như thường lệ.

     Mấy ngày rồi, chàng định giấu mất chuyện nầy và chẳng hề đưa cho Ela một đồng nào. Nhưng ngày, lại ngày chàng thấy Ela không còn tiền trang trải trong nhà nữa nên chàng móc túi đưa cho nàng. Ela bật hỏi, tiền nầy anh kiếm từ đâu ? Michael bảo mấy hôm anh đi khuân vác ngoài bến Cá, dành dụm, nay anh thấy nhà hết tiền nên anh đưa cho em. Ela tưởng thật và không để ý đến nữa.

    Rồi cứ thế, ăn quen ngày nào chàng cũng đi rong rêu vòng quanh eo biển để mang tiền về nhà và tiếp tục nói dối vợ. Một hôm thằng Paul bệnh nặng, nàng

nhờ người chạy ra xóm Cá gọi chàng về, nhưng cả xóm Cá đều bảo chẳng có Michael nào làm việc ở đây. Thế là lộ tẩy. Chiều như mọi ngày chàng về cũng đều đưa tiền chợ cho vợ. Hôm nay Ela không thèm lấy, mà còn vặn hỏi đủ điều. Michael khai thật, vì anh thấy cảnh nhà bần bạc nên anh đành phải làm kẻ bán tình. Ela ngã ngửa ra, thế là bấy lâu nay mẹ con em sống bằng những đồng tiền cực khổ nầy. Rồi nàng bình tĩnh trở lại và nói.

    Thế là ngày mai em cũng sẽ đi làm cái nghề như anh, để trang trải gia đình còn để một mình anh thì vất vả quá.

 

Thủy Điền

 

138-Bất Hạnh

    

    Mặt trời vừa lên. Nó lần ra trước hiên, tay cầm cây gậy, tay mò mẫm tìm ấm nước mẹ Nó đã nấu sẵn từ sáng, để rót vào ly. Bỗng nghe tiếng dép lẹp xẹp tiến đến gần. Nó hỏi ai đó? Tao Văn đây mầy.Văn nào? Mầy không nhớ tao thật hã Hạnh, không nhớ thật, vậy mà nói bạn chí thân tri âm, tri kỷ.Tao lập lại lần nữa hai Văn nè mầy nhớ chưa? Nhớ rồi, cho tao xin lỗi, mù lòa quên đủ thứ chuyện mầy ơi. Mầy về hồi nào? Ngồi xuống đi, tao mới về mấy hôm.

    Năm 1977 hai thằng cùng vào trường Sư phạm, quen nhau, rồi thân nhau như anh em ruột. Một thằng thì ở Chợ gạo, một thằng thì ở Châu thành Tiền giang.

    Học xong ba năm hai thằng ra trường, một thằng đi vượt biên, một thằng về Chợ gạo dạy học. Hạnh rất hiền và dễ thương nên được mọi người yêu qúi. Sau một năm dạy học Hạnh quen một cô bạn gái cùng làng và hai người tiến đến hôn nhân. Sỡ dĩ Hạnh lập gia đình hơi sớm, gì Hạnh là con trai độc nhất, Hạnh chỉ còn một bà mẹ già, ngoài ra không còn ai cả. Cha Hạnh tham gia Cách mạng và đã hy sinh hồi năm 1970. Hạnh ở với vợ gần hai năm nay mà không có con, sự chán nản, chờ đợi một mái ấm gia đình trong tuyệt vọng. Vợ Hạnh bắt đầu nẩy sinh căn bệnh Đồng tính. Nàng quen một cô bạn gái làng bên, hai người dần dà khắn khít như keo sơn, nàng phế mặc, bỏ rơi chồng hồi nào không hay biết. Hạnh biết được sự việc nên buồn bã và chẳng biết làm sao.Thoạt đầu nóng giận, nhưng không có kết quả, chàng xoay ngang dỗ ngọt cuối cùng cũng không xong. Riêng nàng thì mỗi lúc càng đậm đà tình ái với cô bạn gái bên làng .

    Trong tình thế muôn ngàn khó khăn, một hôm cô bạn gái vợ chàng sang chơi rồi mặc nhiên tâm tình, ân ái trước mặt chàng, xem như chàng là người ngoài cuộc. Chàng bực tức, không dằn được trước sự lố bịt của hai người nên mắng  cô bạn gái một trận và đuổi về ngay.Vợ Hạnh chống cự quyết liệt, cô bạn gái cũng chẳng chịu về, nhưng cuối cùng cô thấy sự ấu đả càng lúc càng gia tăng nên đành phải rút lui. Khách về, hai vợ chồng Hạnh xem như kẻ bắc, người đông, sự rạn nứt tình cảm giữa hai vợ chồng bắt đầu to tát.

   Cô bạn gái ra về mà trong lòng hậm hực, ghen tức, cô nhất định trả thù người đã cản ngăn tình yêu của cô. Ba hôm sau cô sang tìm vợ Hạnh và mang theo một lọ Axit mới mua, cô giấu kính trong người chờ xung đột là ra tay ngay. Vừa bước vào nhà, Hạnh thấy cô đến nên chận cửa và quát cho một trận hy vọng cô sẽ đi ngay. Nhưng lần nầy cô nhất quyết không nhịn thua mà còn bật nấp lọ Axít tát vào mặt Hạnh cho thỏa cơn giận, thế là Hạnh trọng thương. Vợ Hạnh chạy ra ôm chầm chập người yêu mình còn Hạnh thì nàng phế mặc. Bà con nghe tin chạy đến chở Hạnh đi cứu chữa và Công an xã cũng đến cồng tay, rồi bắt cô bạn gái đi. Vợ Hạnh ngồi nhà ôm mặt khóc mà chẳng chịu theo chăm sóc chồng, bà con hàng xóm kêu rêu không lời nào tả hết.

   Một tháng sau, khi Công an điều tra và đưa ra Tòa cô bạn gái lãnh án mười năm về tội cố tình gây thương tích cho người khác. Hạnh thì vẫn nằm bệnh viện mãi đến bốn tháng sau mới được về nhà. Thời gian nằm viện vợ Hạnh chỉ đến đôi lần ngoài ra từ A đến Z tất cả đều do bà mẹ già lo liệu cả. Gương mặt Hạnh

bây giờ nhìn rất là khủng khiếp, hư hỏng hết và ác nghiệt hơn là đôi mắt bị mù lòa vì lãnh nguyên một lọ Axít.

    Cô bạn gái thời gian thụ án, tuần nào Vợ Hạnh cũng xách một giỏ xách đầy đi thăm giống như vợ đi thăm chồng mắc nạn. Họ yêu nhau tha thiết, yêu đến nỗi vào tù thăm nuôi Họ gắn bó như lúc ở nhà.

    Thời gian cải tạo là thời gian thử thách, chuộc tội. Cô bạn gái lao động tích cực và tuân thủ đúng nội qui trại giam nên nhiều lần cô được đề nghị giảm án và cuối cùng cô chỉ ở tù đúng ba năm và được trả tự do.

    Vừa ra khỏi cổng tù thì vợ Hạnh đã chờ sẵn và hai người lên xe, rồi đi mất biệt luôn kể từ đó. Riêng Hạnh sau cơn hoạn nạn chàng nghỉ dạy và ở quê nhà sống bên người mẹ gìa yêu quí. Không biết rồi đây khi mẹ mất, số phận Hạnh sẽ ra sao ?........

 

Thủy Điền

 

 

 137-Giây Phút Vội Vàng

 

     Ngồi bên hàng nước Mía, chờ chuyến xe đò về Thành phố. Loan cầm cái Muỗng gõ gõ trên miệng ly, rồi nói. Sao mình vội quá phải không anh ? Tân ngồi trầm ngâm, chỉ còn một khoảng ngắn nữa là em về nhà em, còn anh thì chẳng biết về đâu ?

   Năm ấy hai người cùng thi đỗ vào một trường chuyên nghiệp, nhưng học khác ngành.Tân quê quán tận Khánh Hòa, chàng trắng trẻo, to con, đẹp trai lại học khá nên nhiều cô trong trường thường hay để mắt. Loan cũng thế nàng có một nhan sắc tuyệt hảo, lại là con của một nhà khá giả ở Thành phố.

   Thời gian học hơn một năm, hai người quen nhau trong một đêm Văn nghệ do nhà trường tổ chức, rồi yêu nhau. Tình cảm hai đứa càng ngày càng gắn bó, sâu đậm những biểu chứng nầy lớp và nhà trường đã nhiều lần khiển trách. Nhưng họ cứ nhất quyết một mực bên nhau, không xa rời dù một li, một tất.

   Sau đêm liên quan tạm chia tay lên đường đi thực tập sáu tháng, để trở về làm Đồ án tốt nghiệp. Họ hò hẹn nhau ra phía sau vườn nhà trường tình tứ. Họ ngỡ nơi đây thanh vắng, không người qua lại. Ai ngờ! Đội Cờ đỏ đêm ấy đi tuần tra và bắt gặp. Rồi lập biên bản và trình lên Ban Giám hiệu nhà trường, dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa thời bao cấp chuyện yêu đương lúc còn đang đi học đều bị cấm tuyệt đối, ai làm sai lại sẽ bị cảnh cáo và sa thải ngay.

   Trong câu chuyện trên, lẽ ra Loan và Tân chỉ bị cảnh cáo thôi, nhưng vì trước đó họ đã bị cảnh cáo nhiều lần nên lần nầy nhà trường phải đành sa thải, không còn cách nào khác. Có như thế mới răn đe được người khác được và cho đây là một nguyên tắc. Thế thì Tân và Loan cùng chung số phận, không còn cách nào tháo gở.

   Ban Cán sự lớp tìm mọi cách giúp đỡ, nhưng nhà trường nhất quyết thi hành kỷ luật.

   Mấy hôm sau nhà trường vẫn cho hai người đi thực tập tại Cơ quan như bao người khác. Hai người ngỡ mọi chuyện đã qua. Nhưng không ngờ, sau sáu tháng trở về làm Đồ án tốt nghiệp. Cả hai không được làm Đồ án và bị gọi lên Văn phòng nhận giấy sa thải. Loan và Tân bật ngửa khi nhận giấy quyết định sa thải mình ngay trong lúc sắp ra trường, mà không sa thải trước đó sáu tháng. Việc thi hành kỷ luật nầy thật là một sự việc rất ngộ nghĩnh và khó tin.

   Sau nầy biết ra, chuyện rất dễ hiểu.Vì danh sách gởi đi thực tập tại các Cơ quan đã có sẵn, bỗng dưng bớt người ra thì không đúng kế hoặch dự định, còn chuyện sa thải người thì chừng nào cũng được.

   Trưa thứ sáu, cả trường ai cũng đều bỡ ngỡ, chính người bị sa thải cũng chẳng khác gì.

  Loan cho tất cả quần áo và những vật dụng cá nhân vào Va-li, Tân cũng thế. Hai người đi lang thang ra cổng trường mà cõi lòng nuối tiếc, vì chỉ còn thời gian ngắn nữa là họ đã hoàn tất ba năm học. Bây giờ tự dưng trở về nhà và biết trả lời thế nào với gia đình đây, khi mọi người đang trông đợi ngày con mình trở về với tấm bằng Trung cấp.

   Loan trở lại quê nhà mà gia đình không hay biết chuyện gì. Nàng cứ mãi ngồi khóc, khóc hết ngày nầy, qua ngày khác và tự hỏi ?  Sao mình quá vội.

   Trên chuyến xe đò trở lại Thành phố, rồi ghé tạm nhà người thân và hôm sau đón xe tiếp về Khánh hòa. Mặc dù hôm ấy Loan có bảo chàng nghỉ tạm nhà nàng, nhưng Tân từ chối. Vì chàng không muốn chạm mặt gia đình Loan bởi chàng cảm thấy tất cả những lỗi lầm đều do chàng gây ra cả.

   Và kể từ chiều hôm ấy cho đến nay Loan và Tân không còn gặp nhau nữa, câu chuyện tình dưới thời bao cấp cũng chấm dứt tại bến xe Xa  137-Giây Phút Vội Vàng

 

     Ngồi bên hàng nước Mía, chờ chuyến xe đò về Thành phố. Loan cầm cái Muỗng gõ gõ trên miệng ly, rồi nói. Sao mình vội quá phải không anh ? Tân ngồi trầm ngâm, chỉ còn một khoảng ngắn nữa là em về nhà em, còn anh thì chẳng biết về đâu ?

   Năm ấy hai người cùng thi đỗ vào một trường chuyên nghiệp, nhưng học khác ngành.Tân quê quán tận Khánh Hòa, chàng trắng trẻo, to con, đẹp trai lại học khá nên nhiều cô trong trường thường hay để mắt. Loan cũng thế nàng có một nhan sắc tuyệt hảo, lại là con của một nhà khá giả ở Thành phố.

   Thời gian học hơn một năm, hai người quen nhau trong một đêm Văn nghệ do nhà trường tổ chức, rồi yêu nhau. Tình cảm hai đứa càng ngày càng gắn bó, sâu đậm những biểu chứng nầy lớp và nhà trường đã nhiều lần khiển trách. Nhưng họ cứ nhất quyết một mực bên nhau, không xa rời dù một li, một tất.

   Sau đêm liên quan tạm chia tay lên đường đi thực tập sáu tháng, để trở về làm Đồ án tốt nghiệp. Họ hò hẹn nhau ra phía sau vườn nhà trường tình tứ. Họ ngỡ nơi đây thanh vắng, không người qua lại. Ai ngờ! Đội Cờ đỏ đêm ấy đi tuần tra và bắt gặp. Rồi lập biên bản và trình lên Ban Giám hiệu nhà trường, dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa thời bao cấp chuyện yêu đương lúc còn đang đi học đều bị cấm tuyệt đối, ai làm sai lại sẽ bị cảnh cáo và sa thải ngay.

   Trong câu chuyện trên, lẽ ra Loan và Tân chỉ bị cảnh cáo thôi, nhưng vì trước đó họ đã bị cảnh cáo nhiều lần nên lần nầy nhà trường phải đành sa thải, không còn cách nào khác. Có như thế mới răn đe được người khác được và cho đây là một nguyên tắc. Thế thì Tân và Loan cùng chung số phận, không còn cách nào tháo gở.

   Ban Cán sự lớp tìm mọi cách giúp đỡ, nhưng nhà trường nhất quyết thi hành kỷ luật.

   Mấy hôm sau nhà trường vẫn cho hai người đi thực tập tại Cơ quan như bao người khác. Hai người ngỡ mọi chuyện đã qua. Nhưng không ngờ, sau sáu tháng trở về làm Đồ án tốt nghiệp. Cả hai không được làm Đồ án và bị gọi lên Văn phòng nhận giấy sa thải. Loan và Tân bật ngửa khi nhận giấy quyết định sa thải mình ngay trong lúc sắp ra trường, mà không sa thải trước đó sáu tháng. Việc thi hành kỷ luật nầy thật là một sự việc rất ngộ nghĩnh và khó tin.

   Sau nầy biết ra, chuyện rất dễ hiểu.Vì danh sách gởi đi thực tập tại các Cơ quan đã có sẵn, bỗng dưng bớt người ra thì không đúng kế hoặch dự định, còn chuyện sa thải người thì chừng nào cũng được.

   Trưa thứ sáu, cả trường ai cũng đều bỡ ngỡ, chính người bị sa thải cũng chẳng khác gì.

  Loan cho tất cả quần áo và những vật dụng cá nhân vào Va-li, Tân cũng thế. Hai người đi lang thang ra cổng trường mà cõi lòng nuối tiếc, vì chỉ còn thời gian ngắn nữa là họ đã hoàn tất ba năm học. Bây giờ tự dưng trở về nhà và biết trả lời thế nào với gia đình đây, khi mọi người đang trông đợi ngày con mình trở về với tấm bằng Trung cấp.

   Loan trở lại quê nhà mà gia đình không hay biết chuyện gì. Nàng cứ mãi ngồi khóc, khóc hết ngày nầy, qua ngày khác và tự hỏi ?  Sao mình quá vội.

   Trên chuyến xe đò trở lại Thành phố, rồi ghé tạm nhà người thân và hôm sau đón xe tiếp về Khánh hòa. Mặc dù hôm ấy Loan có bảo chàng nghỉ tạm nhà nàng, nhưng Tân từ chối. Vì chàng không muốn chạm mặt gia đình Loan bởi chàng cảm thấy tất cả những lỗi lầm đều do chàng gây ra cả.

   Và kể từ chiều hôm ấy cho đến nay Loan và Tân không còn gặp nhau nữa, câu chuyện tình dưới thời bao cấp cũng chấm dứt tại bến xe Xa cảng Miền tây.

 

Thủy Điền

 

136-Đi Xài

 

     Hai thằng vừa đi, vừa cười khúc khích. Hồi chiều Tớ mà biết đi Xài là như thế, Tớ không để yên con Mụ ấy yên đâu. Thôi Cậu cho tôi xin, lỡ có gì xảy ra thì rắc rối lắm.

    Sau khi vừa hoàn thành xong công tác tại Đồng nai. Cả Đơn vị được chuyển về Vũng Tàu, vừa ổn định xong Cảnh và Tuấn xin phép Thủ trưởng rồi rủ nhau dạo phố Vũng Tàu vì bấy lâu nay đóng quân ở Xuân Lộc- Đồng Nai- Biên Hòa mọi người đều nghe cái tên Vũng Tàu có bãi biển đẹp lắm mà chưa một lần đến. Kỳ nầy sẵn dịp về đây công tác hai chàng liền dạo thử một lần cho biết. Trước khi đi Thủ trưởng dặn phải có mặt tại Doanh trại trước tám giờ tối.

   Chiều hôm ấy vừa ăn cơm xong, hai chàng thay quần áo tề chỉnh và vọt ra bãi sau, vừa đi, vừa hứng gió, ngắm trời biển mênh mông hai chàng rất sung sướng dường như vừa sống lại những ngày tháng học trò.Vì hơn ba năm nay hai chàng chỉ sống nơi núi rừng hoang vắng. Trời càng lúc càng tối dần, cảnh hoàng hôn thật là thơ mộng, nước biển cũng càng lúc càng dâng cao, những cơn sóng mạnh vỗ vào bờ, những bọt biển dâng lên, rồi tan dần theo sóng nước, một màu xanh thẳm vô cùng tuyệt đẹp. Cảnh kể cho Tuấn nghe nhiều điều thú vị ngày xưa khi chàng còn đi học và Tuấn cũng thế. Bỗng dưng Tuấn nhìn quanh và bảo Cảnh sao hai bên đường có nhiều con gái mà không thấy con trai. Cảnh trả lời, chắc họ cũng đang hứng gió và ngắm hoàng hôn như ta vậy. Cậu để ý làm gì. Thôi ta đi một vòng nữa nhé rồi về, kẻo Thủ trưởng la rấy ngày khác ông không cho bọn mình đi nữa thì chết mất. Ờ thôi mình đi.

   Bên kia đường có tiếng lanh lảnh nầy các anh có đi Xài không? Có đi thì ghé vào nào. Hai chàng ngơ ngát. Cái gì ? Họ bảo mình có đi Xài không thì vào,Cậu nghe rõ chứ ? Các cô cứ bảo tiếp. Hai chàng không hiểu gì cả nên đi tiếp và không thèm để ý đến nữa, xem như những cô con gái trêu ghẹo mình đấy. Hai chàng vẫn vô tình thanh thản đi tiếp kể chuyện nầy, chuyện nọ. Cảnh nhặt viên Sỏi tạt lên mặt biển, viên sỏi lướt qua những cơn sóng. Cảnh bảo thấy không Tuấn đẹp tuyệt vời ? Tuấn bảo mầy xem tao tạt trên cát còn hay hơn mầy nữa kìà.Viên sỏi bay cái vèo tí nữa là trúng cô con gái. Tuấn giật mình, ý chết. Chàng xin lỗi, cô ta không giận, mà còn cười vui vẻ, rồi nói. Nào các anh có đi Xài không ? Nữa lại đi Xài nữa. Xài là cái gì?

Tuấn nhanh miệng hỏi. Cô nầy ? Đi Xài là cái gì mà tôi nghe nhiều cô bảo thế.

Cô ta trả lời

 Nầy ai có thích đi Xài

 Ghé qua em sẽ giãi bày mà nghe

 Bao giờ chàng thỏa thì về

 Trọn canh em chẳng cầu nề chi đâu.

     Hai Chàng chẳng hiểu cô ta nói thứ gì, cứ nghĩ mang máng trong đầu Họ trêu ghẹo mình qua đường. Tuấn bảo, bọn tôi chẳng đi đâu hết, cám ơn cô. Cô ta nổi cáo mắng lên cho một trận, đồ thanh niên gì keo kiệt và nhát như thỏ đế. Hai chàng hồn vía lên mây, bỏ đi một nước chẳng dám nhìn lại phía sau.

  Về gần đến Doanh trại Cảnh và Tuấn ghé sang hàng nước, mua gói thuốc lá.

 -Tuấn hỏi ông Chủ quán ? Thưa Bác, Bác cho cháu hỏi, đi Xài là cái gì vậy Bác?    

*Ông Chủ quán cười, rồi trả lời. Mấy chú bị rồi, và có đi không ?

 -Dạ thưa không. Chúng cháu biết gì mà đi.

 *Ông Chủ quán nói tiếp. Thế thì tốt, đi Xài là danh từ riêng ở đây người ta   thường hay gọi. Tên của mấy chị em đấy mấy chú à.

- À ra là như thế. Cám ơn Bác chúng cháu đi.

*Chào mấy chú.

   Bước vào Doanh trại hai thằng cười khúc khích, sao mình ngu thế. Tớ mà biết trước Tớ trị cho con Mụ ấy một trận, chớ không để Mụ mắng mình một cách dễ dàng đâu. Đồng chí Thủ trưởng đứng trước trại hỏi ? Sao đi chơi có vui không. Dạ thưa vui lắm Thủ thưởng. Có đi được nơi nào chưa ?.Dạ xém đi Xài Thủ trưởng ạ.

 

Thủy Điền

 

 

135- Mụ Phù Thủy

 

       Trước ngày lên đường sang Mỹ định cư, bà Hoàng có mở một buổi tiệc nhỏ gọi là tạm biệt. Bà con đến dự chia vui, bà nầy xì xầm với bà kia, con mẹ Hoàng nầy tài thật, ông nầy to nhỏ với ông kia mụ như là Phù thủy.

     Lúc thiếu thời má con Nga nhờ trời cho nhan sắc hơn người, nên quớ được một ông Đại úy thời Việt nam cộng hòa ở Cần thơ. Hai người chung sống với nhau một thời gian như vợ chồng. Nhưng về sau má con Nga nghe tin ông Đại úy có vợ, có con tận mút Tây ninh. Kể từ đó cuộc sống bắt đầu lộn xộn, sứt mẻ về tình cảm rồi hai người đi đến chia tay. Má con Nga quây về quê và sống bình thường như bao người khác.

    Năm 1975 Miền nam hoàn toàn giải phóng, khoảng ba tháng sau có một số Bộ đội từ xa chuyển đến và đóng quân trong xóm gần một năm trời.Từ đó Má con Nga coi như bước thêm bước nữa với một ông Sĩ quan Bộ đội và lần lượt sanh ra Nga và hai em của nó.

    Mười năm sau thì Bố con Nga bắt đầu trở bệnh, với cơn bệnh ác tính của những năm trong rừng rú quá nặng, không thể cứu chữa được, hơn nữa ngày ấy y học chưa tiến bộ và kém cỏi thuốc men. Bố nó biết trước sau gì cũng chết nên bảo mẹ nó cố gắng làm sao đưa ông ta về Bắc một lần và có chết nơi quê nhà ông cũng toại nguyện. Má con Nga chìu chồng và tìm mọi cách đưa ông ta trở về quê cũ. Mặc dù hoàn cảnh gia đình bà lúc ấy kinh tế rất khó khăn. Đúng như nguyện vọng khi ra Bắc được ba tháng sau thì ngoài ấy đánh Điện tín báo rằng Bố con Nga mất. Nghe tin chồng mất bà muốn đi cùng các con nhìn Bố lần cuối, nhưng không đủ tiền nên bà phải đành đi một mình.

    Khi chôn cất chồng xong, bà quây trở lại trong niềm xót xa, thương tiếc và đau đớn hơn khi các con không nhìn được mặt Bố một lần sau cuối.

    Kể từ ngày ông mất, bà hàng ngày chỉ gánh Xôi, thúng Bắp nuôi các con đi học, nhưng gì nghèo quá không đủ mua quần áo, sách vở nên chị em nó chỉ học đến lớp năm, lớp sáu. Chuyện đời cứ ngỡ rằng yên ổn ngày ngày hai buổi đạm bạc nuôi con khôn lớn rồi bà cũng già đi như bao phụ nữ khác.

   Ai ngờ! „ Đùng một cái „Ông Đại úy ngày xưa bây giờ là Trung tá vừa học cải tạo ngoài Bắc xong được trả tự do lù lù trở lại, ông muốn nối lại tình xưa với bà, bà nhất quyết không đồng ý,vì ông ta đã có vợ con rồi.Ông Trung tá không chịu về Tây ninh mà cứ ở miết với bà. Ngày nầy, qua ngày nọ, ông chinh phục được bà và hai người ăn ở với nhau như những ngày trước.Và, bà biết được ông đã không còn ở chung với vợ cũ nữa. Những năm tháng đi cải tạo ở Miền Bắc ông vẫn cô đơn một mình.

    Sau mười năm cải tạo ông được chính phủ Mỹ cho sang Mỹ với diện HO. Nhưng ông cứ chần chừ không chịu đi và muốn bà cùng theo sang bên ấy chung sống. Nếu bà một mình thì rất dễ dàng, đàng nầy bà đã có ba đứa con, mà ba đứa là con của một Sĩ quan Cách mạng thử hỏi làm sao ai cho đi chung được. Một sự việc hoàn toàn khó khăn và rắc rối, nhiều lúc bà nói! Thôi ông đi một mình đi còn mẹ con tôi ở lại, ông đừng bận tâm. Nhưng ông nhất quyết là muốn đi cùng bà.

    Ông Trung tá sau khi cải tạo về với hai bàn tay trắng, bà Hoàng thì nghèo sơ, nghèo sát cơm chẳng đủ no lấy đâu mà nhờ vả người nầy, người khác.

    Không biết sao, hai người làm cách nào mà chuyển từ con Sĩ quan Bộ đội trở thành con Sĩ quan QLVNCH một cách dễ dàng và được tòa Đại sứ Mỹ công nhận và cấp Visa cho sang Mỹ.

   Bởi thế ngày liên hoan tạm biệt bà con trong xóm cứ bảo nhau con mẹ Hoàng nầy là mụ Phù thủy không hơn, không kém.

  

Thủy Điền

 

 

134-Tai Họa

 

       Trời tháng tư, oi bức. Không sao thở nổi, ngồi chẳng yên, mà đứng cũng chẳng yên. May, mà có cơn gió nhẹ thổi qua nên chợp mắt được một lúc. Dăng dẳng gần bên, tiếng qua, tiếng lại vang dội giữa hai căn nhà. Giật mình ngồi dậy, xem quanh đang xảy ra chuyện gì. Thì ra, hai bà cháu nhà bên đang cãi nhau.

    Kể từ ngày mẹ nó bỏ đi. Nó sống với Ba và ông bà Nội gần ba năm nay.Vì nó là cháu Đích tôn nên cái gì cả nhà cũng đều thương yêu và chìu chuộng, nhất là ông bà Nội. Ba nó thì thỉnh thoảng rầy la, vì thương nó những lúc cô đơn không có mẹ.

   Mẹ nó bỏ nhà ra đi không biết gì lý gì, khi nó vừa tròn tám tuổi. Ngoài việc đi học hàng ngày, về nhà chỉ biết quanh quẩn bên ông bà Nội và những người hàng xóm thân quen. Xung quanh nó từ lớn, đến bé ngày nào người ta cũng thường hay nói đến chuyện tiền bằng danh từ bạc triệu, bạc tỷ ví dụ: Như trúng Độc đắc một tỷ rưởi, chiếc Hon-da nầy hai chục triệu, chiếc Di động kia một triệu tám v.v…..nghe là nghe vậy, nó có biết gì về bạc triệu, bạc Tỷ đâu. Bởi, nó mới vừa tám tuổi đời.

   Hàng ngày đi học, về nhà nó thấy ai cũng cầm trên tay chiếc Di động ngồi bấm bấm, quẹt quẹt, tín ton. Nhất là Ba của nó khi rảnh rỗi là cầm Di động bấm tới, quẹt lui. Những lúc Ba nó bấm, nó thường hay kề cận muốn xin bấm một lần cho thỏa thích, Ba nó quát, thậm chí còn mắng cho một trận. Rằng, mầy là con nít mà biết cái gì xía xía vào, nó bật khóc, rồi ngoe ngoãy đi nơi khác và nhiều lần tương tự như thế.

   Cả tuần nay, nó canh Ba nó đi làm hoặc đi đâu là nó xề bên bà Nội, ngồi khoanh tay, gương mặt như đưa đám, chẳng nói một lời. Bà Nội tưởng nó nhõng nhẽo, nên dỗ ngọt. Con ăn thứ gì bà mua cho hay ai ghẹo con bà Nội sẽ đánh đòn người đó. Nó lặng thinh chẳng thèm trả lời, trả vốn vì cả. Ngày nào đi học về, sau buổi cơm nó đều làm như thế. Dỗ dành mãi không được, bà Nội bảo ba nó xem nó có chuyện gì không, mà ngày nào cũng đều như thế. Ba nó bảo! Nó nhõng nhẽo linh tinh vậy mà.

   Một hôm chờ lâu quá không thấy ai chìu chuộng mình nữa, nó bật miệng nói đại với bà Nội, rằng nó muốn mua một chiếc Di động. Bà Nội mới tá hỏa và cười ngất, con còn nhỏ lắm Tân, mua cái đó làm gì. Vả lại mắc lắm bà không có tiền. Bà nhỏ giọt năn nỉ, thôi ráng học đi Tân, mai mốt lớn lên bà Nội mua cho liền, bà hứa với Tân đó. Nó nhất định khăng khăng không chịu, nó bảo chỉ có một triệu tám, chớ đâu có nhiều tiền mà bà Nội cũng không dám mua. Nó hăm dọa bà đủ thứ, tối nay không đi ngủ sớm, ngày mai không đi học, chiều nay không ăn cơm. Bà Nội giải thích, khuyên răn đủ điều, mắc lắm con, một triệu tám chớ ít ỏi gì, hơn nữa con đâu biết sử dụng, cả bà cũng thế. Khó xài lắm, mua làm gì cho phí, mai mốt lớn bà mua cho con ngay. Đừng làm bà giận lên bà đánh đòn bây giờ. Nó chỉ một lời, có một triệu tám, đâu có bao nhiêu đâu mà Nội không mua cho con.

   Ba Nó về, bà Nội nó kể lại đầu đuôi câu chuyện. Ba nó nổi nóng, quát cho một trận. Nó khóc, nhưng miệng chỉ nói có một triệu tám, tại sao không mua mà còn mắng nhiếc.

   Quả thật. Lời hăm dọa hôm ấy nó làm thiệt, chiều không thèm ăn cơm, tối không đi ngủ sớm, sáng chẳng bước tới trường học. Ba nó giận quá, đánh mấy trận cho nó sợ, nhưng cũng chẳng ăn thua. Ông bà Nội và Ba nó hè nhau bỏ lơ, không thèm để ý đến nó nữa, thử xem sao. Cả một tuần rồi nó không đi học, Cô giáo gởi giấy về nhà hỏi tại sao? Ba nó đành nói dối Cô giáo, rằng nó bị bệnh và chạy ra tiệm bán Điện thoại mua cho nó một chiếc Di động cũ ba trăm ngàn đồng về dụ nó đi học lại. Nó mừng ra mặt và ngày mai đi học lại bình thường mà không cần ai đưa đón.

    Ông Nội  Nó nằm tòn ten trên chiếc võng, miệng lầm bầm, ba thằng Tân, bây coi xem sao, chớ Ba thấy Tai họa đã đến  nhà mình rồi đó con à.

 

Thủy Điền 

 

 

133-Ngỡ Bà Bán Vé Số

 

     Bình thường lúc ở nhà, sáng vừa thức dậy mẹ con Lan hay hỏi ? Ba con Lan hôm nay uống Trà hay Cà-phê, nếu Trà thì bà tự pha lấy còn Cà-phê thì sang quán cô Cúc gần bên gọi người ta sẽ mang qua. Sao lần nầy về chẳng nghe bà hỏi và gương mặt lại khác hẳn như cái bánh Bao chiều, trông rất là khó chịu.

    Lâu nay gia đình Sang sống bằng cái nghề bán quán nhậu, hồi đầu ít quán thiên hạ bu lại hai vợ chồng ăn nên, làm ra kinh tế gia đình thấy khấm khá ra nhiều. Nhưng kể từ ba năm nay quán xá càng lúc càng mọc lên như Nấm nên quán nhậu bảy Sang dần dần ế ẩm, cộng một số khách ăn chịu lâu ngày nên túi vốn cũng lưng dần. Nhà thì năm miệng ăn, ba đứa con bắt đầu nhổ giò, đứa đi học Sài gòn, đứa đi học Mỹ tho, lúc áo quần, lúc sách vở cũng đủ làm cho anh ta nhức đầu, nhức óc. Cả nửa năm nay cứ lèn xèn bên vợ, chẳng làm ra đồng nào Sang thấy đàn ông như mình thế nầy thật là xấu hổ. Sang nghĩ đến người bạn đang làm Bảo vệ cho một nhà hàng lớn ở Thành phố và định nhờ anh ta tìm cho một việc làm. Cái gì cũng được, miễn hái ra tiền về phụ giúp vợ con là được rồi, cực nhọc đến đâu cũng chẳng sao.

    Chờ đúng cuối tuần thằng bạn về đến, Sang mon men sang, trước thăm và nhờ vả. Hỏi ra thì thằng bạn thân bảo, nếu muốn thì ngày mai Chúa nhật sẽ theo anh ta lên Thành phố, anh ta giới thiệu thì sẽ có việc ngay. Sang mừng quá về bảo với vợ ngày mai tôi lên Thành phố cùng thằng Liêm bạn tôi, nó sẽ giúp, giới thiệu tôi một công việc nào đó, mình coi sắp xếp cho tôi ít bộ đồ mai tôi đi cho kịp lúc. Ngọc cũng vui, khi nghe chồng mình sắp sửa có việc làm. Nàng sắp xếp cho chồng một túi xách nhỏ và đồ dùng cá nhân.

   Trưa hôm sau hai anh em đèo nhau trên chiếc Hon-da đi Thành phố. Đến chiều năm giờ Liêm đưa Sang vào gặp ông chủ, nói ba điều, bốn chuyện ông chủ nhận ngay và phân công cho Sang làm việc liền chiều hôm đó, với công việc lái xe sắp xếp chỗ cho khách đậu, vì Sang có Bằng lái xe hơi nên cũng thuận lợi. Giá lương là ba triệu rưởi một tháng. Sau giờ làm việc Sang phải sang Quận ba để ngủ tạm nhà cô con gái lớn đang học Đại học tại Thành phố gần năm nay.

   Cứ đúng hai tuần là Sang được nghỉ hai ngày và quây về nhà thăm vợ con. Trình tự như thế Sang đã làm được hơn sáu tháng trời. Một hôm, sau những ngày làm việc mệt nhọc trở về chàng nằm như bất tỉnh, ngủ mê say, ngủ để bù đấp lại những lúc thức khuya, dậy sớm. Cả hai tuần chờ đợi chồng về Ngọc mừng và không ngủ được, muốn thức trắng đêm tâm sự cùng chồng chuyện nầy, chuyện nọ, nhưng chàng cứ mãi ngáy kho kho. Nàng bực bội không chịu nổi, giả đò ho hen, kọ kẹ sáng đêm thử xem chàng có nhớ đến mình hay không, nhưng chàng vẫn vô tình không hay, không biết.

    Sáng thức dậy, Sang thấy vợ không vui nên hỏi ? Ở nhà có chuyện gì thì  mình cứ nói, lâu lâu tôi về lẽ ra mình phải vui vẻ, còn đàng nầy…….Ngọc xây ngang quát cho Sang một trận. Đêm qua mình có biết tôi ho hen cở nào không ? Tôi gọi mình dậy, là muốn mình giúp tôi thoa lưng, bốp cổ. Ai ngờ, mình phế mặc để tôi ho suốt cả đêm trường. Bây giờ còn bảo thế nầy, thế nọ. À ra là như thế, mình cho tôi xin lỗi, lần sau sẽ để ý hơn. Mình thông cảm cho tôi vì những lúc làm việc ở Thành phố ngày nào cũng có cả chục bà kèo nèo, mời tôi mua Vé số, có lúc ngủ trưa một chút cũng lôi dậy bảo mua. Những cảnh tượng ấy cứ làm tôi mê man, ám ảnh trong giấc ngủ. Thế là đêm qua mình gọi tôi mà tôi cứ ngỡ con mụ nào đó cầu kè, kéo níu bán bằng được Vé số. Không ngờ là mình! Mình cho tôi xin lỗi nhé, đừng giận tôi nha mình, tôi không vô tâm đến thế đâu.

   Ngọc nghe chồng kể, nàng không còn giận dỗi nữa và vội đi pha  ấm Trà ngay.

 

Thủy Điền

 

 

 

132-Thật Khủng Khiếp

 

   Đang Làm việc ngon lành. Đùng một cái ông đưa thư mang đến một Điện tín khẩn. Dũng vội mở ra và đọc “Cha bệnh nặng, con về gấp“ một cú sốc vào đầu, Dũng bàng hoàng, choáng váng.

   Vì công việc quá bề bộn và với tư cách là một Kỹ sư Thủy sản Dũng không thể về ngay trong lúc nầy, anh cần phải thu xếp công việc và gia đình thời gian độ vài hôm rồi mới đi được.

   Về nhà Dũng báo cho vợ và các con hay để chuẩn bị ngày mai đón xe về quê cho kịp lúc. Đúng sáu giờ sáng chuyến xe khởi hành từ Tiền giang về đến Cà mau phải mất một ngày đường.

   Vừa bước vào nhà mọi người ùa lên khóc, rằng thằng Dũng đã về. Dũng về vừa lúc cha của Dũng cũng vừa nhắm mắt lìa đời. Họ hàng, láng giềng còn đang đứng quanh chật ngôi nhà, người khóc, người u buồn tiếc thương người quá cố. Dũng cũng bật khóc kể lể đôi điều, cảnh tượng bây giờ biến thành một màu tang trắng.

   Sau khi chôn cất cha xong. Mẹ Dũng kể lể đủ điều trong niềm thương tiếc và vì Dũng là con trai độc nhất trong gia đình, bà muốn Dũng cùng vợ con thâu xếp trở về quê để trong coi tiếp gia sản mà cha Dũng để lại. Dũng ngồi bên mẹ trầm ngâm chẳng nói lời nào, chỉ an ủi bà trong niềm xót đau, mất mác.

   Ở lại quê nhà trọn một tuần. Dũng quây lại Tiền giang với công việc bình thường, nhưng tâm trí lúc nào cũng suy nghĩ về người mẹ nơi quê nhà và cả một sự sản không người chăm sóc. Đứng giữa hai con đường cần phải lựa chọn, sự quyết định thật khó khăn vô cùng. Cả một tháng trời nghĩ suy, suy nghĩ ăn không ngon, mà ngủ cũng chẳng yên. Cuối cùng Dũng viết tờ đơn xin nghỉ việc và nạp lên Ty. Bước đầu Ban lãnh đạo Ty không đồng ý, nhưng Dũng cứ phân trần hoàn cảnh nên mọi người chấp nhận nguyện vọng của Dũng sau đó và hứa Dũng có thể trở lại Cơ quan dù bất cứ lúc nào vì Dũng là một Kỹ sư có trình độ và khả năng.

   Đầu mùa Hè năm ấy chờ các con nghỉ học, Dũng và gia đình trở về quê cũ. Sự ra đi tuy đã suy nghĩ và quyết định chính chắn, nhưng Dũng vẫn luyến tiếc Ty Thủy sản. Vì nơi đó Dũng đã phục vụ gần năm năm trời, nơi đó đối với Dũng thật nhiều kỷ niệm đáng nhớ.

   Trở lại quê hương sau hơn mười năm trời xa cách, xung quanh Dũng bây giờ tất cả đều mới mẻ, xa lạ vô cùng. Xã hội tiến triển vượt bực mỗi ngày, mỗi khác. Ngạc nhiên đến chống mặt. Vì là một người xa quê mới về hơn nữa Dũng là một người có học nên xóm giềng rất quí mến và gần gũi. Mọi chuyện lớn, chuyện nhỏ trong làng Họ cũng đều nhờ vào Dũng cả. Dũng giờ như một đấng tin cho họ. Mỗi lần họ nhờ vả hay giúp cái gì, họ đều mang những bình rượu quí ra mời khách. Dũng hồi đầu uống kém, nhưng ngày qua ngày vì nể  bụng bà con, ai đến đâu, thì Dũng đến đó. Có khi xong công việc trở về nhà Dũng dường như không còn biết gì cả. Thời gian chỉ trên dưới năm năm sống tại quê nhà với sự tiếp xúc xóm giềng như thế mà Dũng trở thành anh nghiện rượu. Sáng mở mắt ra không có rượu là Dũng không chịu nổi và cũng chẳng làm được việc gì. Trước khi bắt đầu vào công việc Dũng phải có rượu trước đã thì hãy làm sau. Con sâu rượu bám vào người Dũng nhanh quá, nhanh đến nỗi người ta không tưởng tượng được, gia đình Dũng cả mẹ, vợ lẫn các con chống đối kịch liệt, nhưng rồi cũng phải buông tay. Có lẽ Dũng vì da chạm hàng ngày và nhiều người cho nên mới ra nông nỗi.

   Thời gian về quê thắm thoát gần tám năm trời, mẹ già đã qua đời, các con đã lớn, lập gia đình. Và Dũng trở thành anh nghiện rượu thật sự, bất lực vợ Dũng mới ngày nào còn son trẻ vì thương chồng trở về quê nay đã thành cụ già trước tuổi. Dũng nghiện đến nỗi bạn bè ngày trước phải xa lánh, thật khủng khiếp. Mỗi khi Dũng nhấc phôn lên rủ rê, họ đều từ chối, qua nhiều lần anh u sầu ngồi một mình trong phòng vắng và chữi thầm! Cuộc đời sao khốn nạn thật.

   Giờ không còn ai đến với Dũng nữa, tất cả đều ngoãnh mặt, quây lưng. Trong những lúc cô đơn Dũng đành ngồi một mình trước khung gương cầm chai rượu rồi mượn mình làm bạn và uống một mình hết ngày nầy, sang ngày khác.

Thủy Điền

  

 

 

 131-Đổi Ngược

 

   Những tiếng lộp độp trên mái nhà, những dòng nước chảy từ máng xối ào ạt vào hồ, trận mưa rào vào buổi chiều tháng bảy. Quang và Linh đang ngồi ăn bữa cơm chiều, vừa ăn, vừa nhìn ra ngoài ngõ. Linh cứ than thở .Tất cả đều là tại mình cả.

   Sau vài năm. Đất nước hòa bình Quang đưa vợ con từ Sài gòn về quê nhà sinh sống, chàng ngỡ rằng về quê bám lấy thửa ruộng, miếng vườn của cha mẹ để lại cuộc sống sẽ an nhàn và khấm khá hơn so với những năm làm công nơi thị thành xa lạ. Ai ngờ! Về quê gần hai năm nay, cuộc sống càng ngày càng bị lụn bại và cơ cực hơn nhiều. Nhiều lúc Quang muốn quây lại Sài gòn, nhưng quá trễ. Sài gòn bây giờ không dễ như xưa, muốn ra khỏi thì dễ, muốn vào thì khó lắm. Hơn nữa tiền túi của Quang đã cạn sạch cả rồi.

    Ngoài đường thiên hạ khe khẽ nhau chuyện người bị bắt, chuyện người đi lọt, chuyện người vượt biên, tiếng to, tiếng nhỏ dần hồi trở thành quen thuộc. Quang nhiều đêm suy nghĩ về cuộc sống hiện tại, chàng moi trong trí và tìm cách vượt biên, có như thế mới hầu thoát khỏi cảnh u tối nầy.

   Nhân dịp cùng vài ba người thân lên Tỉnh dự đám cưới đứa cháu gái, Quang gặp một người chị họ. Họ cũng có ý định như Quang. Lời qua, tiếng lại hai người đã thuận ý, người có của, kẻ giúp công. Quang về bàn với Linh và hai vợ chồng nhất trí.

    Vài hôm sau, chàng trở lại Tỉnh và tiến hành công việc. Một đêm u tối chiếc tàu của Quang và những người đồng hành đã âm thầm vượt ra biển khơi, hai ngày, hai đêm là Quang đã đến Indonesia một cách an toàn như giấc mộng. Chàng thở phào và cảm ơn trời đất, vì chàng vừa thoát khỏi cảnh nghèo nàn, vất vả.

    Ở Đảo gần một năm, gia đình Quang được chính phủ Đức đón nhận trên tinh thần nhân đạo. Một ngày cuối tháng mười một 1981 gia đình Quang đã có mặt tại Frankfurt - Đức rồi lần lượt đưa từ các trại tỵ nạn nầy, đến trại tỵ nạn khác và cuối cùng gia đình Quang được định cư chính thức tại một thành phố lớn của Tiểu bang Niedersachsen. Sau chín tháng học tiếng Đức Quang xin vào một Xí nghiệp chế biến Thực phẩm và làm việc cho đến hôm nay.Vợ Quang ngoài việc chăm sóc gia đình, nàng cũng làm thêm vài công việc phụ, để phụ đấp thêm phần kinh tế gia đình.

   Sau mười năm làm việc, hai người đã dành dụm được số tiền Quang và Linh có ý định trở về Việt nam thăm gia đình một chuyến, vì hiện tại các con đã lớn cả. Chúng có thể tự lo cho mình trong vòng một tháng mà không cần đến mẹ cha.

     Mùa Hè năm 1991 hai người trở lại Việt nam.Về đến ngõ quê Quang nửa vui, nửa buồn.Vui vì được gặp lại tất cả người thân, buồn vì quê mình còn nghèo quá, nghèo đến nỗi các cháu muốn đến trường mà cha mẹ không có tiền mua sách vở và quần áo mặc. Kinh tế gia đình thì thiếu thốn mọi bề, cửa nhà thì rụi dần theo thời gian không cách nào sửa chữa được.

   Một tháng về thăm quê trong chớp mắt. Quang trở lại Đức, chàng suy nghĩ đến những đứa cháu đang lớn, không tương lai. Những suy nghĩ cứ dằn vặt trong tâm trí hết ngày nầy, sang ngày khác.Cuối cùng chàng quyết định bỏ một ít tiền nhờ người về cưới hộ đứa cháu gái của mình vừa tròn hai mươi tuổi. Trước tiên là giúp đỡ gia đình được rảnh tay và tương lai của cháu mai sau. May ra, đời cháu sau nầy sẽ được xán lạn hơn. Chàng vừa đi làm, vừa hỏi quanh bạn bè đây đó cuối cùng cũng có người ưng thuận. Chàng mừng quá, về bàn với vợ và Linh cũng thuận lòng.

   Gần một năm rưởi vừa làm giấy tờ, vừa chờ đợi. Đứa cháu gái của Quang đã được đến Đức với diện đoàn tụ vợ chồng.Tiền bạc sòng phẳng như đã giao kèo. Đúng ba năm sau. Đứa cháu của Quang ly dị chồng và về sống chung với gia đình Quang. Quang xem cháu từ lúc qua Đức cho đến nay như con ruột trong gia đình, hai bên chưa một lời to tiếng. Cuộc sống gia đình Quang vẫn bình thường như xưa nay, chỉ có điều là tăng thêm hộ khẩu. Còn cháu gái bây giờ đã xin vào được một hãng làm bánh kẹo, lương bổng không cao lắm, nhưng một mình cháu sống rất dễ chịu và hàng tháng còn gởi ít tiền và quà cáp về gia đình giúp cha mẹ, anh em. Thấy cháu làm được chuyện Quang mừng ra mặt vì chàng đã cứu sinh được những con người khốn khổ.

   Kể từ năm 2000 trở về sau, gia đình Quang và cháu gái thường hay trở về Việt nam thăm quê. Càng về nhiều lần nhìn thấy cảnh xã hội càng ngày càng phát triển cộng với năm tháng sống nơi phương trời Âu lạnh lẽo, tâm trí Quang dần dà hướng về cố quốc. Mỗi lần về, rồi lại ra Quang thường hay bàn bạc với Linh, các con lớn cả, có gia đình hết rồi thôi mình dành dụm ít tiền, thu góp hành trang trở về Việt nam sống trong những ngày còn lại. Thoạt đầu Linh không đồng ý, chống cự quyết liệt. Nhưng chàng cứ thỏ thẻ hết ngày nầy, sang ngày khác và cuối cùng Linh đành phải xuôi lòng.

   Năm 2007 chàng trở lại Việt nam và quyết định mua miếng đất đối diện nhà cô em gái và dự định ít năm nữa sẽ về và cất một căn nhà ở luôn. Vì hiện tại Quang đã sáu mươi mốt tuổi chỉ còn hai năm nữa là chính phủ Đức sẽ cho Quang về hưu theo luật định hiện hành.

   Đúng sáu mươi ba tuổi, Quang cầm trong tay tờ giấy báo hưu trí, Quang mừng quá và bảo vợ chuẩn bị lên đường, tất cả những gì còn lại bên Đức Quang bàn giao hết cho đứa cháu gái của mình. Về Việt nam Quang cất một ngôi nhà thật lớn, tiện nghi đầy đủ như ở phương Tây không thiếu món gì, ngày ngày chỉ

biết ngủ, ăn và đi dạo mát. Hai vợ chồng bây giờ sống như một ông vua nho nhỏ trong làng.

   Ngỡ rằng mọi việc đã yên, về Việt nam sống gần cô em gái trong những lúc tuổi già. Ai ngờ! Hai tháng sau đứa cháu gái đã lãnh mẹ của nó sang Đức theo diện đoàn tụ gia đình ( mẹ con), mà trước đó nó chẳng thèm nói một lời nào với Quang và Linh. Vì hiện tại đứa cháu gái đã đủ đìều kiện nuôi mẹ như: Nhà ở và có công việc làm vững chắc.

   Trước khi lên đường định cư tại Đức cô em gái Quang có ghé sang từ giã và nhờ anh chị trông hộ ngôi nhà giùm em, thỉnh thoảng em về quê thăm anh chị ,chúc anh chị ở lại vui vẻ. Linh vừa nghe nói xong nàng ngã ra xỉu và chẳng nói được lời nào.Quang vừa nâng vợ ngồi dậy và ôm đầu Tất cả đều tại Tôi……!

 

Thủy Điền

 

                                                    

  130-Đứa Con Út

 

      Cả ba tuần nay, tối nào thằng Nhân cũng lục đục, cọt kẹt không ngủ được. Bởi chiếc chiếu lót ván bị thủng nhiều lỗ và chiếc mền quá mỏng. Bà Tám má nó nằm gần bên không chịu nổi, cứ rầy rà liên tục. Nhưng nó vẫn ngậm thinh và chờ khi mỏi mệt rồi ngủ tiếp.

       Kể từ sau ngày giải phóng, nhà bà Tám rất chật vật, không còn buôn bán ngoài chợ như trước nữa, vì nhà nước đã thu hồi chỗ bán của bà và phân thành những lô hàng khác. Mặc dù bà có đăng ký xin lô mới, nhưng người ta bảo đã đủ hết rồi, thế thì bà đành thất nghiệp. Ông Tám sau khi rã ngũ, trở về nhà thì cũng chẳng có nghề nghiệp gì cứ lây quây bên miếng vườn nhỏ, bốn anh em thằng Nhân đứa lên ba, lên bốn còn lẩn quẩn bên chân bà, công việc thì không có, miệng ăn càng ngày càng lớn ra, trông ông bà thật là cơ cực.

      Cũng may, năm 1989 bà có đứa cháu đi xuất ngoại, nghe bà quá khổ nên gởi ít tiền về giúp bà, bà mừng vô hạn. Cơn gió lòng đã đến, bà bàn với ông Tám là phải làm cái gì để sống chứ ngồi không ăn miết rồi cũng hết. Bà nghĩ đến buôn bán, mà bán cái gì ? Chỗ thì không còn, hơn nữa thời buổi khó khăn làm cái gì nhà nước cũng cấm và dòm ngó. Ông bà tính nát đầu, nát óc mới nghĩ ra là nhà mình có cái sân rộng, che tạm cái mái và sắm một bàn Bi da cho thiên hạ chơi, rồi thâu tiền giờ. Lối kinh doanh nhỏ trong xóm chắc không ai để ý nhiều, tuy không thâu lợi bao nhiêu, nhưng ngày nào cũng có đồng ra, đồng vào gia đình mình đỡ vất vả hơn. Cuối cùng ông bà quyết định lên tỉnh mua bộ côm lét bàn Bi da trị giá là hai triệu sáu. Mua bàn Bi da xong bà còn lại một ít bỏ túi phòng khi giá lạnh.

     Thật đúng như ý nghĩ ban đầu, khi bàn Bi da vừa mang về, nhờ người đến lấp ráp cho hoàn chỉnh và chờ ngày tốt khai trương. Buổi khai trương bà cúng mâm hoa quả, vái cúng ông Địa, Thần Tài đủ thứ. Quả thật hôm sau, có vài ba cập thanh niên kéo đến, ngày thâu nhập đầu tiên bà kiếm gần ba chục ngàn, bà sung sướng vô cùng. Chẳng hơn những ngày khác không có một Xu, dữ lắm là năm ngàn bạc thâu được của cả thúng lá chuối sau nhà. Rồi càng lúc tiếng đồn đại càng lan rộng ra, thiên hạ càng lúc càng đến chơi nhiều. Bà Tám bây giờ bắt đầu khấm khá hơn.

      Ông bà ở với nhau mười mấy năm nay có bốn mặt con, đứa nào bà cũng cưng và thương yêu cả và bây giờ bà coi bàn Bi da là đứa con thứ năm, đứa con út nầy bà cưng và thương yêu gấp bội, bà ôm ấp, chải chuốt, giữ gìn nó còn hơn cả bản thân mình. Ở nhà có chiếc chiếu và chiếc mền mới  bà mang ra đấp cho nó trong những lúc đêm về và khi vắng khách. Còn bốn anh em thằng Nhân có gì nằm nấy, có gì đấp nấy cả ông và bà đều cũng thế, là gì bà mãi sợ cái bàn Bi da bị hư hỏng hay dơ bẩn thì khách sẽ không đến nữa, gia đình bà sẽ lâm vào cảnh bi đát như xưa.

         Ba tuần nay khi bà đem cái bàn Bi da về, riêng ông bà thì mừng ra mặt. Đồng ra, đồng vào bà trang trải được mọi thứ. Còn anh em thằng Nhân thì buồn mà không dám hở môi. Chúng nó đêm nào cũng cóng lạnh, vì chiếc mền mỏng rách và ngứa ngái thân mình bởi những cọng lát đâm chọt vào lưng.

 

 Thủy Điền

 129-Về Quê Nội

 

     Ngồi trước mũi chiếc Thuyền Tam bản (Đò dọc), vừa ngắm trời mây, sông nước. Bỗng dưng tôi thấy phía xa xa khoảng cách chừng trăm mét, lố nhố những đầu người như một đàn cá Lòng tong đốp động.

     Những năm sau nầy, Nội tôi già yếu cứ mỗi lần về thăm, ông thường bảo. Ông bà bây giờ già rồi không lên thăm các cháu được như ngày xưa nữa, các cháu tất cả đã lớn, nếu đứa nào có rảnh rang thì về thăm ông bà. Nhớ lời ông dặn mùa Hè năm 1978 sau khi học xong năm đầu tiên tại trường trung cấp Thủy lợi 3 Tiền Giang tôi được nghỉ hè một tháng và về thăm quê nhà một tuần. Đoạn đường từ Tân Hiệp - Lịch Hội Thượng mất gần trọn một ngày đường, tuy không xa, nhưng hồi ấy xe cộ khan hiếm và vất vả lắm.

    Vừa đến bến xe Lịch Hội Thượng độ hai giờ chiều, tôi vác cái giỏ đi qua mấy con phố để đến bến đò về Đại Ngãi, lúc ấy bến đò năm cạnh nhà lồng chợ Lịch Hội Thượng. Đi lang thang hỏi giang năm bảy người họ đều từ chối. Cũng may, lúc sau tôi hỏi thêm một Bác nữa, Bác ấy ưng lòng, nhưng phải chờ một chút vì vợ ông ta còn phải thâu tiền Khoai.Tôi mừng quá và nói. Dạ cháu đợi Bác. Mặc dầu nói goá giang, nhưng cũng phải trả tiền đò như đò chở khách.

     Những năm sau giải phóng đoạn đường Đại Ngãi - Lịch Hội Thượng cũng có xe Lam vài ba chuyến, nhưng họ chỉ chạy vào lúc sáng sớm rồi nghỉ, còn sau đó phải goá giang đò đi bán hàng về, ngoài ra không còn cách nào khác.

     Trên chuyến đò về Đại Ngãi ông Bác chở thêm bảy người cộng tôi nữa là tám. Chiếc đò trống vắng, nên tôi đi ra phía mũi ngồi cho thoáng, tiện nhìn cảnh vật hai bên sông.Vô tình tôi chợt thấy phía trước lố nhố đầu người đang bơi lội giữa sông, đò càng lúc càng tiến gần tôi thấy lộ lên mấy chục nàng phụ nữ trẻ trung, xinh đẹp. Họ đùa giỡn, trêu ghẹo những người trên đò mà không cần biết những người ấy là ai. Đặc biệt các cô nầy đều khỏa thân, họ xem ông Trời và xung quanh như hạt tiêu, hạt cát. Không e ngại, sợ sệt gì cả.

     Đò vừa qua một đỗi, tôi đi lần về phía sau ngồi gần bên cạnh Bác Tài và hỏi ?

-Bác à, trời nắng chang chang thế nầy, đàn bà đâu mà tắm đông thế, chẳng quần, chẳng áo gì cả vậy Bác ?

*Ông Bác đùa, tắm mà mặc đồ làm sao mà tắm.

-Tôi hơi quê, xin lỗi Bác, tại cháu nghĩ đàn bà tắm kiểu nầy họ phải kín đáo hơn, lỡ ai nhìn thấy thì chết.

*Thì cậu vừa nhìn thấy đó, họ có chết đâu. Riêng tôi thấy hàng ngày họ vẫn sống nhăn răng. Nói vui với cậu thôi, đây toàn là mấy Ả chuyên bán Số đề, Ma túy, Giang hồ không đấy cậu. Nơi nầy người ta gọi là Trại sáu Tổ ấm của mấy nàng.

-Ghê gớm thật vậy sao Bác.

*Cậu không tin về hỏi người nhà cậu xem tôi nói có đúng không ?

*Dạ Bác nói thì cháu tin ngay, hỏi vòng vo làm gì, tại thấy là lạ nên cháu hỏi thế. Vì Lịch Hội Thượng mấy năm trước cháu hay về có thấy vì đâu.

-Mỗi ngày, mỗi khác cậu ơi.

    Hai Bác cháu lời qua, tiếng lại. Chiếc đò đã đi được nửa đoạn đường. Bác Tài khiều khiều tôi nói tiếp.

*Cậu coi kìa, phía bên tay phải mình nè, có cái Trại mới cất rất kiên cố, cậu biết nhốt loại nào không ?

-Thưa không.

*Đại ca và Chư vị không đó, án từ chung thân đến tử hình. Đặc biệt nơi đây không được tắm tự do như ở Trại sáu.Trại nầy có tên là Trại năm người ta hay gọi Trại Âm phủ. Ở đây ai được đưa vào Trại Âm phủ là coi như khỏi về.

-Lịch Hội Thượng giờ ghê thật hả Bác.

*Đâu riêng vì Lịch Hội Thượng mình, ở đâu cũng vậy hết cậu ơi, ăn chơi quá làm liều.

    Đò vừa cập bến nhà máy xay lúa, tôi trả tiền, leo lên bờ và cám ơn rồi chào tạm biệt.

     Bước vào nhà, ông bà Nội thấy tôi mới về mừng quá, hỏi han đủ điều.Trời ngã chiều ông bà cháu ngồi quây quần bên mâm cơm. Tôi kể cho Nội tôi nghe câu chuyện vừa qua. Nội tôi bảo Hoà bình rồi không chịu lo làm ăn, cháu coi vài năm nữa nhà nước cất thêm năm, bảy Trại nữa cũng chưa đủ. Ở đây dạo nầy tối nghe Chó sủa là ông ngủ không yên.

 

Thủy Điền

 

 

128-Vĩnh Biệt Bernhard

 

   Mới hôm thứ tư, tôi đang làm việc thì bỗng thấy Bernhard đứng trước cửa nhà, tay kề chiếc xe lăn, tay vẫy chào tôi, trông ông ta còn khỏe lắm, thế mà hai ngày sau tôi nhận được thiệp báo tin. Rằng ông ta đã qua đời sau ngày hôm đó. Thật là một bất ngờ.

     Tôi đến Nông trại ông làm việc gần mười lăm năm nay và quen ông từ đó. Hồi ấy ông đã về hưu và giao lại tất cả Cơ sở cho con ông làm chủ, nhưng thỉnh thoảng tôi thấy ông cũng hay lái chiếc máy cày cũ kỹ ra đồng phụ giúp con ông như tưới phân, phát cỏ.

    Và từ lúc tôi làm việc dưới sự chỉ đạo của con ông cho đến hôm nay. Ngày ngày làm việc, tôi đều gặp ông cả. Ông vốn chất phác, hiền từ của một nông dân chân chất, hễ mỗi lần gặp mặt tôi là luôn thăm hỏi sức khỏe gia đình và con cái.Tôi cũng thế, nên ông rất quí mến tôi và ngược lại.

    Sau năm năm làm việc tôi nghe ông ngã bệnh. Hồi ấy ông khoảng bảy mươi tuổi, cứ nay Bác sĩ, mai Nhà thương nhìn ông sức khỏe sa sút rất nhiều từ một con người lực lưỡng, thế mà chỉ mấy chốc, ông chỉ còn bộ xương da bọc trông thê thảm vô cùng. Đứng nhìn ông mà nghĩ đến tuổi già.

    Trong những lần đau bệnh, tôi thường hay thăm hỏi vợ ông. Rằng sau ông mau sa sút đến thế. Bà bảo, ông bị cái dạ dầy hành hạ mấy năm qua, ăn không được nhiều, khi ăn xong thì không tiêu, cứ cắt, mổ nhiều lần mà cũng chẳng thấy giảm bớt phần nào. Bà là một người vợ chân thành, đức hậu lo cho ông từ li, từ tí cho đến khi ông nhắm mắt lìa đời.

    Qua bức thư báo tử, sau mấy ngày còn gặp gỡ, tôi thật bàng hoàng, xúc động khi hay tin ông đã ra đi một cách đột ngột và thứ ba nầy. Ngày chín, tháng sáu lúc mười hai giờ bốn mươi lăm là lúc tôi cùng mọi người đưa tiễn ông về nơi nước chúa. Nơi ấy tôi nguyện cầu cho linh hồn ông mau siêu thoát và luôn được thanh thản nơi suối vàng.

   Vĩnh biệt ông, vĩnh biệt Bernhard, vĩnh biệt một con người đáng kính

        Thật khó tin nổi trên cõi đời nầy, mới thấy hôm nay và ngày mai nghìn trùng xa cách.

  

 Thủy Điền

 127-Cũng Vì Quả Táo

 

     Cần vừa đi làm về, định ra sau nhà lấy cái Ca múc nước rửa mặt, bỗng nó nghe tiếng to, tiếng nhỏ trong nhà. Nó chạy vào muốn can ngăn, nhưng ai ngờ ba và má nó cãi nhau về chiếc Điện thoại di động.

nghe thiên hạ bàn tán nào Điện thoại di động, nào Hon-da, nào Ti-vi đủ thứ kiểu. Nhất là đề tài Điện thoại di động là món ông tư khoái nhất. Vừa uống Cà-phê vừa nhấc ghế qua, nhấc ghế lại xem ké mấy người quen sử dụng. Ngày nào cũng thế, dần dà chiếc Điện thoại di động đã ăn sâu vào đầu ông lúc nào mà không hay.

      Về nhà, nhiều lần ông định bàn bạc với bà mua một cái di động để tiện liên lạc với bạn bè, cũng như xem tin tức Thế giới như người ta, nhưng khó chinh phục được bà quá, vì bà không bao giờ chịu xìa ra một Xu nào cả, ông thừa hiểu điều nầy nên đành lặng câm chờ dịp khác.

      Mấy hôm, ông canh bà bán được hai con heo, gần năm triệu đồng. Ông chờ bà đi chợ, ở nhà mở tủ lấy một triệu rưởi đi ra cửa hàng mua cái di động.

     Đến cửa hàng, ông bắt buộc cô bán hàng bán cho ông một cái thật xịn, giá cả bao nhiêu thì bao, không thành vấn đề. Cô bán hàng chọn cho ông một cái hiệu quả Táo đa năng. Ông khoái chí, mặc dù chưa biết đa năng ra làm sao. Ông trả tiền và xách chiếc Điện thoại về nhà. Vừa đi, vừa bấm rất vui vẻ như chú bé lên mười trông thật là vui sướng.

     Ngồi trên bộ ghế giữa, vừa bấm, vừa hồ hởi phấn khởi thì bà đi chợ về.

*Nầy ông Mẫn! Ông làm cái trò gì thế ?

-Tôi đang theo giỏi tin tức Thế giới

*Ông mượn của ai vậy ?

-Tôi mua, của ai rảnh mà cho mượn, bà hỏi kỳ lạ thật.

*Tiền đâu ông mua ?

-Tiền của mình, không lẽ tiền người ta.

*Trời ơi, ông lấy tiền bán heo của tôi phải không ?

-Ừ! Có một triệu rưởi chớ bao nhiêu.

*Hết nói nổi ông rồi.

-Có gì đâu mà bà làm ầm lên vậy, tối nay tui với bà xem chung.

*Thôi đi, ông xem một mình ông đi, mà nầy ông đưa cho tôi coi cái gì trong đó mà tới một triệu rưởi ?

-Nè ! Bà coi đi, trị giá lắm đó bà, xịn lắm.

*Ông ơi.

-Cái gì, lẩy nhẩy hoài, bực mình quá.

*Trời ơi, ông bị người ta gạt rồi.

-Bà nói cái gì, tui mà bị gạt, còn lâu, tư Mẫn nầy gạt người ta được, chớ đừng hồng bị người ta gạt nhé.

*Bị gạt mà không hay, ông coi nè. Quả táo trong điện thoại bị ai ăn hết một phần rồi kìa, ông có thấy không ? ông ơi, là ông ơi.

-À! Bà nói đúng đó, thôi để tôi mang ra cửa hàng đổi lại và mắng cho cổ một trận.Tại sao dám gạt tôi? Tôi mua, tôi trả tiền đàng hoàng mà.

   Ông Tư tức quá, thay quần áo chạy ra cửa hàng quát cô bán hàng một trận. Thiên hạ bu lại đông nghẹt, ông càng làm dữ lên, ông đòi gọi Công an đến giải quyết, bao nhiêu người xáp lại hỏi chuyện gì? Ông bảo.

*Cô bán hàng nầy gạt tôi, tôi mua cái Điện thoại nguyên quả Táo mà cô ta bán cái điện thoại chỉ có ba phần tư quả Táo, thử hỏi có tức không. Đồ lường gạt. Bà con áp cười rần lên. Ông hỏi ?

*Mấy người thấy tôi bị gạt mà còn cười được sao ?

-Không phải, ông nhầm rồi ông Tư ơi, cái Điện thoại nầy tốt lắm, còn quả Táo chỉ là nhãn hiệu thôi.Về đi ông ơi, lớ quớ Công an bắt ông bây giờ về cái tội mắng bậy.

*Thiệt vậy hả bà con.

-Thiệt chứ.

*Thôi tui về.

     Về chưa vô đến nhà thì bà Tư đứng trước cửa.

*Ông có đổi được không ?

-Đổi đâu mà đổi, tôi quê quá bà ơi, mà tất cả mọi chuyện cũng đều tại bà hết.

*Làm sao tại tôi ?

-Nó đâu có hư hỏng gì đâu. Quả Táo là cái nhãn hiệu của Điện thoại bà ơi, tôi quê không còn chỗ trốn, thôi bà làm ơn, làm phước tránh xa giùm tôi đi, tôi mệt lắm rồi.

  * Ông nầy! Tôi xin lỗi ông nha, tôi tưởng.

-Tưởng tưởng, cái gì mà tưởng. Bà coi sắp xếp tiền bạc sẵn cho tôi mau, chớ tôi nay mai là tôi ẩm cái Ti-vi  20 in đó nhen, tôi hỏi rồi, ba triệu rưởi.

*Cái gì ? Ông nói cái gì, còn lâu tôi mới đưa tiền cho ông mua cái Ti-vi

    Thấy người ta năn nỉ, được nước rồi làm tới.

     

Thủy Điền

 

 

 

126-Dấu Ấn Cuộc Đời

 

   Cuối tháng 9 năm 1980. Sau khi ra trường, rồi được bổ nhiệm về phục vụ tại Đoàn Khảo sát-Thiết kế, Ty Thủy lợi tỉnh Sông bé và cũng là lúc tôi chuẩn bị lên đường đi xứ khác, một nơi mà ngay từ đầu tôi cũng chẳng biết nơi đâu. Nơi ấy bây giờ chính là đất Đức, phương trời Âu vời vợi nghìntrùng. Nơi đây tôi đã xa cha mẹ, anh em, bè bạn và xa cả một trời đầy kỷ niệm.

    Năm 1977 vừa tròn mười tám tuổi, một kỷ niệm tuyệt vời, khó quên đả đến trong tôi cùng một thời điểm mà không thể ngờ được. Tôi như một kẻ Ăn mày vừa trúng lô Độc đắc. Bởi vì tôi chỉ là một hạng người bình thường không hơn, không kém.

   Cuối mùa Hè năm ấy, tôi đã may mắn thi đỗ cùng một lúc vào hai trường

trung học chuyên nghiệp. Đó là trường trung học chuyên nghiệp Thủy lợi 3

Tiền giang và trường Sư phạm Long an. Nhận được giấy báo đậu cách nhau vài ba ngày. Hồi ấy mừng lắm, băn khoăn đủ thứ, lưỡng lự đứng giữa đôi đường không biết phải làm sao. Tôi còn nhớ một buổi chiều khoảng năm, sáu giờ

ngoài. Thời điểm mẹ tôi vừa đi bổ hàng từ Tỉnh về, vội vả leo lên chiếc xa đạp, phóng nhanh ra chợ báo cho bà hay tin. Tội nghiệp, khi nghe tôi kể, mẹ tôi đứng thẩn thờ như điến mất, rồi đôi mắt bà từ từ đẩm ướt, tôi cũng đứng lặng người và rơi nước mắt. Hai mẹ con dường như đồng cảm, đồng một nỗi mừng mà xúc động. Bà nhìn tôi trong ánh mắt nghẹn ngào không nói một lời nào cả, một lúc sau bà móc trong túi áo bà ba hai chục đồng đưa cho tôi và bảo rằng con rủ các bạn đi uống Sinh tố cho vui. Vì những lúc ở quê nhà chiều nào đi bổ hàng về, bà thỉnh thoảng hay thấy tôi cùng những người bạn gái thân thiết hay ngồi uống Sinh tố, ăn Chè đầu ngõ. Tôi cám ơn và từ giã chạy đi tìm những người bạn và cùng nhau rong chơi đây đó cho đến tối mới về. Khi về đến nhà thì mọi người đều đi ngủ, chỉ còn lại một mình tôi trong bóng đêm lặng lẽ.

   Thức trọn thâu đêm, nằm trăn trở, không cách nào ngủ được. Tôi luôn suy nghĩ sự mừng rỡ của mẹ tôi đến rơi nước mắt lúc ban chiều, tôi cảm động và thầm thương bà vô hạn.

   Lòng mẹ nào mà không xúc động trước cảnh tình như thế, mẹ nào mà không thương con. Rồi suy nghĩ sâu xa hơn, bà còn phải lo toan cho tôi suốt ba năm dài nơi mái trường Thủy lợi. Các em thì còn nhỏ dại, không biết mẹ tôi phải vất vả đến dường nào.

   Sáng nay khác hẳn những buổi sáng khác, nắng chói chang, mới tám giờ mà Mặt trời đã lần xuyên qua song cửa. Lẽ ra tôi phải thức dậy sớm mà đàng nầy thức quá trễ, gần đến mười giờ non, tôi mới vừa tỉnh giấc.Vì đêm qua tôi về hơi muộn. Tuy vậy, tôi cũng không quên bổn phận của mình cần phải làm gì cho

những ngày sắp tới. Như hỏi ý kiến chỉ bảo của Mẹ tôi, các Cậu tôi v.v…Vì Họ là những người cao tuổi, kinh nghiệm chắc hẳn phải hiểu biết hơn tôi bội phần. Bao nhiêu người tôi thăm dò ý kiến đều bảo tôi nên theo con đường Sư phạm mà không ai khuyên bảo vì tới con đường Thủy lợi và cũng chẳng phân tích rõ cho tôi hiểu nó xấu hay tốt, lợi hại ra sao. Tất cả cứ lặng thinh và xem như tôi không thi đỗ vào trường Thủy lợi kỳ nầy. Có thể thời điểm ấy họ có ác cảm khi nghe hai chữ Thủy lợi phải chăng? Cứ nghe đến nó là người ta sợ sệt cái gì đó, cực nhọc, tay lấm chân bùn. Ngỡ là con mình con gái mà phải học đào Sông, đào Kênh khổ ải lắm. Cứ khăng khăng buộc tôi phải theo ngành Sư phạm. Thoạt đầu tôi gật đầu chấp nhận những ý kiến của gia đình và nghe theo những lời chỉ bảo ấy. Vì nghĩ rằng có lý, bởi tất cả ai ai cũng cho là như thế. Dù gật đầu nghe theo lời chỉ bảo của gia đình, nhưng tôi bụng dạ chẳng an tâm lúc nào cả. Một sự việc rất đơn giản nhưng khó nghĩ quá, tôi chợt nghĩ đến người Cô giáo năm cũ và cũng là người bạn thân thiết của tôi hồi còn học đệ nhị cấp trường trung học Nông Lâm Súc Định tường. Bà ta tên là Nguyễn ngọc Lan lớn hơn tôi chừng mười tuổi gì đó tốt nghiệp trường Cao đẳng Nông Lâm Mục Bảo lộc Lâm đồng về dạy môn Canh nông tại trường Nông Lâm Súc Định Tường lúc tôi đang học lớp mười ngành Canh nông, để hỏi thêm ý kiến xem có trùng họp với gia đình tôi không.Tôi lái chiếc xe đạp cũ kỹ của ông tôi từ nhà lên tận Thủ thừa- Long an mất gần hai tiếng đồng hồ.Trời trưa nắng mồ hôi nhễ nhại, thấm cả đôi vai, dọc đường nghỉ tạm mấy lần bên quán nước vệ đường mới đến nơi. Vừa đến nơi thì thấy căn nhà lá nhỏ, lụp xụp được khóa kín tự lúc nào. Tay cầm chiếc xe đạp, tay gạt vội những giọt mồ hôi còn đọng trên vầng trán, mặt mài choáng váng trong thảm não vô cùng. Thế thì đành phải quây về còn làm gì nữa bây giờ. Suy nghĩ vài phút tôi tạt ngang sang quán nhỏ gần bên uống ly trà lạnh để lấy lại phong độ mà đạp ngược về nhà, bằng không là xỉu mất. Anh Chủ quán thấy tôi ngồi có vẻ buồn bã và hỏi?

-Nầy Cô tìm ai gần đây?

-Dạ thưa anh, tôi tìm Cô giáo Lan, rất tiếc là Cô ta không có ở nhà, cửa nẻo

khóa cả rồi. Anh có biết Cô ta giờ làm gì và đi đâu không ? Anh Chủ quán

nhanh nhẹn trả lời.

-Đi đâu thì tôi không biết, nhưng bây giờ Cô Lan đang làm Ty Nông nghiệp

tỉnh Long an. Cô ta đi công tác đó đây thường lắm, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần mới về lại một lần.

-À thế ra là như vậy. Cảm ơn anh tôi hiểu. Anh Chủ quán cũng tử tế hỏi tiếp ?

-Nếu có cần gì nhắn lại, tôi nhắn hộ cho hay Cô viết vài chữ quăng vào cửa sổ, khi Cô giáo Lan về Cô ấy sẽ rõ là ai chứ gì.

-Có lý, ý tưởng hay.Thôi anh cảm phiền cho tôi mượn cây bút và xin một

mảnh giấy nhỏ, tôi sẽ biên vài chữ rồi nhét vào cửa sổ. Hy vọng Cô Lan tôi

nhận được.

 Tôi đứng dậy trả tiền ly nước và chào tạm biệt anh Chủ quán ra về. Chiếc xe cũ kỹ lăn bánh trên con đường sỏi đá nhấp nhô, từ Thủ thừa ra ngã ba lộ tẽ lúc trồi lên, lúc hạ thấp xuống làm tôi ê ẩm cả mình. Về thì về thật ra không còn chút nghị lực và khí thế như hồi lúc sáng sớm nữa. Mặt trời mỗi lúc càng lên cao, thời tiết dần dần oi bức, trong khó thở và hóc hách vô cùng. Nhưng tôi cũng cố gắng mãi đến ba giờ chiều mới về đến tận nhà. Vừa dựng chiếc xe đạp, bước vào nhà, ngã liền trên chiếc Divan một cái ịt cho đả cái lưng, bụng dạ lúc nầy vừa

mệt, vừa đói, thót cả hông, mồ hôi tuông chảy như xối tắm. Hơn một năm nay, kể từ ngày Đất nước hoàn toàn thống nhất, trường Nông Lâm Súc được giải thể để thành lập trường Bổ túc Công Nông của tỉnh, nên Cô và tôi phải tạm chia tay như bao thầy bạn khác. Mỗi người một nơi, ai về nhà nấy hoặc tìm một công việc khác cho mình. Nên từ đó Cô và tôi không còn gặp nhau thường xuyên như trước và cũng chẳng liên lạc với nhau.

  Về nhà suy nghĩ mãi, Cô ta đi công tác kiểu nầy biết bao giờ mới về và gặp.

Mà đợi thì đợi đến bao lâu, còn trở lên Thủ thừa lần nữa thì vô dụng. Cũng may, là hai hôm sau trong lúc tôi đang chờ mấy người bạn hiện đang làm việc tại Huyện Châu thành và Thị trấn Tân hiệp cắt hộ mấy giấy tờ cần thiết để kịp bổ túc Hồ sơ đi học cho hoàn chỉnh, thì Cô ta lại lò mò tới, thật là buồn ngủ gặp chiếu manh, một dịp may hiếm có.

  Gặp lại nhau sau những ngày xa vắng. Hai tôi mừng vui vô siết. Tay bắt, mặt mừng thăm hỏi đủ điều. Cô bảo tôi thôi khỏi dài dòng, vào thay bộ đồ cho lịch

sự rồi cả hai đèo nhau trên chiếc Hon-da đi Mỹ tho xuống tận trường Thủy lợi.

 Nơi đây là chốn cũ, tình xưa mà Cô và tôi đã dạy, đã học, hơn hai năm trời, biết bao nhiêu là kỷ niệm. Riêng tôi cũng không ngờ mình trở lại mái trường nầy lần thứ hai, rõ là duyên tiền định. Tới trường hai tôi đứng trước cổng nhìn một hồi lâu rồi kéo nhau vào quán nước Mía chị ba Tranh ngày xưa gọi hai ly nước Mía như thuở trước. Cô mang theo một phong bánh in mời tôi ăn. Vừa ăn, vừa uống nước Mía, vừa nhìn xung quanh cảnh cũ hai tôi thật thú vị vô cùng. Tôi bắt đầu tâm sự hết những gì đã có và kể hết cho Cô tôi nghe đầu đuôi câu chuyện. Cô lắng nghe và suy nghĩ một hồi lâu rồi bảo.

-Hoa nầy, rằng Cô là một Nhà giáo, tất nhiên Cô cũng muốn em sẽ trở thành

Nhà giáo để sau nầy giảng dạy lại cho thế hệ mai sau. Xong câu nói Cô lại ngưng và nhìn đi nơi khác.

-Tôi vừa nghe Cô nói xong câu ấy, vội vui mừng. Như thế là hợp lý với gia đình

quá đi chứ. Vậy là khỏi phải băn khoăn suy nghĩ vì nữa cả. Mừng thầm trong

bụng và trả lời một cách vui vẻ. Thưa Cô. Em cũng nghĩ thế.

- Cô im lặng một lúc lâu, rồi nói tiếp. Nhưng ! Cô khuyên em đừng nên theo

nghề Nhà giáo.Sao vậy Cô ? Chính Cô vừa mới nói ra là Cô muốn em là Nhà giáo kia mà.

  - Không Cô suy nghĩ kỷ rồi, lời Cô nói ra là có cơ sở hẳn hoi. Còn việc quyết

định tương lai là việc của em. Cô không can dự, Cô chỉ có ý kiến ngoài ra không có quyền quyết định. Em hiểu chứ ? Nếu mai nầy việc học tập có truông chảy và đúng với sở thích của em thì tốt, còn không thì biết ăn nói thế nào đây.

-Như vậy ý Cô muốn nói là bỏ trường Sư phạm phải không?

-Không ! Không hẳn như vậy đâu em, đây chỉ mới là bàn bạc.

-Vậy Cô nói ra cơ sở nào mà em phải theo học ngành Thủy lợi?

-Theo Cô nghĩ Miền nam mình vừa được giải phóng, Đất nước đã thống nhất, hiện tại cái gì cũng mới. Cô nói sơ chắc em hiểu chứ ?

-Dạ.

-Chính ngành nghề nầy cũng mới, em có công nhận với Cô không ?

-Thưa Cô công nhận.

-Vậy tại sao em không thử, kỹ thuật mới, Danh từ mới, cái gì nghe cũng lạ cả.

Chính Cô cũng không hiểu rõ nơi mơi ngành nghề nầy nhà nước sẽ ứng dụng

vào lĩnh vực nào. Thử đi em……ngành Giáo dục có lúc cũng cao quí, có lúc

cũng bạc bẽo lắm em à.

-Những lời Cô nói nghe cũng chí lý, suông tai, hợp tình, cái gì mới tại sao ta

không thử, có thử mới biết được cái hay, cái đẹp, cái văn minh hiện đại, cái

xấu của nó còn đứng ngoài cuộc thì làm sao biết được. Thôi thì Cô để em suy

nghĩ lại.

-Em suy nghĩ kỷ lại đi Hoa, rồi hãy quyết định, hai con đường theo Cô con

đường nào cũng tốt cả, ở đây Cô nhắc lại em nên thử một lần xem sao.

-Cảm ơn Cô đã chỉ bảo.

     Hai tôi lời qua, tiếng lại một mẩu chuyện như vậy mà đã mất gần một giờ

đồng hồ. Trời ngoài sân bắt đầu hạ nắng, hai hàng Me cao dầy bóng dọc theo

quốc lộ Mỹ tho-Gò công dần dần loang bóng. Hai tôi đứng dậy thăm hỏi anh

chị ba Tranh vài câu, trả tiền nước Mía rồi lên xe đi tiếp. Bước ra khỏi cửa còn

đứng ngắm ngôi trường cũ ngày xưa một lần cuối, mới bắt đầu cho xe nổ máy.

  Đoạn đường vào thành phố Mỹ tho gần bốn cây số. Hai tôi vẫn lặng im

phăng phắc, không ai muốn nói một lời nào. Cô thì như hồi tưởng lại những kỷ

niệm ngày xưa, còn tôi cứ mang máng trong lòng câu nói lúc ngồi quán chị ba

Tranh.“Em hãy thử „ Cái gì cũng nên thử, có thử thì mới thấy cái hay , cái đẹp

của nó. Trong tôi hiện tại thấy cũng chí lý nhưng hơi mạo hiểm. Rồi tự hỏi ? Nên hay không nên. Bỗng chiếc xe thắng lại cái két, xe dừng ngay vườn Hoa

lạc hồng. Cô hỏi ?

-Hoa em còn nhớ đây không ?

-Nhớ chứ Cô. Mỹ tho chứ đâu mà không nhớ, Cô muốn làm gì ở đây?

-Thôi ta vào quán Chè năm xưa, mình ăn một người một chén chè Thưng

rồi về cũng chẳng muộn. Em có bận việc gì không ?

-Thưa không. Vào thì vào không biết họ còn bán nữa không ? Hay nghỉ từ lâu

rồi. Bây giờ mọc lên nhiều quán Chè lắm Cô ạ.

-Không sao, còn thì ăn, không còn đi quán khác, thiếu gì !

    Dừng xe trước ngõ, hai tôi đi từ từ vào thì thấy vẫn còn y, bà chủ quán bây

giờ thấy trẻ trung hơn bà chủ cũ của ba năm về trước, lịch sự và chỉnh tề hơn,

quán xá cũng khang trang, lịch thiệp, sạch sẽ hơn. Ngày trước vào đây thật lòng mà nói, Chè thì ngon thật, nhưng bàn ghế cũ quá cũng làm mất ngon. Chén Chè Thưng được bà Chủ tận tay mang ra đón chào người khách mới, mùi cốt Dừa, lá Dứa thật thơm phức, hai tôi vừa ăn, vừa nói chuyện thật là

ngon miệng. Cô bật hỏi?

-Em còn nhớ một chỗ hấp dẫn khác ngày trước mình hay đến ở đâu không nào ?

-Làm sao quên được, trước rạp hát Vĩnh lợi chớ đâu.

-Con nhỏ nầy nhớ day thật.

-Kỷ niệm mà cô, nhưng họ chỉ bán bắt đầu vào sáu giờ chiều cho đến giữa khuya mà thôi.

-Sau nầy em có thường đến đây không ?

-Dạ có, thỉnh thoảng đôi, ba lần.

-Thôi thời gian có hạn, rất tiếc. Khi nào có dịp về lại Mỹ tho mình đi ăn tối

một bữa để nhớ kỷ niệm của thuở nào.

   Những lời nói nầy tự nhiên gợi lại trong tôi hình ảnh cũ, ngày trước khi còn

đi học và dạy hai tôi mướn một căn nhà trọ ở gần chợ Cũ, dường như cách hai

ba đêm, là đi ăn hàng một lần. Nói ra thì thấy kỳ, Cô lớn thì không sao, còn

con gái, con gủm như tôi thì ống chề.

   Hai chén Chè vừa cạn, hai tôi ra xe chạy một vòng nhỏ ngang qua thành phố

Mỹ tho, rồi lướt nhanh đường Hùng vương rẽ trái lần theo đường Nguyễn

Trải một mạch trực chỉ về nhà. Dọc đường tôi chồm đầu ra phía trước thỏ thẻ

mấy câu.

-Cô à chắc em nạp Hồ sơ vào trường Thủy lợi, em nghe lời Cô. Sự việc nầy

không cần phải phân vân vì nữa, thời gian sắp hết rồi.

-Em nói vậy thì Cô mừng. Giữa khoảng đồng rộng mênh mông, gió thổi muôn

chiều, đập vào tai tiếng nghe được, tiếng không. Hai người ngồi cạnh bên nhau

mà như cách xa hàng bao cây số.

   Mấy chốc là Cô đã đưa tôi về đến nhà, tôi mời Cô vào dùng ly nước rồi về

cho khỏe vì đường còn quá xa.

Cô bảo:

-Gần trọn một ngày nay mình bên nhau, cũng tạm đủ rồi. Thôi em để Cô về,

khi khác Cô sẽ xuống trường thăm em. Cô chúc em luôn gặp nhiều may mắn

trong tương lai và thành công trong môi trường mới.

-Cảm ơn Cô, thôi Cô về khỏe, em cũng chúc Cô nhiều may mắn, mình

sẽ gặp nhau vào dịp khác.

   Đêm ấy tôi chờ mẹ tôi đi bổ hàng về, cơm nước xong xuôi, nhìn bà vui vẻ, tôi

bắt đầu thưa chuyện. Rằng hôm nay tôi đã gặp và đi cùng Cô Lan trọn ngày

và sẽ quyết định đi học ngành Thủy lợi. Ngoài ra không theo ngành Sư phạm

như mẹ muốn. Con xin lỗi mẹ. Bước đầu bà không chịu, có vẻ hờn giận tôi

nhiều. Thật tình mẹ tôi là một bà mẹ quê, cũng chẳng phân biệt được ngành

nghề như thế nào, hể nghe con mình nay mai làm Cô giáo thì thích, tự hào với

bà con, làng xóm đơn giản vậy thôi. Cuối cùng những lời phân tích của tôi đã

chinh phục được bà.

Bà nói:

   Thôi tất cả tùy con, con lớn rồi, mẹ lúc nào cũng muốn con được thành danh,

sung sướng như mọi người, chứ đời mẹ đâu được học nhiều, lớn lên mua gánh,

bán bưng vất vả trăm chiều, con thấy đó.

-Con hiểu.

     Sáng hôm sau tôi dậy sớm, đi tìm hai người bạn cũ là Hạnh và Ngọc để lo

giùm một số giấy tờ cần thiết. Hạnh thì lo về phần cắt Lương thực và Thương

nghiệp. Hạnh làm cơ quan Tòa án nhân dân Huyện Châu thành nên quen biết

rất nhiều vị Trưởng phòng, chính vì thế mọi giấy tờ tôi nhờ đến được giải quyết một cách nhanh chóng. Còn Ngọc là chánh thư ký văn phòng Chủ tịch UBND Thị trấn Tân hiệp nên việc cắt Hộ khẩu cũng không gặp khó khăn. Sỡ dĩ tôi nhờ hai cô bạn nầy là vì trước đó tôi nghĩ sai về anh Đức phó Chủ tịch UBND Thị trấn Tân hiệp đã có một lần thành kiến không tốt với tôi khi anh ra lệnh buộc tôi phải thi hành nghĩa vụ Lao động một tuần mà tôi không chấp hành mệnh lệnh với lý do lúc đó tôi đang là một Công nhân tại Nông trường Bộ tư lệnh Quân khu 9 đồn trú tại Đồng tâm tỉnh Tiền giang.

   Giờ ngồi kể lại câu chuyện nầy tôi phải thành thật cảm ơn và nhớ công ơn

hai cô bạn trên đã hết lòng giúp đở tôi trong tình hình khó khăn ấy. Hai bạn

đã giúp một cách nhiệt tình và nhanh chóng, chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ

là chúng tôi gặp nhau tại một quán Sinh tố gần Ủy ban Thị trấn. Hai bạn trao

giấy tờ cho tôi, chúc nhiều may mắn, thành công trong học tập rồi vào Công sở

làm việc tiếp tục.

   Cùng ngày tôi liền đón xe đò đi xuống trường để nạp Hồ sơ nhập học cho

hoàn tất. Cảnh người bây giờ sao đông thế, toàn là những gương mặt xa lạ. Họ đến từ mọi miền của Đất nước phải chăng ? Lớn tuổi có, trung trung có, trẻ trung có, tôi lúc ấy được xếp vào hàng trẻ trung.

    Ngày đầu vừa đến rất bỡ ngỡ, so với vài năm trước đây khi tôi còn mặc

chiếc áo màu nâu Nông Lâm Súc.Thật ra ngôi trường nầy chẳng có gì xa lạ với

tôi. Nhưng cách thức tổ chức, chỗ học, chỗ ăn, chốn ở hoàn toàn mới mẻ. Họ tổ

chức bề mặt tương đối khá chu đáo ví dụ: Có Toán, Đội hướng dẫn những

người từ xa đến, nơi nầy làm cái gì, nơi khác làm cái chi.v..v…trong rất trật tự

và nề nếp.

   Vào phòng Tổ chức nạp Hồ sơ, tôi gặp ngay ông Trưởng phòng Tổ chức, ông

ta tên. Lê Đình Hường giọng nói trọ trẹ người trung, khó nghe và mấy chị người miền Bắc rặt. Thời gian sau tìm hiểu tôi mới biết ông Trưởng phòng Tổ chức là người Quãng nam, Kỹ sư Địa chất cùng ngành nghề với tôi sau nầy. Ông nhận Hồ sơ và bảo tôi phải có mặt tại Trường chậm nhất là ngày mai, để dễ dàng sắp xếp chỗ ăn, chỗ ở.

-Tôi trả lời Dạ và hỏi ? Hồ sơ của tôi đầy đủ chưa?

-Ông lật lật, gật đầu và bảo đầy đủ rồi, nếu có cần gì thêm tôi sẽ báo chị sau.

    Chào tạm biệt rồi ra về, vừa đi, vừa nhìn quanh thấy cũng vui và dường như

có cái gì là lạ. Tôi bỗng dưng chợt nghĩ đến câu nói của Cô Lan ngày hôm

trước.”Thử đi Hoa “ Và giật mình khi nghe ông Trưởng phòng Tổ chức bảo

tôi phải có mặt vào ngày mai. Cũng may, cho tôi là nhà tôi cách trường chỉ hai

chục cây số, phải tôi ở tận Miền trung hay cuối cùng Đất nước thì sự thể sẽ

không biết thế nào. Khi trong tay tôi hiện tại chỉ có tập Hồ sơ đi nạp mà thôi,

ngoài ra không mang theo bất cứ thứ gì hết.

   Chiều về đến nhà thì trời bắt đầu xàm xạm tối, lòng nửa vui, nửa buồn.Vui

là mọi công việc tương đối ổn thỏa hầu như hoàn tất, buồn là không biết mẹ

mình bà nói thế mà có thật vậy không ? Tin ở bà là chuyện đương nhiên,

nhưng sợ vì quá thương con mà nói thế. Cuối cùng nghĩ đi, nghĩ lại chuyện

cũng đã rồi thay đổi cũng chẳng được, cứ thế mà làm, còn phân vân mải chẳng

giải quyết được điều gì.

   Ngồi lom khom, quây quần xếp gọn ba bộ quần áo vào cái xách tay nhỏ và

mấy quyển sách cũ để sáng mai chuẩn bị lên đường cho kịp lúc. Tiếng tằng

hắng quen thường của mẹ tôi dội vang ngoài cửa, tôi vội chạy ra khuân giúp

vào nhà, chưa kịp vào nhà, mẹ tôi vừa đi, vừa hỏi ?

-Hôm Nay công việc con đến đâu rồi ?

-Tôi mừng rỡ, khi không nghe bà rầy la, đổi ý và nói.

-Dạ xong xuôi tất cả rồi mẹ ạ. Con đang chuẩn bị sơ sơ một ít hành trang cần

thiết để mai lên đường, xuống đó nếu có thiếu chút ít gì tuần sau con sẽ về bổ

xung thêm. Bây giờ đâu biết cái gì cần, cái gì không.

-Thôi cũng được, mai mấy giờ con đi ?

-Khoảng bảy giờ sáng.

-Con chuẩn bị tiếp đi.

-Dạ.

   Hai mẹ con ngồi ăn buổi cơm chiều vui vẻ, người nói qua, kẻ nói lại tình cảm

tràn đầy, ăn cơm xong, mẹ tôi lấy cho ba chục đồng làm lộ phí và tiêu xài

trong những ngày đầu.

 

 

Thủy Điền

 

 

125-Quán Nhỏ Bên Lề

 

           Vừa đến Đảo vào buổi chiều, nhân viên sắp xếp chỗ ăn, chỗ ở xong xuôi. Sáng ngày hôm sau hai vợ chồng ghé vào quán cóc vệ đường gọi hai tô Mì nóng ăn, Vì cả tháng nay kể từ ngày đi vượt biên toàn ăn đồ vớ vẩn. Vừa ăn, vừa hít hà khen ngon định gọi thêm tô nữa. Chưa kịp gọi thì ông Chủ quán xề lại hỏi han đủ thứ chuyện trên đời và gạn sang cái quán ông đanh hành nghề, nên mất hứng.

    Tám giờ sáng một ngày tháng tám năm 1980. Bảy chiếc thuyền Bầu chở gần ba trăm thuyền nhân thuộc tàu Cap Anamur của Đức từ Singapore chuyển sang Đảo Poulo Galang Indonesia tạm cư. Vì hiện tại trại tỵ nạn Singapore không còn chỗ trống. Những chiếc thuyền Bầu len lỏi theo những con Sông và Rạch nhỏ suốt sáu tiếng đồng hồ từ Singapore-Indonesia. Trên quãng đường đi ai ai cũng rất vui thú, vì lần đầu tiên được ngắm nhìn toàn những thắng cảnh thiên nhiên, mà từ nhỏ đến giờ chưa một lần thấy nó. Chiếc thuyền cứ tành tạch với vận tốc vừa phải, thế mà mấy chốc đã đến nơi.

    Đúng mười bốn giờ trưa cùng ngày, nắng ngoài trời chói chang, cũng là lúc con thuyền vừa cập bến. Như có sự báo trước, trên bờ có hành trăm người đứng chờ sẵn, xem trong những chiếc thuyền nầy có ai là thân nhân của mình không. Thật như lời dự đoán, người khác thì không biết, nhưng riêng vợ chồng chúng tôi có hai cô cháu vợ ra đón. Vì hai cô nầy đã đi trước chúng tôi hơn sáu tháng và hiện còn nằm trên Đảo chờ ngày đi định cư sang Pháp theo diện đoàn tụ gia đình. Cuộc hội ngộ không hẹn mà đến, ba Dì cháu ôm nhau khóc ùa như cách xa nhau hàng mấy chục năm có lẽ. Vừa mừng, vừa nghe Loa Cao ủy phải trật tự, điểm danh mất khoảng một giờ . Bỗng dưng cơn mưa rào từ đâu đổ ầm xuống như chào đón. Ai cũng bảo đây là điềm hên, rồi mọi người hè nhau chạy nhanh vào căn nhà không vách gần bên để trú mưa.

   Sau cơn mưa, tất cả trở lại bình thường và trình tự được xe Cao ủy chở vể khu nhà ở. Và chúng tôi được đưa đến Barak 182 trên ngọn đồi xa tít. Từ ngọn đồi nầy muốn xuống tới khu chợ phải mất gần nửa tiếng đồng hồ, đường đi rất cong queo và vất vả. Hơn nữa thời gian ấy lại là mùa mưa như ở Việt nam nên đường đồi rất là trơn trợt. Trong Barak người ta đã chuẩn bị sẵn sàng đâu những ngày trước gần hai trăm cái giường san sát nhau và chia đều cho mỗi hộ. Chúng tôi ổn định xong trong chiều đó và ngủ một giấc rất ngon lành cho đến sáng, vì cả ngày nay đi đường quá mệt mỏi.

   Trong lúc ngủ tôi nghe dăng dẳng bên tai tiếng một phụ nữ nói liên tục, không ngớt miệng. Nào Úc, nào Mỹ, nào Canada. Tôi bực bội muốn đứng dậy bảo sao không nói nào Việt nam. Nhưng thôi, có lẽ vì họ đang mơ mộng quá. Và thầm nghĩ, cuộc hành trình gian khó đã đến đây là may mắn lắm rồi. Tương lai, ngày mai từ từ sẽ rõ.

   Sáng hôm sau hai vợ chồng bàng nhau, thôi mình đi tìm cái ăn cho đả thèm. Đi qua, đi lại chúng tôi nhìn thấy một cái quán cóc ghi mấy hàng chữ „ Tại đây có bán Mì ăn liền nấu sẵn„ Nên ghé vào và gọi hai tô Mì. Ông Chủ quán nấu xong, bưng ra tiếp khách rất tử tế. Vừa ăn, vừa khen ngon vô tình để lộ sự thèm khát nên ông đoán chắc là chúng tôi những người vừa mới đến. Ăn xong, chúng tôi định gọi thêm hai tô nữa ăn cho đả miệng, thì ông xách cái ghế khác xề đến gần bên hỏi han? Chúng tôi chẳng có gì giấu giếm và trả lời một cách chân thật. Ông hỏi?

   Hai anh chị có muốn sang quán chúng tôi Không? Tôi trả lời, mới đến chân ướt, chân ráo mà biết gì sang quán, hơn nữa đâu biết mình ở đây bao lâu mà sang. Mà dẫu muốn sang lấy tiền đâu mà sang bây giờ. Ông bảo chỉ có một Chỉ vàng thôi, còn thời gian ở thì chắc lâu lắm. Tôi hỏi? Ông ở đây lâu chưa. Ông Ta bảo, hơn một năm rồi. Tôi ngồi trầm ngâm một hồi và suy nghĩ, có lẽ mình cũng như thế. Cuối cùng mọi chuyện chẳng đâu vào đâu, chúng tôi ăn xong, trả tiền rồi từ giã ra về.

   Ở Đảo gần hai tuần, ăn rồi ngủ, ngủ rồi ăn cảnh an nhàn bắt đầu sanh chán.Tôi nói vợ tôi ở nhà còn tôi đi tìm việc gì làm vừa kiếm tiền, vừa thoải mái tinh thần. Tôi đi vòng quanh hỏi ra thì người ta có mướn làm công tại trại Galang 2, công việc dọn dẹp những vật liệu xây dựng cho gọn gàng với mức lương 1500 Rupiah tiền Indo một ngày, hồi ấy tương đương với năm Đô la. Mừng quá, về bảo vợ là ngày mai anh đi làm, em chuẩn bị cho anh chút ít gì để mai đi.

   Sáng đến tụ điểm để xe chở vào nơi làm việc, tôi thấy người ta đông chật, họ cũng đi làm như tôi. Khi xe vừa thắng cái két, bao thiên hạ phóng ào ào lên, vì lịch sự tôi nhường và định lên sau. Ai ngờ ! Xe chỉ dừng một phút rồi chạy mất, thế thì đành xách gào mên cơm đem về.

   Về đến nhà vợ tôi hỏi? Sao anh lại về, người ta không nhận làm à. Tôi bảo nhẩy lên xe không kịp. Vợ tôi cười, nguy hiểm quá thôi ở nhà cho rồi. Tôi nói, đâu có đơn giản thế em, thua keo nầy ta gầy keo khác. Sáng hôm sau tôi nói vợ tôi nấu gào mên cơm khác và đi tiếp.

    Cũng ngay điểm hẹn, tôi đứng sát lề đường, xe vừa thắng cái két là tôi nhẩy nhanh lên ngay và từ từ những người khác cùng lên. Ngồi trên xe một quãng đường khá xa, lòng tôi miên man không biết chặn tới sẽ như thế nào. Đúng như dự tính, cuộc đối chọi kỳ hai bắt đầu. Những Ca trưởng không phải là người Indo mà là những thanh niên Việt nam ở lâu năm trên Đảo làm đầu gấu. Chúng điểm danh những người thân, quen chúng trước nếu còn thiếu chỗ hoặc nơi nào nặng nhọc thì  chúng mới giao cho mình. Trước khi ra hiện trường chúng tập hợp những thứ gì mang theo lại một chỗ và đi làm tay không, đến trưa giờ giải lao mới tụ lại ăn chung. Ngày đầu chúng đưa tôi đến nên sình lầy làm việc và khi trưa về thì gào mên cơm của tôi trống rổng. Tôi đành nhịn đói và nhìn chúng ăn một cách ngon lành.

    Chiều về đến nhà tôi mệt lã vì cả ngày không ăn, không uống. Vợ tôi hỏi? Ăn cơm có ngon không. Tôi nói, có ăn đâu mà ngon. Tôi bảo vợ tôi ngày mai làm thức ăn khô bỏ vào bọc mũ và một gào mên trống không mang theo.

    Cũng như mọi ngày, vừa xuống xe tôi quăng bịch đồ ăn vào gốc cây Chuối và nạp gào mên cơm vào đống thức ăn tập thể, khi trưa trên đường giải lao về tôi ghé lại gốc Chuối lấy bịch cơm cho vào túi áo và tìm nơi khác ngồi ăn. Ròng rã gần một tháng làm việc, người mới , người mới tiến vào và dần dần quen mặt, chúng cho tôi làm những công việc nhẹ và khô ráo hơn. Nơi đây tôi đã nhìn rõ những bộ mặt thật và giả, nhưng chẳng dám hé môi.

     Kiếm trong tay được ít tiền, nhìn cảnh đời hai mặt, ngày đi có lẽ cận kề, nên tôi quyết định nghỉ và ở nhà tìm công việc khác. Thú thật đến giờ nầy tôi không sao hiểu nổi sự tài tình của con người. Đảo Galang là một Đảo hoang, kể từ năm 1976 khi có làn sóng người đi đăng ký, bán đăng ký, vượt biên đến. Không biết họ làm cách nào mà mấy năm sau sự sinh hoạt y như một Thị trấn nhỏ không hơn, không kém. Thí dụ: Rạp chiếu bóng, tiệm Vàng, tiệm Vãi, tiệm May, tiệm Đồng hồ, chợ Cá tươi, Gà, Vịt, quán Cà-phê, Phòng trà, Hủ tiếu hay nói cách khác có đủ hết không thiếu món chi. Hay thật là hay.( Xin nói thêm một điều là trên Đảo Galang hồi ấy tất cả các Chủ quán, tiệm đều là của người Việt nam, chỉ riêng Giám đốc Bệnh viện và Trạm Cảnh sát bảo vệ là người Indo mà thôi).

     Một đêm tháng 10 năm 1980 chúng tôi đi xem phim Hồng kông „ Mãnh Long hóa giang „ Vào cửa mỗi người 150 Rupiah tiền Indo một vé, rạp hát được bao quanh bằng những tấm Tôn lộp nhà, không nóc. Nếu trời nắng thì xem được trọn phim, còn mưa xem như tiền tặng ông Chủ rạp. Không may, đêm tôi đi xem chiếu bóng bị mưa hai phần ba nên phải đành ra về. Vừa mất tiền, vừa lặn lội lên đồi về Barak mất gần nửa giờ đồng hồ thật là thê thảm.

     Mỗi người một số, không biết mình như thế nào sao cứ loanh quanh đi tìm cái vất vả, trong khi mọi người khác nằm nhà, hể đúng thứ ba là đi lãnh đồ Cao ủy về ăn, rồi ngủ có sướng hơn không?

     Thời gian rảnh rỗi, ngày nào cũng đi dạo ngang qua tiệm Mì, nếu ông Chủ không thấy thì thôi, còn thấy là gọi vào cho bằng được. Rồi cuối cùng cũng bị ông dụ và sang một cái quán với giá một Chỉ vàng. Khi sang quán xong, tu sửa lại chút đỉnh và bán tiếp. Quán bây giờ sinh động hơn xưa, nhờ có mấy đứa cháu vợ đến phụ giúp và ở luôn tại đó nên rất là vui. Kẻ ra người vào y như ở quê nhà, lắm lúc quên rằng mình đang đi tỵ nạn và đang sống nơi xứ người xa lạ.

    Ngày ông Chủ cũ lên đường đi định cư tại Hoa kỳ có đến từ giã gia đình tôi. Tình cờ trong lúc hàng vắng khách, ông thấy tôi ngồi làm thơ, ông xin đọc và tôi đã tặng ông bài thơ ấy.

 

Quán nhỏ bên lề (Bài thơ cũ)

 

Ông đi, tôi thế

Một Chỉ đi, về

Tôi đi, người kế

Cứ thế rủ rê

 

Quán nhỏ bên lề

Trải qua hàng Chủ

Người mới, người cũ

Thay nhau liên tục

 

Đến ngày chấm dứt

Không còn tỵ nạn

Quán trả cho làng

Chỉ vàng bay mất.

 

                                                      

    Tưởng rằng sẽ ở Đảo lâu hơn, nên mới sang cái quán bán cho vui trong những ngày tỵ nạn. Ai ngờ ! Vừa bán được gần một tháng thì Cao ủy gọi khám sức khỏe chờ ngày đi định cư. Nên tôi vội tìm cách sang cái quán cho người khác. Tôi không làm như ông Dược sỹ là gạn hỏi từng người, mà tôi treo một tấm Bảng thật lớn „ Cần sang quán gấp „ Rất may, đúng hai ngày sau có người đến hỏi mua. Tôi nói giá, họ ưng ngay không vòng vo, mặc cả gì hết.

    Ba tuần lễ sau khi khám sức khỏe xong, gia đình tôi và những người đồng hành thuộc tàu Cap Anamur 12 được vớt phải sang Thủ đô JAKARTA rồi đến toà Đại sứ Đức làm Hộ chiếu và đúng ngày 16 tháng 12 năm 1980 lúc 6 giờ 30 sáng là chúng tôi đã có măt tại phi trường Frankfurt cho đến hôm nay.

 

CHLB Đức tháng 11, năm 2015 (Kỷ niệm 35 năm xa quê)

 

Thủy Điền

 

 

 

 

124-Giỡn Mặt Với Tử Thần

 

  Cả tuần nay, ai gặp thằng Bình đi ngoài đường cũng đều hỏi ? Sao tự dưng gương mặt của mầy bị méo xẹo vậy Bình, thường thì nó trả lời rất lễ phép, nhưng từ ngày xảy ra sự việc đến nay nó trở thành đứa trẻ mất dạy. Ai hỏi thì hỏi mặc kệ, cứ cuối mặt lầm lì, không trả lời, trả vốn và bỏ đi một nước.

 

 Trước cổng chùa Phước Hải, phía bên trái có con kênh nhỏ, mọc quanh bờ kênh là một dãy cây Tràm lớn, nhỏ lẫn lộn. Dưới chân gốc Tràm lớn gần cổng chùa có một tổ ong Vò vẽ thật lớn, mỗi lần ai đi ngang qua đây cũng cấm đầu chạy lẹ vì sợ nó rượt theo đánh. Sợ thì sợ vậy, nhưng không chọc ghẹo nó, thì nó cũng chẳng làm gì mình, cứ vo ve nơi miệng tổ mà thôi.

 

  Tổ ong nầy là tụ điểm của những đứa trẻ trong xóm, sau khi ăn cơm chiều xong, hay tụ tập, rủ nhau đến đây phá một trận rồi mới về tắm rửa đi ngủ. Thường thì mỗi đứa ném vài cục đất ngay miệng tổ, động, chúng bay ra và đuỗi theo một đỗi khoảng mười , mười lăm mét rồi bỏ, quây trở lại tổ cũ. Khi chúng quây lại tổ cũ, thì bọn trẻ lại tiếp tục chọi đất, đá vào tổ như lúc ban đầu và chúng lại xuất quân đuỗi tiếp và cứ thế ngày nào cũng như ngày nấy, thét thành ghiền, chiều nào không lên chọc phá chúng một trận dường như ngày ấy những đứa trẻ đều bị bệnh và tối về ngủ không ngon giấc. Những lần chọc ghẹo nầy thỉnh thoảng cũng có một vài em bị đánh vào lưng và vai  xưng phù cả tuần lễ.

  

   Thằng Bình là một trong những thành viên chọc phá nầy, thường hàng ngày nó cũng ném vài ba cục đất, đá như những đứa trẻ khác. Sao không biết hôm nay nó mắc chứng gì lội xuống kênh, hai tay xắn cục bùn ập vào tổ ong, nó ngỡ làm như vậy tổ ong sẽ bị bịt miệng và chúng sẽ ngộp thở và chết hết hay nó có ý định lấy trọn ổ ong. Vừa ập bùn xong, nó leo từ từ lên bờ như không có chuyện gì. Ai ngờ ! Chúng tung ra tấn công đánh thằng Bình tới tấp, thằng Bình hoảng sợ bỏ chạy về nhà cách đó gần cả trăm mét, vừa chạy hai tay vò đầu lia lịa, nhưng chúng không tha và theo đến nhà, khi thằng Bình vào nhà, đóng cửa lại, thì đàn ong bắt đầu ra về. Trong lúc thằng Bình bị tấn công và bị đuỗi, những thằng bạn nó lẽ ra cũng bị vạ lây. Nhưng không biết sao chúng tha hết và chỉ tập trung vào đánh thằng Bình thật là ngộ nghĩnh.

 

   Sau khi bị ong đánh má nó xức dầu, cho uống thuốc, nó nằm liệt cả ngày trời cứ than « Nhức quá, nhức quá « Má nó thấy không thuyên giảm nên chở đi nhà thương, ra đó, người ta bảo chở đến trễ quá, nọc độc trong người nó khá nhiều vì bị ong chích rất nhiều chỗ, nằm nhà thương một tuần nó hết bị nhức, nhưng phải đành mang tật và gương mặt nó bây giờ bị méo qua một bên. Bác sĩ nói, nếu đem đến trễ một ngày nữa có lẽ nó khó sống. Sau khi nó bị ong đánh má nó nổi máu trong người định đập cho nó một trận, nhưng chuyện đã lỡ  dù có nóng bực như thế nào thì cũng vô ích, vì chuyện nầy bà đã biết trước rầy la, ngăn chận cả chục lần rồi mà nó và những thằng bạn nó không chịu nghe.

   Lúc thằng Bình bị xảy ra tai nạn, ông Trưởng ấp vẽ tấm bảng thật lớn cậm trước tổ ong hình sọ người và hai đốt xương tréo nhau y như nơi đây là vùng cấm địa không bằng và trước cổng chùa ngày nào đã từng nghe tiếng trẻ vang dội, cười đùa nay nó bỗng dưng vắng lặng, như người ta thường nói « Lạnh tanh như chùa bà Đanh » .

 

THỦY ĐIỀN

 

23-6-2016

123-Đêm Khuya Một Bóng

 

   Ba giờ sáng, ngoài trời sương bắt đầu trùm phủ, lạnh. Long mở cửa sau Restaurant đi bộ về nhà, đoạn đường khoảng hai cây số, phải qua bốn con đường nhỏ nằm dọc theo hai dãy phố trải dài, vừa đi, vừa lầm bầm, phải hồi nảy hắn bảo cầm bộ đồ nầy năm chục Euro có lẽ bây giờ mình trần truồng đi ngoài lộ là cái chắc.

 

   Long và Dũng là hai thằng theo cha mẹ đi đăng ký xuất ngoại hợp pháp hồi năm 1978, được chính phủ Đức nhận theo diện nhân đạo và sang Đức năm 1979, lúc ấy cả hai khoảng mười tuổi. Sau khi học hết năm lớp mười, lẽ ra phải học tiếp lên để lấy Tú tài và vào Đại học hoặc chuyển sang học nghề ba năm, đó là phương thức học ở Đức. Nhưng ngược lại hai anh chàng nầy không làm thế mà đều nhẩy vào nhà hàng Tàu làm việc. Hai thằng làm hai nhà hàng khác nhau cách đó hai cây số. Long thì làm nghề phụ bếp còn Dũng thì chạy bồi. Công việc thì không nặng nề lắm, nhưng có điều mất rất nhiều thời gian cho một ngày, riêng những thứ khác như chỗ ở, ăn uống cả hai chẳng phải mất đồng nào có chủ lo cả, mỗi tháng lương và tiền bo đều còn y. Cứ thế mà chúng kéo dài hơn chục năm nay. Ngoài giờ làm việc chúng chỉ biết điện thoại nhau, hẹn điểm đánh bạc hoặc đi đến những Casino mà thôi.

 

    Qua nhiều lần đánh bạc cả hai đều có lúc thắng, lúc thua, nhưng mỗi lần thắng Long thường hay có những thái độ làm cho địch thủ không mấy gì hài lòng lắm, mỗi lần một tí Dũng câm thù Long vô kể, chuyện thắng thua trong canh bạc là chuyện bình thường, nhưng đàng nầy còn bị chọc quê là điều làm cho Dũng tức giận hơn.

   Nhân dịp Giáng Sinh nhân viên nhà hàng được nghỉ trọn ngày hai mươi bốn, chúng rủ nhau bốn thằng gầy sòng, trận sát phạt gần ba tiếng đồng hồ, sắp sửa một giờ sáng thì hai ông tướng kia sạch túi ra về, chỉ còn lại giữa Long và Dũng, để trả thù mối hận lâu nay, Dũng bảo.

-Thôi còn tao với mầy, lỡ chơi thì chơi cho đến bến, sẵn dịp hôm nay mình nghỉ, về bây giờ cũng muộn rồi, sáng về luôn cũng được.

-Ý mầy muốn gì ?

-Tao và mầy binh xập xám.

-Chơi thì chơi, tao đâu có ngán mậy.

-Ok

   Vậy ta bắt đầu, Dũng nói.

-Ai thắng sẽ được chia bài tiếp.

-Ừ.

   Cuộc đấu đá cứ thắng rồi thua, cứ thua rồi thắng, dùng dằng gần một tiếng đồng hồ không ai thắng bại. Dũng nói tiếp.

-Thôi ta chuyển sang sạc bài cào ba lá cho lẹ, trời sắp sáng rồi, còn về chẳng lẽ ở đây mãi sau.

-Sạc thì sạc.

Bước sang bài cào ba lá, Long rơi vào tình cảnh bi đác, bài đen như mực, hể Dũng bảy nút thì Long sáu nút, hể Dũng năm nút thì Long chỉ ba hoặc hai nút mà thôi, cứ thế kéo dài- kéo dài, Long thua sạch cả tiền mặt. Lẽ ra khi thua sạch tiền mặt thì tự động đứng dậy, phủi đít đi về, nhưng Dũng tỏ ra mình là người cao thượng.

-Tao cho mầy cơ hội gở

-Bằng cách nào ?

-Thì mầy có cái gì cầm tao, tao đưa tiền mầy chơi tiếp, thế thôi.

-Tao còn sợ dây chuyền.

-Bao nhiêu ?

-Năm trăm Euro

-OK

   Vừa bỏ năm trăm ra, chia bài, Dũng lật ba lá lên bốn nút, còn Long nặn từ từ, hy vọng năm hoặc bảy thì thắng ngay. Ai ngời nặn cho đả đời bài chỉ có ba nút. Chàng xanh cả mặt mày, mồ hôi bắt đầu tuôn chảy, tay chân run rẩy, mất tinh thần, Long xem như đây là ván bài cuối chàng chuẩn bị đứng dậy ra về. Dũng nói tiếp.

-Khoan, đừng vội, mầy còn cơ hội gở nữa Long, nếu mầy muốn và đây là cơ hội cuối cùng.

-Tao đâu còn gì để cầm.

-Chiếc xe hơi của mầy.

  Long suy nghĩ vài ba phút, rồi trả lời.

-OK, bao nhiêu ?

-Hai ngàn rưởi Euro, vì xe của mầy cũng cũ rồi.

-Được, tao đưa giấy xe tao cho mầy đây.

-Và, chúng ta chỉ sạc một lần hai ngàn rưởi Euro luôn, khỏi lòng vòng.

   Cũng như lần trước, Dũng lật ba lá bài lên trước và chỉ có một nút mà thôi, Dũng làm tỉnh, nhưng trong dạ rất run. Có thể tình huống sẽ bị ngược lại. Nhưng may quá, không ngờ ! Con bài của Long hôm nay đã đen lại càng đen hơn khi nặn ba lá bài ra  chỉ có hai con Đầm và một lá mười rô (Bù trất) Dũng mừng quá và nhẩy lên khinh ngạo, thế là ta đã trả được mối thù rồi.

  Sau ván bài, Long đứng dậy không một lời từ giã, gương mặt hầm hừ mở cửa sau, bước ra, đóng cái rầm và âm thầm đi dọc theo đường phố giữa đêm khuya sương lạnh để trở về căn gác cách đó gần hai cây số.

 

Thủy Điền

03.7.2016

 

 

 

 

122-Bà Hai Tàu Hũ

 

   Gần một năm nay, chiều nào bà hai Tàu hũ cũng ra mé sông tựa cây dừa nhìn ra sông Tiền giang nơi bà từng đưa Taxi cho bao người ra tàu lớn để đi vượt biên, rồi chắc lưỡi và  thì thầm « Thật, mỗi người đều có số mạng « 

  

   Bà hai Tàu hũ là người sanh để và lớn lên ở Vĩnh Kim thuộc huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang ngày nay, chồng đi lính chết, chuyên sống bằng nghề bán tàu hũ dạo, nên người dân ở đây đặt cho bà cái tên là bà hai Tàu hũ. Năm 1980 đang ngồi bán tàu hũ tại nhà lồng chợ Vĩnh Kim tình cờ có hai người lạ mặt đến ăn Tàu hũ, nói ba điều, bốn chuyện xong, trả tiền rồi bỏ đi như những người khách quen thuộc khác. Vài hôm sau cũng khoảng ba giờ chiều họ quây lại và cũng ăn tàu hũ của bà, lần nầy họ hỏi xa hơn một tí, trả tiền, rồi đứng dậy đi mất biệt. Đúng một tuần sau họ trở lại nữa cũng ăn tàu hũ và ngồi lâu hơn, đồng thời đề cập ngay vấn đề là nhờ bà hoặc gia đình bà làm Taxi cho chuyến vượt biên của họ. Lúc đầu bà hai nghe nói, giật mình, sợ hãi, bối rối không dám nhận lời ngay và hứa sẽ trả lời vào dịp khác. Vì nhu cầu cấp bách họ dục dã bà phải trả lời trong vòng ba ngày còn không thì thôi và họ nhờ người khác. Bà nghe đến số tiền họ muốn trả cũng động lòng tham rồi dạ..dạ ba ngày nữa tới đây tôi sẽ trả lời.

  

   Về nhà bà bàn với hai cậu con trai của bà, chúng bảo má cứ nhận đi, mình chỉ làm một đêm mà nhận khối tiền còn hơn mua gánh bán bưng kiểu nầy hai ba năm chưa chắc được số tiền ấy. Bà hai nửa sợ, nửa tham cứ ừ ừ rồi lại thôi và cuối cùng đi đến nhận lời. Vì nhà bà ở cạnh bờ sông, mọi phương tiện thuyền bè bà đều có sẵn.

  

   Đúng ba ngày sau họ đến như đã hẹn và chuyển sang nơi khác trò chuyện. Họ nói rõ vấn đế và trả tiền cho bà hai trước, nếu có thiếu hay không hài lòng họ sẽ trả thêm.

  

   Nhiệm vụ của bà hai rất đơn giản, tổ chức tiệc, đón khách ở bến xe Vĩnh Kim, đưa về nhà cho ăn uống, lo chỗ ở tạm, khuya đưa khách ra tàu lớn đang chạy lòng vòng ngoài sông Tiền Giang cách nhà bà chừng vài ba răm mét. Sẵn dịp bà cũng xin họ cho hai đứa con trai mình đi cùng và họ nhận lời mà khỏi tốn một đồng nào, trong khi những người khách khác phải đóng mỗi đầu người là ba cây vàng răn rắc. Lúc đầu bà định đưa hai đứa con mình ra trước cho chắc ăn, nhưng sợ lỡ bể ổ thì con mình bị bắt trước, nên bà dìm lại và đưa khách ra trước, nếu tình hình êm ả thì con bà sẽ ra chuyến cuối cùng. Đêm ấy, bắt đầu từ 23.00 giờ đêm theo lệnh họ chỉ cho khởi hành- đến gần 2.00 sáng bà đưa tất cả là ba chuyến hơn hai chục người ra tàu lớn một cách an toàn và quây lại làm nốt chuyến thứ tư gồm ba người khách và hai con trai của bà là coi như hoàn tất công việc.

  

    Không may, lúc bà trở vào bờ chở chuyến chót thì ngoài kia thuyền trưởng phát hiện tàu Công an tuần tra sông đang chớp đèn pha phía trước, nên hoãn sợ, nhỗ neo bỏ chạy trước và không thể chờ chuyến Taxi cuối cùng.

  

    Bà hai trong nầy đâu có biết chuyện gì, cứ khăng khăng theo đường cũ, thì ra, chiếc tàu lớn đã nổ máy chạy thoát thân mất rồi, chờ gần một tiếng ngoài sông, gió lạnh, trời càng lúc càng sáng, bao chuyến tàu qua lại nhìn bà và đoàn người với cặp mắt đa nghi, tò mò nên bà ngại và quyết định quây vào bờ trở lại. Ba người khách còn lại rất thất vọng, nhưng không dám to tiếng và sáng sớm đành vác túi xách về Sài-Gòn trong tức giận. Riêng hai đứa con trai bà đều đổ lỗi lên đầu mẹ. Và, bà chỉ còn biết cuối đầu mà khóc và thì thầm « Thật, mỗi người đều có số mạng cả « Tuy biết thế, nhưng cả năm trời nay, chiều nào bà cũng ra bờ sông, nhìn xa mà thầm tiếc một cơ hội trong cuộc đời.

 

THỦY ĐIỀN

17- 6 - 2016

 

 

 

 

121-Cây Trúc Xanh Miền Tây Nam Bộ

 


 

Thi Sỹ TRÚC THANH TÂM

 

Trị dân phải có nhân tâm

Giữ nước cũng cần nghĩa khí.

 

 

Để trân trọng và ngưỡng mộ Thi sỹ Trúc Thanh Tâm. Người đã có một chặng đường dài 60 năm cng hiến cho nền Văn Học Việt Nam nói chung ; Miền tây Nam bộ nói riêng.

   Với tư cách là một Chủ biên một tờ báo, đã từng cộng tác với Thi sỹ Trúc Thanh Tâm trong thời gian gần đây và là một Đọc giả nhiều năm trên mạng Internet. Đọc qua những bài thơ của Trúc Thanh Tâm tôi luôn luôn có những suy nghĩ riêng, mặc dù những suy nghĩ ấy có đối lập với một ai thì tôi không biết. Bởi, mỗi người đều có một ý nghĩ về một con người ở góc đkhác nhau.

-         Trúc Thanh Tâm là một con người chân thành, luôn tôn trọng tình bạn, sống thực, sòng phẳng, mạng dạng đấu tranh những bất công, chấp nhận những gì mình đã làm, trách nhiệm và nhìn thẳng vào sự thật. Và, đồng thời luôn coi trọng Tổ quốc, quê hương là đỉnh cao của cuộc sống như :

 

Anh đừng trách
Bởi tính tôi con người chân chất
Ăn thẳng nói ngay nên dễ mích lòng
Đất nước nghèo
Bởi có thù ngoài và luôn có giặc trong
Sao cứ chủ quan rồi lặng im phi lý
Chuyện chống ngoại xâm đến nay còn lý thú
Giờ nhìn mặt nhau và tự thấy thấm đòn.



Anh có nghe
Lòng dân đang thổn thức
Vì quê hương luôn trăn trở, tự hào
Lao động nghèo, trí thức thật được bao nhiêu
Rốt cuộc họ bị bào mòn suy nghĩ
Xã hội ta, còn hoài vị kỷ
Chưa thoát ra những bảo thủ, giả vờ
Cây cuộc đời trong ruột bị héo khô
Những hoa trái cứ thờ ơ vay mượn.


TRÚC THANH TÂM

 

-         Là một con người từng trải, đã đi dọc suốt chiều dài của đất nước, ngắm nhìn, nghe ngóng từng hơi thở của lòng người. Phân tích, nhận định từng khía cạnh thực, giả một cách khách quan giữa xã hội xưa và nay. Bằng chứng cho ta thấy qua bài thơ :

 

                                              Đời cho ta vay nhiều lắm

Tình yêu, danh lợi, khổ đau

Kiếp nầy, ta xin mắc nợ

Vốn, lời trả ở kiếp sau!

 

Mẹ, cha nuôi ta khôn lớn

Cắm sào mới biết sông sâu

Ta làm thơ tặng người lạ

Bao giờ tặng mẹ cha đâu!

 

 

Cám ơn đời còn sự thật

Cám ơn những con thiêu thân

Chúng ta đang điên hay tỉnh

Nói, làm trái với lương tâm!

 

                                                TRÚC THANH TÂM

 

-         Thi sỹ Trúc Thanh Tâm luôn ca ngợi quê hương Việt Nam bằng nhiều hình thức và màu sắc như đánh thức mọi người đâu là Nguồn cội, đâu là Quê cha đất tổ. Trúc Thanh Tâm cũng nêu lên tất cả những phong cảnh thiên nhiên, những di tích lịch sử mà ông cha ta đã bao đời gầy dựng là một kho tàng qgiá. Và, chúng ta là những thế hệ con cháu, đi sau cần cũng như phải làm gì cho càng ngày càng được tốt đẹp hơn.

 

Liên Trì chuông mãi đong đưa
Ta thăm Mũi Né, cát xưa xửa hồn
Poshanư, mắt huyền sương
Nhớ mùi bánh Rế, tình thương tình chờ!

 

TRÚC THANH TÂM

 

-         Trúc Thanh Tâm cũng luôn da diết với cuộc sống hiện tại và mai sau. Với tâm hồn Thi sỹ ước mong của Trúc Thanh Tâm là làm sao mọi người luôn luôn được no ấm và con cháu chúng ta được đi đến trường một cách hồn nhiên.

 

 

Em những sáng đưa con vào trường học
Đời con là đời anh của xa xưa
Nên cần học nhiều điều lễ nghĩa
Dù chung quanh cám dỗ, lọc lừa



Khi xã hội ngày càng thêm phức tạp
Không thể con mình dốt tiếng quê hương
Hiểu thấu đáo cội nguồn và tranh đấu
Khi đủ lớn khôn rời ghế nhà trường

 

TRÚC THANH TÂM

 

-         Trúc thanh tâm cũng không ngần ngại phản ảnh lại những thói hư, tật xấu, tiêu cực có chiều hướng làm băng hoại xã hội.

-          

   Đã từ lâu, những người tiêu dùng mà nhất là những bà nội trợ, thường kêu ca rất nhiều về cái cân, mà chủ yếu là sự sai lệch của nó. Sự sai lệch rất phổ biến, từ những quầy hàng tư nhân đến cả quốc doanh, hợp tác xã. 

 

TRÚC THANH TÂM

 

  Những ý nghĩ cùa một con người như Trúc Thanh Tâm thật ít ỏi trên cõi đời nầy. Trúc Thanh Tâm thật xứng danh với « Cây Trúc Xanh Miền Tây Nam Bộ « 

   Qua chặng đường 60 năm nhìn lại, qua những thành quả đạt được, qua những bài thơ ca ngợi tình yêu (Quê hương đất nước, nhân loại, gia đình, lứa đôi) Là những bài học khá bổ ích cho thế hệ mai sau.

   Với tình bạn thơ, văn, với lòng trân trọng tôi xin chúc mừng, chia vui cùng Thi sỹ Trúc Thanh Tâm và gia đình. Luôn chúc Thi sỹ được nhiều sức khỏe, đồng thời có thêm nhiều Tác phẩm mới, hay phục vụ cho Đọc giả trong và ngoài nước.

    Trân trọng

 

Thủy Điền

CHLB Đức

Ngày 15, tháng 6, năm 2016

 

 

 

120-Hai Lần Chết

 

    Giữa đêm khuya, bổng dưng nghe tiếng la ơi ới bên phòng mẹ. Quang mở cửa phòng chạy vào xem mẹ mình có chuyện gì mà nghe khủng khiếp thế. Quang hỏi ?

-Có gì mà mẹ la to thế ?

-Không có gì đâu con, về phòng ngủ đi, mẹ nằm mộng vậy mà.

 

    Quang lấy tay xoa lên vầng trán mẹ và lấy khăn lau cho bà vì vầng trán sau cơn mộng chảy ướt đầm đìa. Chàng hỏi ? Mà chuyện gì vừa xảy ra, mẹ kể cho con nghe nào, xem có giúp mẹ được gì không. Sao con thấy có vẻ khủng khiếp thế. Mẹ đã nói khuya rồi, con hãy về ngủ đi, mai mẹ sẽ kể hết cho con nghe.

-Dạ, thôi được, con về phòng đây.

 

    Về bên phòng Quang không sao ngủ được, cứ sợ mẹ mình đang bị ám ảnh việc gì rồi xảy ra những cơn mộng khác, ảnh hưởng đến tinh thần. Chàng cứ trăn trở cho đến sáng.

   Sáng dậy, hai mẹ con ngồi bên ly trà, vừa nhâm nhi, vừa kể cho Quang nghe hết cơn mộng đêm qua. Bà nói :

 

    Đêm qua mẹ thấy bà nội con về báo mộng. Rằng, cha con chưa chết Quang à, cha con còn sống và ở tận mút xa, bà bảo mẹ con mình hãy chuẩn bị mà đi đón cha về, mẹ mừng quá và ôm bà chầm chập và một lúc sau mẹ gặp lại cha con ngay một bến đò, mẹ nhào tới ôm cha, cha vang rộng vòng tay đón mẹ rồi đứng khóc sướt mướt như đứa trẻ lên năm. Khi con sang phòng mẹ mở cửa là lúc cha con biến mất và mẹ tỉnh dậy, nhưng mệt mỏi vô cùng.

  

    Cha Quang là một Sĩ quan trong QLVNCH cũ bị mất tích vào đầu xuân năm 1965 tại Bà Rịa- Vũng Tàu trong một đêm bị tấn công bất ngờ, Kể từ ngày đó mẹ Quang hay đến đơn vị hỏi xem có tin tức gì về ông ta không ? Thì đơn vị bảo rằng cha Quang đã chết. Dù biết vậy, nhưng mẹ Quang vẫn cứ nuôi hy vọng, bà luôn nghe ngóng đi xem bói hết ông thầy nầy, đến bà thầy nọ, thậm chí tìm đến những nơi rất xa. Ai ai cũng bảo là cha Quang đã chết lâu rồi, hãy về lập bàn thờ mà cúng vái. Nghe lời thầy bói cũng như những lời đơn vị báo nên về nhà bà lập bàn thờ, thờ ông.

  

    Cuối năm 1972, tự dưng giữa đêm khuya bà nằm mộng thấy bà mẹ chồng về mách. Rằng, chồng mình chưa chết, sáng thức dậy bà nửa tin, nửa ngờ vực vì chuyện nầy đã xảy ra ngần tám năm nay chứ đâu phải mới đây đâu. Rồi ngày tháng vì bận bịu công việc bà bỏ qua và quên dần đi.

  

    Thật chuyện đời cái gì cũng có thể xảy ra cả, câu chuyện khó tin, nhưng có thật. Ngày 18, tháng 3, năm 1973, giữa trưa nắng oi bức bà nhận được giấy báo của cơ quan quân đội báo về. Rằng, chồng bà đã được trao trả tù binh (*) và hiện đang ở tại trại an dưỡng Biên Hòa. Giấy báo ghi rõ tên họ và đơn vị phục vụ trước đây và gia đình hãy nhanh đến liên lạc với cơ quan hữu trách để làm thủ tục lãnh người thân về.

  

   Cầm tờ giấy báo trong tay, bà như chết đi, sống lại rung rẩy cà người, lính quýnh chẳng phải biết toan tính thế nào. Bao người xung quanh thấy vậy nên động viên, chúc mừng và tìm mọi cách giúp đỡ bà trong cơn khủng hoảng nầy.

  

   Sau ngày đó mọi người mướn xe đi Biên Hòa theo địa chỉ đã ghi rõ trong thư. Quả thật, khi đến nơi bà liền nhận ra ông ngay. Sự hội ngộ sau tám năm xa cách, chỉ biết ôm nhau, dâng tràn nước mắt mà chẳng nói thành lời. Nhưng ông giờ già quá và gầy yếu hơn xưa rất nhiều, thậm chí hai chân bị liệt và phải ngồi xa lăn. Bao nhiêu người thân đi theo cùng, mừng quá chỉ biết khóc, cứ khóc, không dừng nỗi những dòng lệ xúc động.

 

    Khi gặp nhau xong, người ta chưa cho về nhà ngay, mà phải ở lại ba tuần nữa để khám sức khỏe và nghỉ an dưỡng cho thật bình phục mới được xuất trại.

  

    Đúng ba tuần sau như quy định, bà và gia đình cùng nhau lên đón ông về, khi đến thì thấy ông tươi tỉnh hơn trước nhiều , ai ai cũng mừng ra mặt. Về đến nhà gặp lại vợ con, người thân ông vui hẳn ra, thí điều muốn đứng dậy khỏi xe lăn mà đi dăm bước để nhìn lại cảnh cũ sau bao ngày xa cách. Cơn vui chưa tàn, nỗi buồn chưa vơi, ngày hội tụ chưa  hoàn toàn, không rõ vì mừng quá xúc động hay sức khỏe không tốt, ông trở bệnh lại và qua đời sau đúng một tháng trở lại quê nhà, gặp lại vợ con và người thân thuộc.

   Khi đám tang ông xong. Lẽ ra, bà phải buồn nhiều, nhưng ngược lại bà vẫn bình thản. Bà con họ hàng ai cũng lấy làm nuối tiếc. Nếu có ai hỏi ? Bà bảo bà đã thỏa nguyện lắm rồi, khi bà và các con đã được gần và nhìn ông lần cuối.

   Cái bàn thờ kia, sau tám năm vừa mới được dọn xuống và bây giờ lại bắt đầu dọn lên ngay chỗ cũ.

 

(*) Ngày trao trả tù binh tại Lộc Ninh 13, tháng 3, năm 1973

 

THỦY ĐIỀN

Ngày 07, tháng 6, năm 2016

 

 

 

119-Người Ăn Mày Tốt Bụng

 

   Trời tháng năm Thành phố Barcelona thuộc Tây Ban Nha bắt đầu oi bức. Buổi sáng hay có những cơn mưa nhỏ rồi tắt, sau đó nóng bừng lên, hầm hừ không chịu nổi cộng lớp người đông, chật tạo nên bầu không khí khó thở vô cùng. Giữa trưa trời đứng bóng nhà tôi bảo.

-Anh ơi, đói bụng quá, thôi mình tìm quán nào ăn tạm một miếng rồi đi tiếp.

-Ừ, thôi mình vào quán Snack Bar nầy ăn bánh mì thịt hay Pizza vừa nhanh, vừa tiện khỏi chờ đợi lâu.

-OK, thôi ta vào.

 

 Tiếng Tây Ban Nha thì không biết, nhìn mấy cái hình quảng cáo, chỉ chỏ và nói vài tiếng anh bập bẹ, cô bán hàng nửa hiểu, nửa không và đưa cho cái Karte bảo lại cái bàn hai người ngồi, cô ta sẽ lại hỏi ăn gì ngay. Nghe lời cô lại ngồi chờ, ngỡ cô lại liền. Ai ngờ ! Chờ hơn mười lăm phút chẳng thấy con ma nào đá động đến mình, không biết cô quên hay vì lý do nào đó mà đành bỏ bọn tôi đói ngoeo. Quê quá, hai vợ chồng đứng dậy đi ra, nhìn cô, mà chẳng thấy cô có thái độ gì cả.

 

  Ra khỏi quán đi thêm một đỗi khoảng một trăm mét, ra đường cái, chật nứt người, nơi lên xuống của bến xe điện ngầm, nhà tôi bảo.

-Mình vào ăn thử nhà hàng bán đồ biển xem sao, mang tiếng đi Tây Ban Nha mà không thưởng thức  được món đồ biển nào hết, thì thật là tệ.

-Vào thì vào.

 

 Nhìn trên quầy bán, thấy họ trưng bày các kiểu, vừa đói bụng, vừa thèm nên vội gọi món nầy, món nọ định ăn cho đả miệng rồi đi tiếp. Trời ơi ! Đĩa quảng cáo thì để ba bốn con tôm, cua , mực, cá lòng tong chiên, mình tưởng là như vậy, nên đặt hàng. Đến khi họ mang ra mỗi thứ có một con và để lên bàn cái ạch rồi đi chỗ khác ngay (Có nghĩa là ăn đi, chẳng một lời chúc dịu ngọt) Thú thật bao nhiêu đó không đủ nhét kẻ răng cho một người đang đói bụng chớ đừng nói cả hai và hỏi Tại sao ít thế ? Bác bồi trả lời gọn nhẹ, nếu y như đĩa quảng cáo bạn phải trả gấp ba lần. Bác bồi vừa nói xong tôi chợt nghĩ ra mình bị một lần nữa rồi. Thôi, lỡ đẳt hàng thì phải ăn và không thèm gọi thêm nữa.

 

 Ăn xong ra hàng ghế công viên trải dài định ngồi cho khỏe bụng rồi đi chơi tiếp, hết ghế nên phải đành ngồi gần người Ăn mày. Trong ông rất dơ dáy, râu ria dài tới bụng giữa trưa nắng mặc năm, bảỷ cái áo, nhìn ông mà mình thấy nực theo. Ông ta ngồi ăn cơm, buổi cơm của ông rất đơn giản, cơm màu tím như khoai mỡ ở xứ mình trộn mấy con tép con đựng trong bọc mũ, chẳng muỗng nĩa gì cả, cứ thọc tay vào, bóc ra là ăn ngay và ăn một cách rất ngon miệng. Tôi vừa nhìn lén, vừa móc điếu thuốc ra hút,  không may cái bật lửa của tôi hết ga, giữa công viên trải dài người ngồi thật là đông đúc, còn hai bên vệ đường toàn là nhà hàng, quán ăn chẳng thấy ở đâu bán bật lửa cả nên đành ngậm điếu thuốc cho đỡ ghiền, ông Ăn mày bên kia cũng vừa ăn, vừa nhìn lén lại tôi. Ông hiểu ra ngay anh chàng nầy thiếu lửa và dừng buổi ăn lại, đứng dậy sang đến chỗ tôi, lịch sự bật ngọn lửa cho tôi mồi điếu thuốc rồi cười duyên một cái và trở về chốn cũ ăn tiếp.

 

 Một lát sau, vừa ăn xong cứ ngồi nhìn tôi chăm chăm, chờ tôi hút hết điếu thuốc sẽ hút điếu khác và sang cho lần lửa thứ hai. Chờ hoài thấy tôi không hút nữa, nên đứng dậy sang chỗ tôi bỏ cái bật lửa ga lên ghế tôi ngồi, chẳng nói lời nào và vác cái túi xách đi nơi khác. Tôi hiểu ý ông ta là ở đây mua bật lửa rất khó và biết tôi sẽ hút nữa mà không có lửa, nên ông ta tặng tôi một cách khéo léo như thế. Thấy vậy, tôi bảo nhà tôi ngồi đợi và chạy theo ông ta nhét năm đồng gọi là có qua, có lại.

 

 Vừa đi dạo, vừa hút điếu thuốc, cầm cái bật lửa của người Ăn mày tôi thầm nghĩ, nếu không có nó mình nhịn một buổi về Hotel hút cũng chẳng sao. Nhưng một điều tại sao người Ăn mày rách nát thế kia lại tốt bụng trong lúc mình thiếu thốn và cần đến nó. Còn cách đây chừng vài chục phút những người giàu sang, lành mảnh từng là chủ quán mà lại đối xử với một người khách hàng từ phương xa đến một cách tệ bạc như vậy. Thật đời hai mặt như đồng tiền chì một bên là hình ông Ngô Đình Diệm, một bên là hình bó lúa không khác.

 

Thủy Điền

Ngày 05, tháng 6, năm 2016

 

 

 

118-Xóm Lục Bình

 

   Mỗi ngày có dịp đi ngang qua Đầm Lục bình, cũng đều nghe tiếng oi ói, người nầy, mắng người kia. Bởi, giành giật mấy cọng Lục bình to, nhỏ. Trông, rát tai và xấu hổ vô cùng.

  

   Giữa đoạn sông Hậu, phía tay phải có con sông rẽ khá lớn, chiều ngang gần năm chục mét nối liền giữa Sóc Trăng đến ngã ba Đại Ngãi khoảng ba chục cây số. Đoạn cuối của con sông nầy có hai cái Đầm rất lớn như hai cái lỗ tai. Mỗi khi nước lớn, những đám Lục bình nhỏ, to từ thượng nguồn kéo về và chạm phải dòng nước lợ của biển Đại Ngãi tràn vào, những đám Lục bình ấy bị tạc sang hai phía Đầm rồi lâu ngày trở thành một rừng Lục bình hoang vĩ đại.

 

   Trước ngày giải phóng, chẳng ai thèm động đậy đến nó và xem như một Đầm hoang. Sau ngày giải phóng khoảng hai mươi năm về trước cũng vậy. Nhưng kể từ năm 2000 bắt đầu có phong trào « Thủ công nghệ » Như đan giõ, làm nón, và những phần bao của chậu hoa v.v.. bằng thân Lục bình phơi khô để xuất khẩu. Công việc nầy đã giúp biết bao người không có công ăn việc làm, nghèo khó, trở lại cuộc sống bình thường và khấm khá hơn. Vì, không phải bỏ vốn, chỉ bơi xuồng nhặt của thiên nhiên về phơi khô, bán ra tiền, rất là đơn giản. Bước đầu ít ai làm, nhưng mãi đến năm 2003 người ta bắt đầu ùng ùng sắm xuồng đi kinh doanh, lớp người tự vớt ngoài sông, lớp người thu mua tại chỗ với giá rẻ và về bỏ mối lại cho Công ty. Người ta thường nói « Núi ăn thét cũng mòn » Và, số Lục bình gần nơi những người hành nghề nầy cũng cạn dần và dường như hết sạch. Vì nhu cầu sản xuất quá lớn nên họ phải thân chinh, lặn lội đi vùng khác. Và, cuối cùng có vài ba hộ phát hiện ra Đầm Lục bình ở cuối dòng sông cạnh bờ biển Đại Ngãi.

 

   Lúc đầu có vài ba hộ, ăn nên, làm ra ngày nào cũng vớt đầy ghe và bán được rất nhiều tiền, mọi chuyện đều êm ấm. Rồi dần hồi lời ra, tiếng vào thiên hạ ùng ùng kéo nhau đến. Nghe đâu họ từ huyện Rạch sõi tỉnh Rạch giá kéo về. Và, từ đó họ bắt đầu phân vùng, cấm cột và làm những cái chòi nhỏ để ở và canh chừng người vớt lén. Chỉ đúng một năm thôi, không biết ở đâu ? Họ kéo đến quá trời, quá đất. Ngoài người Rạch Sõi còn có cả dân tứ xứ nữa. Kể từ đó họ cất những nhà sàng trên Đầm để ở luôn, hể bụi Lục bình nào về đến là họ vớt ngay. Chính từ chỗ ấy mà sanh ra sự giành giật, mắng xé với nhau thật là thô bạo. Mỗi khi có ai đi ngang trên đường, đứng nhìn vào lúc chiều xuống, nước dâng, Lục bình từ xa kéo về, nơi đây xôn xao như một cái chợ không hơn, không kém và trộn lẫn những tiếng chưởi thề thật là khủng khiếp, như ta thường gặp hàng ngày ngoài xã hội.

 

   Cuộc sống êm ả không chịu, tiếng tai dần lan đến Chính quyền qua những vụ xô xác lẫn nhau. Từ Đầm Lục bình hoang vắng, tự dưng trở thành khu Kinh tế trọng điểm, nhà nước bắt đăng ký tất cả, đóng thuế má theo số lượng vớt được, ai chịu, thì họ mới cho hành nghề, còn không thì bị đuổi về quê tức khắc.

 

  Qua thời gian thử thách, có những người không kham nổi, vì thấy không có lời, đành bỏ về quê trở lại, còn những người có tiền thì bỏ ra thầu từ khu vực. Ngỡ đâu của trời, không vốn, công ăn việc làm được ổn định, khấm khá, giàu to. Không ngờ ! Đến giữa 2010 Công ty xuất nhập khẩu bị dẹp tiệm, bởi, hàng xuất khẩu không còn đối tác chiếu cố nữa, nên những nhà thầu nơi đây cũng lụi dần theo và các chủ thầu phải đành tháo gỡ những vật vụng cần thiết về quê một cách trình tự.

 

   Đầm Lục bình ngày xưa hoang vắng, sau hơn mười năm ì đùng như cái chợ, đã chính thức được trả lại sự hoang vắng bình thường.

   Và, những đám Lục bình mới cứ nối tiếp nhau, chất chồng, mọc thành đống tiếp tục như xưa, xanh tươi, vui cười trong nắng mới.

 

Thủy Điền

Ngày 03, tháng 5, năm 2016

 

 

  

117-Tháng Ba Bà Già Đi Biển

 

Đây là câu chuyện có thật của anh Lê Văn Đức ở Hoà Lan kể trong tiệc nhậu ngày 15, tháng 4, năm 2016 về gia đình anh, vì thấy tôi viết văn, làm thơ nên anh cho phép tôi viết lại câu chuyện nầy, nếu có dịp đăng lên báo mạng cho bà con đọc chơi.

 

 

   Trên đường đi chợ về, bỗng dưng cô Nga làm việc trong ban Bưu điện xã gọi.

-Bác hai vô đây, nhận thư của anh Dương ở Hoà Lan gởi về nè.

-Ừ, nó gởi về hồi nào vậy bây ?

Dạ, cũng cả tuần rồi, mà không thấy bác đi ngang, nên không có đưa cho bác được. Thú thật ngày ấy khi có thư ngoại quốc gởi về, người phát thư gặp thì mới trao lại, ngoài ra chẳng ai ở không mà mang đến tận nhà cho mình. Sự việc nầy có hai mục đích rõ rệt.

1-      Là khi trao thư tận tay, không ít hay nhiều người phát thư cũng có ly Cà-phê sáng.

2-      Là xã không có nhân viên đi phát thư.

-Cám ơn cháu và móc túi thưởng cho cô ta ba đồng.

  

   Về đến nhà, bỏ giỏ đệm đồ ăn xuống, xé thư ra, ngồi đọc. Trời đất ơi! Mầy điên rồi hả Dương ? Chỉ nằm chiêm bao thôi, mà mầy bắt tao ra tận ngoài bắc lấy cốt ba mầy về. Con điên thật rồi con ơi, từ Vĩnh Long ra đó, con tưởng như mẹ đi chợ Long Hồ mua cá, mua rau, rồi còn giấy tờ đủ thứ nữa, tiền nông, gạo nước dọc đường, hơn nữa biết ổng ở đâu mà tìm. Tay chóng lưng, đứng dậy, buồn bã, đem bức thư để sau lưng bức hình ông Nội trên bàn thờ.

  

   Sau giải phóng một năm, kể từ ngày ông Lang, ba Dương đi học cải tạo ngoài bắc, Dương vừa lập gia đình và chín anh em đều sống với mẹ tại huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long . Long Hồ là quê của bà, còn trước ngày giải phóng thì ở quận nhất Sài- gòn. Và, từ đó gia đình Dương bắt đầu lâm vào cảnh nghèo nàn, vất vả, thốn thiếu mọi bề, bởi, không có ruộng đất canh tác, thất nghiệp dài dài như bao gia đình khác. Vì nghèo quá Dương tính nước cùng, là đi vượt biên. Nếu may thì sống ngon lành, còn không may thì chết, còn hơn ở nhà kiểu nầy cũng chết và chết lần, chết mòn. Nhưng muốn đi vượt biên là phải có tiền, đàng nầy Dương chẳng có một xu nào cả (Câu hỏi ? Được đặc ra liệu phải làm thế nào) Cũng may, ba vợ Dương cho Dương một chiếc xuồng chạy bằng máy đuôi tôm. Dương định dùng nó để đi vượt biên, về nhà Dương rủ chín anh em đi cùng, nhưng tất cả đều từ chối và cho rằng, đi kiểu nầy khi ra khỏi biển chừng năm trăm mét là toi mạng ngay. Tuy mọi người nói đúng, nhưng Dương nhất quyết một lòng ra đi và cuối cùng cũng rủ ren thêm được mười người bạn khác cộng vợ chồng Dương và đứa con nhỏ năm tháng, tất cả là mười ba người. Sỡ dỉ Dương rủ được số người nầy là gì Dương nói dối với họ là xuồng của Dương đi chỉ là Taxi, sẽ đưa ra gặp tàu lớn đậu ngoài khơi, nên họ mới dám đi, còn nói thật như anh em trong nhà lúc trước thì cũng chẳng có con ma nào can đảm theo cùng.

  

   Năm ấy tháng ba, trời yên, biển lặng, người đi biển thường gọi « Tháng ba bà già đi biển « Hàm ý nói thời tiết rất tốt. Giữa khuya, Dương cho khởi hành, đến mười giờ sáng hôm sau thì phát hiện được một giàn khoan dầu xa xa đang có lửa bốc lên. Dương mừng quá và cả số người trong chiếc xuồng cũng mừng, hò theo, mặt nước biển lúc bấy giờ rất êm ả và phẳng lặng, như ta đang đi trên sông không hơn, không kém. Ngỡ chừng một giờ nữa là sẽ đến đó nhờ họ cứu giúp. Nhưng không! Thấy thế mà đến ba giờ chiều mới đến nơi, ai cũng bảo, sao mà xa thật. Khi đến nơi, họ cứu giúp, cho ăn uống rất tử tế rồi chuyển sang chiếc tàu lớn mà họ dùng để ra vào đất liền, nghỉ một ngày. Hên quá, khi vừa lên tàu lớn, ba tiếng sau, thì bão ập đến, nhưng đối với một tàu lớn thì không sao, phải chi còn đang đi dưới xuồng một đoạn nữa. Có lẽ, tất cả đã dâng cho cá mập hết rồi. Sau một ngày nghỉ dưởng, họ chở mọi người thẳng vào trại tỵ nạn Malaysia và cho nhập trại.

  

   Ở trại được một năm rưởi, gia đình Dương được chính phủ Hòa Lan đón nhận trên tinh thần nhân đạo và đưa sang Hoà Lan sống cho đến ngày nay. Khi sang Hoà Lan họ cho học tiếng người một năm và Dương xin vào được hãng chế tạo Lò sưởi ấm. Thời gian làm việc được một năm, Bỗng dưng một đêm, Dương nằm chiêm bao thấy ba mình về báo mộng. Rằng « Ba đã phù hộ cho vợ chồng con đi vượt biên đến nơi, đến chốn và ba báo cho con rõ, ba đã ở tù tại trại Hoàng Liên Sơn- Yên Bái, trại K7- Z21, nhưng đã chết lâu rồi, con hãy nói lại với mẹ con ra đó lấy xác ba về, ba nằm nơi xứ lạ quê người cô đơn lắm » Rồi Dương giật mình thức giấc, mồ hôi ướt đẩm trên vầng trán. Đêm ấy, Dương không ngủ được nữa và kể lại cho vợ mình nghe tất cả. Ngỡ bà cùng chung ý nghĩ. Ai ngờ ! Bà bảo, ông vớ vẩn nằm chiêm bao rồi nói lung tung.

  

   Vì có bản tính duy tâm, nên mấy ngày trời, vừa đi làm, vừa suy nghĩ. Dương quyết định viết bức thư gởi về mẹ mình, kể rõ hết đêm chiêm bao hôm ấy và muốn bà mọi cách phải ra tận ngoài bắc xem sao, dù bao nhiêu tiền Dương cũng chịu hết. Thư từ qua lại hai ba lần, mất gần mấy tháng trời, cuối cùng mẹ Dương chìu lòng Dương. Dương gởi về cho bà đường dây đen năm ngàn Đô-la, hồi năm 1989 số tiền nầy lớn lắm, đủ trang trải cho công việc lo lót và đi đường. Tiền về, bà bắc đầu xin giấy phép đi thăm chồng từ ấp- xã- huyện- tỉnh và cuối cùng phải đến chi nhánh Bộ Nội vụ tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Nơi đây họ xem xét giấy tờ xong và xác nhận : Chồng bà là Đại tá Lê văn Lang đang học tại Hoàng Liên Sơn-Yên Bái trại K7- Z21, sống hay chết thì họ không nói. Bà mừng quá và về nói lại các con là Bộ Nội Vụ nói đúng y như thằng Dương viết thư về. Khi nhận giấy xong, bà lập tức ra bắc ngay. Khi đến nơi bà phải mất tám ngày, nào tàu hỏa, nào xe hơi, nào mướn người dẫn dắt. Bà kể « Hồi ấy người miền bắc rất ác cảm với người miền nam, hơn nữa nghe bà là vợ một Sĩ quan cấp tá ra thăm chồng, lại càng ghét hơn » Do đó việc quan hệ, hỏi thăm đường xá rất khó, hỏi ai ? Họ đều bảo là không biết, chỉ bỏ tiền ra mướn họ chỉ đường, thì may ra. Nói thì nói vậy, nhưng cũng còn người tốt, mặc dù phải bỏ tiền ra mướn họ và cuối cùng họ đưa bà đến trại K7-Z21. Đến nơi, văn phòng trại bảo, ông Lang đã chết vì bệnh rồi, chết ngày 24, tháng 6, năm 1978 và được anh em tù chôn dưới chân đồi, cách trại năm trăm mét. Hồi đầu khi nghe ông chết bà bật khóc, nhưng rồi cố giữ bình tĩnh và mướn những người dân sống gần đó, lấy cốt ông lên, làm vệ sinh và gói gọn mang về Vĩnh Long chôn cất.

  

   Sau gần một tháng đi và về, mang được hài cốt chồng về tận quê nhà, mặc dù chồng đã chết, nhưng bà rất toại nguyện và thầm nghĩ, chuyện gì trên đời nầy đều cũng có thể xảy ra. Và, những cơn mộng cũng có thể biến thành sự thật.

 

Thủy Điền

 

Ngày 20, tháng 4, năm 2016

 

116-Chỉ Còn Tình Bạn

 

 Trên chuyến bay từ Việt Nam trở về Hòa Lan gần mười lăm tiếng đồng hồ. Ông Đức cứ mặt hầm hầm, chẳng nói một lời. Dường như đang bực mình và bất đồng một điều gì đó. Bà hỏi ?

-Sao? Kỳ nầy về, rồi qua, thái độ ông lạ thế.

-Bà để cho tôi yên. Một lát sau ông Đức bảo. Tôi nói để bà biết, là kể từ bây giờ, tôi không nói là tôi từ tất cả người trong nhà hay không bao giờ về Việt nam nữa. Nhưng những người ấy đã làm tôi chán ngấy rồi và Việt nam không còn thích hợp với tôi nữa. Bà lặng thinh, mắt lim dim ngủ.

-Tùy ông.

 

    Kể từ năm 2008 trở lại đây, các con đã trưởng thành và vợ chồng ông Đức cũng bắt đầu già đi, nên cứ mỗi xuân về là ông xin phép hãng nghỉ một tháng, để hai chợ chồng về quê thăm quê nhà và luôn tiện ăn tết. Trước khi về Việt Nam ông nghĩ mấy đứa em mình bây giờ đứa nào cũng khá cả, vì trước đây ông và bà đều có gởi tiền về giúp một người một ít, gọi là làm vốn, nên khi về ông cũng chẳng mang nhiều thứ hàng hóa như bao người khác. Và, đúng vậy, Khi ông vừa về tới Phi trường Tân Sơn Nhất thì các em của ông ra đón đầy đủ. Thậm chí bọn chúng còn có xe riêng bảy chỗ, khỏi cần thuê xe tiếp về Vĩnh Long. Trên đường về nhà ngoài một trăm cây số, anh em vui vẻ, kể nhiều mẩu chuyện vui thật là hào hứng. Lịch trình về một tháng, thí điều ông muốn gia hạn thêm vài tuần nữa để tận hưởng hết những tình nghĩa gia đình.

  

   Nhưng không ngờ ! Sau vài ngày bên nhau, anh em tổng cộng mười đứa, đều lập gia đình và cũng có vài người đã làm sui gia và lên chức ông bà. Tất cả chúng đều có ý nghĩ như nhau (Giống y như được đào tạo chung một trường lớp) không hơn, không kém là bằng cấp « Moi tiền » Chúng moi bằng nhiều cách khác nhau : Thằng giàu thì định mở thêm cơ sở, thằng trung trung thì định sửa lại nhà, thằng kha khá định sắm chiếc xe hơi, thằng kém thì định cất lại ngôi nhà, con thì muốn mua thêm miếng đất. Ôi đủ kiểu. Khi nghe mọi người trình bày xong, ông cười và nói.

-Các em đã nói về nỗi khó của các em hết chưa ?

-Dạ, chỉ có bấy nhiêu thôi anh. Ông hỏi tiếp ?

-Chú A ở Sài gòn một năm về thăm mộ ba má mấy lần ?

Dạ 13 năm nay gì lu bu công việc nên em về chỉ có một lần.

-Mộ ba má tranh, sậy lên tới đầu, sao chẳng thấy ai làm sạch sẽ vậy.

-Dạ, phải chờ tết hoặc thanh minh mới làm được anh.

-Nhà thờ ba má xập lên , xệ xuống sau vẫn để y.

-Chuyện nầy của chú Út.

-Chú Út nghèo, anh giàu thì bỏ luôn sao ?

 

  Sau những câu hỏi vặn đầu, bà con bắt đầu lui xa dần. Ông nói thêm.

-Các em có thường xem Tivi mùa đông ở Hoà Lan, Châu âu như thế nào không ?

-Dạ có.

-Nếu có xem, nhớ xem cho hết Phim, có khi gặp anh đang sáng sớm phải cạo tuyết, rồi ngậm ổ bánh mì chạy vào hãng đứng tám tiếng đồng hồ , ngày nào cũng như ngày nấy. Còn các em ở quê nhà sung sướng quá. Sáng ra Cà-phê, Phở, Hủ tiếu, đi xe hơi, chiều nhậu. Thế mà còn móc tuí anh nữa làm gì.

 

   Một tuần sau chúng rủ nhau tổ chức đi quán nhậu. Ông hỏi ?

-ở nhà có quán ăn gần 100 chỗ ngồi, muốn gì có nấy. Tại sao phải đi nơi khác cho phí.

-Không, chỗ nầy đặc biệt lắm anh ạ.

-Thôi đi thì đi, cuối cùng tiệc rượu gần chục người, no say ông lãnh hết và vài ngày sau nghe được là nếu đãi ở nhà thì ngày hôm đó thằng em mình bị mất một khoảng tiền rất lớn là hơn ba triệu đồng. Khi nghe xong ông lắc đầu và muốn quây về Hoà lan lập tức.

 

   Buồn quá ông đi lang thang ngoài đường, vô tình gặp thằng bạn nghèo năm cũ, đang chạy Xích lô, bảo lên xe, hắn chở về nhà, bảo vợ bắt con gà làm thịt, mua nửa lít rượu đế, hai thằng nhâm nhê một trận, tàn tiệc xong, mạnh ai nấy về nhà, mà không nghe một tiếng « Tiền » dăng dẳng bên tai.

 

   Tuần cuối cùng, trước khi về Hòa Lan, ông lại gặp thằng bạn khác, khá hơn đang làm quảng lý một Công ty nhỏ, khi thấy ông, bỏ hết công việc cho người khác, kéo về nhà làm năm gà, bảy vịt linh đình đãi bạn. Sau đó lấy xe công ty chở hai vợ chồng ông đi Vũng tàu hứng mát trong những ngày chót mà chưa hề mở miệng nói một tiếng tiền. Từ A đến Z, người bạn cũ đều lo tất cả và chỉ xin ông một điều là khi nào có về Việt Nam thăm quê thì nhớ cho ông ta hay để đi rước, chớ đừng âm thầm như lần nầy thì buồn quá.

  

   Khi ra về ông nói với bà. Thật tôi không hiểu nổi trên cõi đời nầy. Tại sao người dưng lại đối xử với ta như thế và anh em trong nhà thì ngược lại. Và, tôi nói cho bà biết rằng bên tôi hay bên bà cũng thế, tôi không từ ai ; cũng chẳng nói là không về Việt Nam nữa. Vì hiện tại những ám ảnh ấy đã ăn sâu vào lòng tôi rồi.

 

   Và, còn một ngày nữa là hết ngày nghỉ cũng như phải trở lại Hòa Lan, ông tạt sang qua thằng bạn nghèo năm cũ từ giả và móc hai trăm Euro cho cháu ăn bánh, rồi ra về. Dọc đường miệng cứ lầm bầm « Chỉ còn tình bạn » Tình nhà đã bị đồng tiền cuốn hút mất từ lâu rồi. Tất cả họ chỉ còn là cái xác mà thôi.

 

Thủy Điền

Ngày 19, tháng 4, năm 2016

Thuy-Dien-Thivanviet.Jimdo.com

 

 

115-Chết Vì Nước

 

    Trên đường bơi về nhà, ông bà Quánh cứ cãi nhau lên tục, thí điều mấy con cá đang lội dưới sông, phải lặn đi nơi khác, vì không chịu nổi sự mắng nhiếc, cằn nhằn của bà Quánh. Đoạn đường từ Chợ Cai lậy về ngã ba Bình phú khoảng bảy cây số đường sông, bà đã mấy lần đòi nhẩy xuống dòng sông tự tử. Nhưng vì thấy mình có lỗi nên ông đành ôm bà mà năn nỉ. Thế mà, bà vẫn khóc sướt mướt như đứa trẻ vừa bị ăn đòn.

 

    Khoảng gần năm năm nay, cây trái nhà vườn ế ẩm, mất giá, Dừa chỉ năm trăm đồng một quả, mà chẳng ai thèm đến mua, thử hỏi làm sao mà sống, khi gia đình bảy tám miệng ăn. Nên ông đành nghĩ ra cách phá vườn, lập trang trại nuôi heo nhỏ. Và, ông nuôi được gần ba chục con heo. Mấy năm đầu công việc rất suông sẻ, trôi chảy, tháng nào ông bà cũng bán được năm ba con heo ngoài một tạ, thâu về gần mười lăm triệu đồng, bỏ vốn, số lời còn lại gia đình ông sống rất thoải mái. Vì thức ăn ông có sẵn như gạo lúa, rau muống cả công đất, chỉ mua thêm một ít thực phẩm hổn hợp pha trộn và thuốc tiêm ngừa mà thôi. Ông lợi thế hơn những trang trại trại khác nhiều, nghĩa là khỏi phải mua nhiều.

 

   Gần đây ông hay giao du mấy quán Cà-phê đầu ngõ và ngày nào cũng thường hay nghe người ta đồn đãi, lúc đầu ông bỏ ngoài tai và cho đây là điều tội lỗi. Nhưng cứ hiền lành, tốt bụng, nhân đức quá, thì sẽ thua thiệt người ta. Nên ông dần dà để đầu và bị tiêm nhiểm. Người ta bảo rằng, trước khi bán heo, họ thường bơm nước vào trong bao tử cho heo được nặng ký và bán được thêm tiền. Phải nói thời điểm nầy giá thịt heo thật đắc, mỗi ký ngoài hai trăm ngàn đồng. Nghe loáng thoáng rồi để bụng cộng một ít lòng tham, về nhà, trước khi bán heo ông bắt chước làm theo, hồi đầu ông làm thử vài con, trước khi bán, cột chân, cột cẳng bơm vào bụng năm lít nước, sau đó mang đi bán, con heo đem cân nặng thêm được năm ký lô. Khi bán xong, về nhà chờ xem có ai phản hồi gì không. cuối cùng mọi chuyện đều êm đẹp. Ông thấy như vậy là ổn rồi, đúng như lời đồn đại của thiên hạ và còn nói. Tại sao mình ngu quá, bao lâu nay không chịu làm theo người ta? Lần bán sau cũng thế, ông bắt trớn làm thêm vài con nữa và kết quả đều như ý muốn. Cứ thế và cứ thế, ông tha hồ ăn gian bọn lái buôn gần một năm trời, mà chúng không hề hay biết và số lãi tăng lên so với mức bình thường khá cao.

 

   Năm 2012 bà con không ai bảo ai, mọi người xung quanh chăn nuôi nhỏ, mỗi hộ chừng năm ba con cũng âm thầm làm theo, vì càng lúc, càng nhiều quá, nên bọn lái buôn mất lời và tìm ra nguyên nhân, rồi biết được và báo với chính quyền. Chính quyền vào cuộc, nhưng mọi chuyện đã qua, không có bằng chứng, nên huề cả làng và chỉ tội nghiệp cho những người làm sau chót, chưa kiếm được gì, mà bị mắc nạn. Và, từ đó báo chí cũng thính tai, nhẩy vào cuộc phanh phui, khai thác tin tức, thâu thập chuyện nầy, chuyện nọ lên báo, cảnh báo nhân dân làm rúng động cả Thị xã và tin loang đi khắp mọi nơi một thời gian khá lâu. Cảnh ăn gian, ăn lận bắt đầu bị dẹp tắt. Nhưng rồi chỉ một thời gian sau, khi tình hình lắng dịu, tính nào, tật nấy, trò gian lận ấy lần lần sống lại « Ngựa quen đường cũ ».

  

   Mùa Tết năm 2014 tình hình heo hút nặng. Bỡi, những cơn dịch vừa qua, giá cả tăng rất cao hơn nữa vào dịp tết, số lượng thịt cần rất nhiều. Thừa cơ hội, ông làm một mẻ to hơn mười con. Trước khi mang đến lái, ông chẳng cho ăn chi hết và bơm vào bao tử mỗi con mười lít nước đầy. Như vậy chuyến nầy ông sẽ lòi ra được ít nhất là một con nữa, tha hồ về ăn tết linh đình và số tiền bán mười mấy con kia vẫn còn y. Hồi đầu vì quá đói, chúng uống vào mười lít chẳng thấy ra sao. Nhưng khi vận chuyển gần bảy cây số đến nơi để bán, nằm trên xuồng, trời nắng chúng phát ách, thở không được, bốn chân bị cột chặt, không chịu nổi và tử ẹo từ từ. Khi gần đến nơi giao hàng, ông bà đâu có nghĩ chúng chết. Ai ngờ ! Chúng đã chết trên đường đi mà không hay, ngỡ chúng no quá, mệt và nằm im ngủ. Nhìn mười mấy con heo chết còn nóng hổi, bà Quánh cuống lên, muốn chết theo, vì gần phần nửa số tài sản của bà xem như bỏ sông, bỏ biển. Sợ thiên hạ phát hiện hai vợ chồng, đùm túm, tức tốc quây trở về nhà.

 

   Trên đoạn đường trở về, bà khóc nức nở như đứa bé lên năm và mắng ông không lời nào tả nổi và không còn chỗ nào để chứa. Biết thân phận mình, ông chỉ biết ôm bà năn nỉ và bày cách về nhà làm thịt và bán lẻ. Bà bảo, một con thì còn nói dối với người ta được ,còn đàng nầy cả mười mấy con bán, lừa ai , chính quyền sẽ vào cuộc ngay lập tức. Lý do : Thực phẩm không an toàn. Bà vẫn khóc và nói tiếp.

  

   Chúng chết dọc đường, còn ta đang chết tại nhà đấy ông à.

 

 

Thủy Điền

Ngày 12, tháng 4, năm 2016

Thuy-Dien-Thivanviet.Jimdo.com

 

114- Mất Dấu

 

   Vừa bước vào nhà, mặt ông Phụng đang hầm hầm, tay vừa rót ly nước, miệng vừa bảo.

-Chờ chiều nay thằng Hoàng về, bắt nó chở quay lại chỗ ông Bác sĩ lần nữa thử xem sao.

Bà Phụng từ nhà bếp chạy lên.

Bộ có chuyện gì sao, nguy kịch rồi hả ông? Mà ông Bác sĩ bảo thế nào, ông bình tĩnh nói cho tôi nghe coi và tại sao chiều nay phải bắt thằng Hoàng đến đó lần nữa ?

-Không có gì đâu.

-Tôi tin chắc là có, ông lại giấu tôi rồi.

-Tôi bảo không là không, cứ hỏi mãi.

-Tùy ông, nói ra còn biết đường mà lựng, còn giấu giếm, lỡ, có mệnh hệ gì thì ráng mà chịu, đừng đỗ thừa, trách móc vợ con không biết lo. Mà ông có đói chưa, để tôi dọn cơm ?

-Khỏi, tôi no lắm rồi.

  

    Năm 1992 Hoàng bảo lãnh ông bà Phụng sang Đức với diện đoàn tụ gia đình. Trước khi sang Đức, ông đã mang trong người căn bệnh đường cả mấy năm rồi, cứ lèn xèn mà không chịu hết. Vừa mới sang Đức độ một tháng là Hoàng lo hết mọi thứ giấy tờ, để ông có thể đến Bác sĩ chữa trị tiếp. Hồi đầu Hoàng chở ông đến Bác sĩ một lần bằng xe hơi, chỉ dẫn đường đi, nước bước thật rõ ràng để đến Văn phòng Bác sĩ, kế đến Hoàng tập cho ông đi xe điện vài ba lần, như thế nào cho đến nơi và ngược lại. Vì công việc hàng ngày Hoàng còn phải đi làm, nên không đi cùng ông khám bệnh thường xuyên được. Thấy con bận bịu trong công việc, nên ông đành đi và tập dần một mình. Tuy tuổi già, nhưng ông cố gắng nghĩ ra cách làm sao cho dễ nhớ đường, như làm dấu tại một điểm cố định nào đó, để khi đến cái dấu ấy, qua một trạm xe điện nữa thì xuống là chính xác.

 

   Mặc dầu qua Đức nhà nước cho ông bà đi học chín tháng tiếng Đức bắt buộc, nhưng cô giáo nói lỗ tai nầy, một lát sau, vội vàng ra lỗ tai khác ngay. Kết quả sau chín tháng học tập ông chẳng thu thập được bao nhiêu. Công việc tuổi già, bệnh tật của ông không ngoài chuyện là cứ đúng một tuần (thứ hai) là ông lần mò theo cái dấu mà đi khám bệnh. Thời gian gần một năm tất cả đều suông sẻ, trôi chảy. Hoàng nghĩ, cha mình đi như thế là hay lắm rồi, nên chẳng cần phải quan tâm về việc đi đứng của ông nữa, mà lâu lâu chỉ hỏi thăm chừng về sức khỏe mà thôi.

  

    Một hôm như thường lệ, ông đi khám bệnh, ngồi trên xe điện, mắt cứ chăm chú cái dấu hàng ngày, để xe qua thêm một trạm nữa rồi xuống. Chờ hoài, chờ mãi chẳng thấy chiếc vải đỏ treo tòn ten đâu. Có lẽ, gió đã làm bay mất rồi hay là chưa tới, nên không thấy. Nửa sợ sợ, nửa lo lo và cứ ngồi miết trên xe, chiếc xe điện đã trượt qua chỗ ông Bác sĩ gần mười cây số.      

  

    Cũng may, vừa đến bến cuối cùng ông gặp một người Việt Nam tử tế, thấy ông già, họ tận tình giúp đỡ và bảo. Ông đã đi lạc rồi. Đồng thời họ cũng vui vẻ hướng dẫn, đưa ông ra xe  khác để ông đi ngược về nhà.

 

   Trong chuyện éo le nầy là gì, mấy ngày trước đó Đội Vệ sinh Thành phố có lệnh dọn dẹp  khu vực nầy, nên đã vô tình gở tấm vải đỏ của ông xuống và cho vào sọt rác mất rồi nên ông phải đành mất dấu.

 

    Ngày hôm ấy làm ông không đến Bác sĩ được, phải đành ra về trong nỗi buồn vô hạn. Ông nhất quyết chờ đến năm giờ chiều Thằng Hoàng về và bắt nó phải chở đến chỗ cũ để gắn lại tấm vải đỏ khác làm dấu, còn nếu không, tình trạng trượt bến sẽ xảy ra dài dài và cơn bệnh sẽ tăng dần thêm.

 

    Ở nhà bà Phụng cứ nghĩ, hôm nay ông về trong cơn buồn bực là gì, có lẽ Bác sĩ đã nói ông điều gì đó, ông biết, nhưng không hiểu hết, nên ông thất vọng và chờ thằng Hoàng về chở đến đó để hỏi cho ra chuyện. Nhưng không ngờ, khi ông nói ra chuyện mất dấu cái tấm vải màu đỏ mà không đi khám bệnh được, bà nhẹ nhõm trong lòng.

 

Thủy Điền

Ngày 08, tháng 4, năm 2016

Thuy-Dien-Thivanviet.Jimdo.com

 

 

 

 

113- Ngày Hấp Hôn

 

Sau khi ăn sáng xong, ông Bửu sơn xách cặp táp ra xe đi làm. Bà Ánh Ngọc vừa dọn dẹp, vừa lầm bầm. Không biết lý do gì, mà gần một năm nay cái lão nầy tự dưng đổi tính. Thật lạ kỳ, phải chi có lý do thì không nói. Đàng nầy chẳng có lý do nào cả, lão vẫn sống bình thường, lúc nào cũng vợ vợ, con con. Nhưng chuyện gối chăn Lão luôn luôn tìm cách tránh né. Thế nghĩa là sao ?

   Trước năm 1975, sau khi tốt nghiệp trường Kinh tế, Bửu Sơn thừa hưởng ngay gia tài của cha mẹ nhường lại đó là một hãng sắt lớn tại Sài thành, lúc ấy anh ta mới vừa 25 tuổi, là một trong những nhà kinh doanh trẻ nhất thời bây giờ. Tuy nhỏ tuổi, nhưng rất quyết đoán và rành rẽ trong công việc. Bởi, ảnh hưởng và hấp thụ được cái nề nếp sống của gia đình và cộng trình độ học vấn sẵn có. Ngày ngày cứ miệt mài công việc, hãng xưởng càng lúc, càng phát triển nhanh. Hãng sắt Bửu Đại tên của cha anh rất nổi tiếng và giàu có hạng, các giới thầu xây dựng cả nước ai ai cũng đều biết đến hai chữ Bửu Đại.

   Năm 33 tuổi, Bửu Sơn quen rồi đi đến kết hôn với Ánh Ngọc và là bà vợ duy nhất của anh ta đến ngày nay. Sau ba năm chung sống, hai người đã sanh được hai chàng trai rất khá khỉnh đó là Bửu Khánh và Bửu Quang.

   Năm 1975, khi đất nước hoàn toàn giải phóng, hãng sắt Bửu Đại bị đóng cửa một thời gian ngắn và sau đó thuộc quyền sở hữu của chánh quyền Cách mạng. Từ đó gia đình Bửu Sơn coi như trắng tay.

   Năm 1978 Bửu Sơn và gia đình đi đăng ký hợp pháp và sang tận Mỹ, hiện định cư tại Taxas. Thời gian qua Mỹ vừa đi học, vừa đi làm Bửu Sơn nghĩ ra được một phương án làm ăn đó là mua bán ghế Salon và hàng Mộc. Với vốn người kinh doanh, dù đi đâu hay lĩnh vực nào họ cũng đều xây sở và tạo dựng cho mình một cơ nghiệp rất dễ dàng hơn người bình thường. Chỉ mấy chốc, anh ta ăn nên làm ra và mua được một căn nhà rất lớn. Gia đình sống rất hạnh phúc. Và, đúng mười năm sau đó hai cậu con trai lần lượt lập gia đình và ra ở riêng. Ngôi nhà rộng lớn chỉ còn lại hai vợ chồng, Ánh Ngọc thì chẳng phải làm gì cả, chỉ ở nhà, với công việc nội trợ, còn công việc hãng xưởng từ A- Z chỉ một mình Bửu Sơn chăm nôm cũng tạm đủ. 

   Cuộc sống đang êm ả, bỗng dưng, kể từ năm 2004 Bửu Sơn bắt đầu lạnh nhạt với vợ con về việc chăn gối, còn riêng những việc khác thì anh ta rất bình thường. Thậm chí sau giờ làm việc về nhà, tối đến hắn tìm một chỗ riêng cho mình đễ ngủ, mỗi khi vợ hắn xề đến, dạ chuyện ái ân thì hắn lại lờ đi và tránh xa. Nhiều lần Ánh Ngọc vô cùng thất vọng, chỉ biết khóc và chẳng dám cự, cãi lại.

  Một hôm nàng kể cho một người bạn nghe về câu chuyện gia đình mình và người bạn ấy chỉ nàng hãy sang tận Canada, nơi đó có một nhà tư vấn về gia đình rất hay, nàng có thể tìm đến đó một lần thử xem sao. May ra họ có giúp được điều gì.

  Nghe lời bà bạn, nàng chờ Bửu Sơn đi làm về, ăn cơm chiều xong, nàng bày tỏ cùng Bửu sơn và bị Bửu Sơn quát cho một trận tơi bời. Dù bị phản công, nhưng nàng nhất quyết phải đến đó một lần, dẫu có tốn kém bao nhiêu nàng đành chấp nhận. Bửu Sơn bảo.

-          Nếu em có thích, thì cứ đi một mình, còn anh nhất quyết không đi đâu hết.

  Nói, thì nói vậy, nàng vẫn mua hai vé máy bay sẵn. Sáng sớm ăn sáng xong, nàng để vé máy bay trên bàn ăn và bảo.

-          Anh có đi cùng em sang bên ấy hay không đi thì tùy anh, còn em, sáng ngày mai là phải đi ngay. Bửu Sơn hỏi ?

-           Rồi em định ở đâu. Nàng bảo.

-           Em đã mướn sẵn một căn nhà rồi. qua hệ thống Internet. Bửu Sơn hỏi tiếp ?

-          Và tiền đâu có, mà chi trả lắm thế. Nàng trả lời .

-           Số tiến ấy em đã dành dụm từ lâu, mục đích để bảo đảm cái hạnh phúc gia đình.

   Đúng sáng hôm sau, như dự định, nàng gọi chiếc Taxi đưa nàng ra Phi trường và sang Canada. Trong lúc đi, nàng ngỡ Bửu Sơn sẽ không đi theo và nàng phải một mình bày tỏ với nhà tư vấn. Nhưng không ngờ ! Ngày hôm sau Bửu Sơn cũng có mặt ở Canada, nhưng không ở cùng nàng, mà ở riêng một Hotel gần đó. Hai người chỉ hẹn nhau đến nhà tư vấn bắng điện thoại di động.

   Đến nơi, nhà tư vấn hỏi vòng vo năm ba chuyện, lẽ ra, hai người phải trả lời, đàng nầy không lo trả lời, mà lại cãi nhau như hai đứa trẻ. Qua nhiều lần như thế, bực quá, nàng bỏ đi vào những quán bar nhậu một trận rồi về, Bửu Sơn liên lạc mãi không được và cuối cùng dọn chung sang ở với nàng. Nàng rất mừng khi Bửu Sơn sang ở chung, đây là cơ hội để hai vợ chồng được gần gủi nhau. Nhưng không ngờ ! Bửu Sơn vẫn y như lúc ở nhà không hơn không kém. Câu chuyện vẫn cứ tiếp tục như thế, mỗi ngày, hai người đều phải đến nhà tư vấn nghe giải thích , chỉ dẫn, hàn gắn lại với nhau. Về nhà, nàng luôn làm theo những lời chỉ dẫn ấy, nhưng cuối cùng cũng chẳng thành công. Cuộc nhờ vả tư vấn đúng một tuần, nàng phải trả gần 1500 Đôla và đành phải ra về trong tuyệt vọng.

   Về đến nhà, cuộc ấu đả tình ái vẫn kéo dài mấy tháng trời, đôi lúc nàng muốn làm đơn xin ly dị, nhưng nghĩ còn con, còn cháu sợ chúng cười nên phải đành nhường bước, cam chịu. Trong sự chịu đựng vượt bực, nàng không còn chịu nỗi nữa và bắt đầu lê la đến các phòng trà giải khuây, đi sớm, về muộn, bất cần đời. Trước cảnh tình như thế, Bửu Sơn bắt đầu ghen và sợ vì vợ mình không còn bình thường như trước nữa. Bửu Sơn bắt đầu hạ giỏng năn nĩ.

  Một ngày êm trời, đẹp nắng. Chàng chở nàng đến một vùng biển, nghỉ mát và đành thú thật, kể từ hơn năm nay, bỗng dưng chàng dường như bị bất lực, không còn húng thú trong chuyện tình ái nữa. Khi nghe chàng nói xong, nàng mới chợt hiểu ra và thông cảm, nhưng ít nhất nàng muốn mỗi đêm nàng được nằm bên cạnh bên chồng, để nghe được những hơi thở đã từng nghe ba chục năm về trước. Đặc biệt càng lúc, càng già nàng không muốn sống trong cảnh lạnh nhạt, cô đơn. Những lời nàng thốt ra, làm Bửu Sơn thấy ân hận, thương hại vợ mình vô cùng và để chuộc lại nhũng tội lỗi ấy, chàng nghĩ ra cách tổ chức một buổi hấp hôn đình đám, tràn đầy ý nghĩa. Hầu cho Ánh Ngọc được vui lên và tin tưởng hơn. Buổi hấp hôn hôm ấy còn to lớn hơn ngày cưới cách đây ba mươi năm tại Sài gòn. Quy tụ rất đông đủ , nào con, nào cháu, nào bạn bè ,thân thuộc khắp nơi kéo về thật vô cùng long trọng

  Trong lúc nhẩy đầm mừng tiệc, Bửu Sơn nói.

- Em thật là một người đàn bà sâu sắc và là một vị đấng tin đã cứu rỗi đời anh.

 

 

Thủy Điền

Ngày 05, tháng 4, năm 2016

Thuy-Dien-Thivanviet.Jimdo.com

 

 

112- Hãy Trả Em Về Với Dòng Sông

 

 Sáng sớm đúng 8 giờ, vừa ngồi vào bàn làm việc. Tiếng điện thoại reng, Peter nhấc lên.

-Hallo

-Với giọng mếu máo, thưa ba, con Lena đây.

-Có gì nói cho ba nghe, tại sao khóc Lena, ở nhà xảy ra chuyện gì phải không ?

-Vâng, ba mau thu xếp công việc về ngay đi. Mẹ vừa bị tai nạn giao thông vào lúc 2giờ khuya nầy, nặng lắm. Bây giờ đang nằm nhà thương, con chưa vào được, sau khi gọi điện thoại cho ba xong, con và Jacki sẽ đi Taxi vào xem mẹ như thế nào.

-Ai cho các con hay vậy ?

-Dạ, Cảnh sát ba ạ.

-Được, ba sẽ sắp xếp và về nội trong ngày nay, các con khỏi đón ba, ba sẽ dùng Taxi về thẳng nhà mình, sau đó sẽ tính sao, chào con nhé.

-Chào ba.

 

   Ba năm nay Peter vừa nhận được chức Giám đốc một hãng chế tạo vỏ xe hơi tại tại San Francisco (CA) nên thường ít về nhà, ngoại trừ nghỉ phép và mùa Giáng sinh mà thôi. Thời gian nầy chàng đành để vợ và con ở lại Honolulu. Với những ngày tháng xa chồng Malena thường hay đến Vũ trường vào những ngày cuối tuần để khỏa khuây, qua nhiều lần giao du, nàng làm quen được Henrry và hai người đã tổ chức nhiều cuộc du lịch vụng trộm. Bởi, Henrry cũng có vợ và cô con gái tám tuổi.

 

   Một đêm mùa hè, Henrry mướn một chiếc xe, định đưa Malena đến một vùng biển cách Hanolulu 150 km nghỉ cuối tuần. Trên đường đi vì đêm tối Henrry đã đụng phải vào đích một xe tải, phần đầu chiếc xe của Henrry tan nát, nhờ có Airbag nên Henrry bị thương nhẹ, còn Malena cũng bị thương, nhưng rất nặng (Bất tỉnh) cả hai được chở vào nhà thương gần đó. Cảnh sát đến ăn kết và tìm thấy số điện thoại nhà của Malena nên vội vàng báo cho người thân biết.

  

   Giữa đêm, nghe Cảnh sát báo tin mẹ bị tai nạn, Lena và cô em gái choáng váng, tại sao có chuyện như thế ? Và, sao mẹ đi mà chẳng nói lời nào. Hai đứa cứ ngỡ, mẹ hay đi nhảy đầm vào cuối tuần và đến khuya là về ngay. Ai ngờ, thật không nói nổi. Vì trời quá tối, nên Lena chờ đến sáng sẽ cho ba hay rồi đến sau.

  

   Sau vài giờ nằm nhà thương, Bác sỹ thấy Henrry không có gì, nên cho xuất viện, về đến nhà Henrry nói dối với vợ là đi nhậu cùng người bạn, xảy ra tai nạn và chỉ bị thương sơ sơ mà thôi. Bà vợ tưởng thật, rồi bỏ qua vì hiện tại Henrry chẳng thấy có dấu hiệu nào gọi là bị thương cả và kể từ đó Henrry phế mặc, chẳng quan tâm đến Malena nữa, chàng xem như là chuyện qua đường và giấu nhẹm luôn.

  

  Chuyến máy bay từ San Francisco về Hanolulu, Peter đi Taxi về nhà, tắm rửa xong, thì hai cô con gái cũng lại về. Cả ba cha con cùng quây lại nhà thương một lần nữa, Peter bước vào ôm Manela chầm chập, khóc ngất. Riêng Manela chỉ còn thở, nhưng chẳng biết gì cả.

  

  Gần một tuần nằn nhà thương, Bác Sỹ lắc đầu và bảo Peter rằng, Manela sẽ không bao giờ tỉnh lại, vì bộ não của nàng bị rối loạn, dẫn đến hệ thần kinh không còn hoạt động nữa. Nàng bây giờ như là một người đã chết, nhưng còn thở mà thôi. Biết tình trạng vợ mình như thế Peter chỉ biết khóc hết ngày nầy, qua ngày nọ và các con cũng thế.

   Trong buổi ăn chiều, Peter hỏi các con ?

-Những lúc ba đi làm, mẹ ở nhà thường hay giao du với ai vậy ?

-Dạ, mẹ giao du vài ba người, nhưng người hay đến đón mẹ vào cuối tuần nhiều nhất là Henrry.

  

   Đến đây Peter không hỏi nữa, chàng nhận ra ngay, Henrry là người cùng làm việc chung một hãng với chàng trước đây, nhưng dưới cấp.

   Trên đường từ nhà thương thăm Manela về, Peter ghé lại nhà Henrry định hỏi ra chuyện, nhưng rất tiếc Henrry đã đi công tác xa, chỉ còn lại bà vợ là Linn và con nhỏ ở nhà. Peter định nói rõ hết câu chuyện, nhưng thấy không tiện, nên hẹn Linn vào ngày tới đến một quán gần đó để tậm sự.

  

   Lời qua, tiếng lại, khi nghe Peter kể, Linn chỉ ngồi khóc và chẳng nói được lời nào. Sau ngày đó, ngày nào Linn cũng vào thăm Manela, mỗi khi bước vào cửa phòng nhìn Manela là nàng bật khóc ngay, khóc đến nổi Peter phải dìu nàng ra khỏi phòng, tránh Bác sỹ rầy la.

  Khi Henrry công tác trở về, Linn dùng những lời từ tốn,  nhẹ nhàng nói chuyện với Henrry và Henrry thừa nhận. Khi Henrry thừa nhận xong ; nàng cũng viết sẵn tờ đơn xin ly dị và bắt Hennry ký vào. Hồi đầu chàng không chịu, nhưng nàng bắt buộc. Nếu ký hay không ký nàng cũng dọn đi ngay ngày hôm sau.

 

   Hai tháng nằm nhà thương, sức khỏe Manela càng lúc , càng kiệt huệ và nàng đã trút hơi thở cuối cùng. Khi nàng chết, Peter còn nhớ  lời nói của Manela khi những ngày đầu mới lấy nhau, chàng hay mướn chiếc thuyền nhỏ, đưa nàng trên những dòng sông, nàng hay bảo, khi nào em chết, anh hãy đem thiêu và rải xác em xuống những dòng sông nầy. Để thỏa nguyện ước muốn, khi Manela chết chàng và các con đem thiêu và cũng mướn chiếc thuyền, vừa bơi vừa rải xác mẹ theo từng sóng nước. Vừa rải, các con vừ khóc, chàng cũng khóc và nói « Tại ba, mà mẹ con mới chết và gia đình ta mới ra nông nỗi nầy » Các con hãy thứ lỗi cho ba.

 

Thủy Điền

Ngày 03, tháng 4, năm 2016

Thuy-Dien-Thivanviet.Jimdo.com

 

111- Khi Hoàng Hậu Quá Vui

 

  Cả làng đồn đại lẫn nhau, hôm nay thằng Ngạch lại về. Người nầy hỏi người kia ? Thật sao. Nghe nói bấy lâu nay nó được nhà vua mời vào cung làm trò vui cho Hoàng hậu kia mà. Đúng vậy. Có lẽ, nó được bà cho về thăm nhà ít hôm, rồi vào lại Hoàng cung.

  

   Từ xa mọi người nhìn thấy hai quân sĩ triều đình vai nặng, võng thằng Ngạch về nhà, đều vỗ tay hoan hô và bảo. Thằng Ngạch bây giờ là một vì quan chớ không ít. Mỗi khi về nhà được lính hầu võng thật là oai vệ. Ai ngờ ! Chiếc võng càng đến gần nhà, thiên hạ bu lại thì thấy thằng Ngạch đầu một nơi, mình một nơi. Mọi người tá hỏa, la lên. Sao lại ra cớ sự nầy ? Hai quân hầu bỏ cái võng xuống đất một cái « Ịt « và đi một nước về Hoàng cung, chẳng trả lời, trả vốn gì cả. Vì bổn phận của hai anh ta đến đây là hết.

 

   Mùa xuân năm ấy, tình cờ vua đi ngang qua cái làng nhỏ. Thấy một cậu thanh niên đang kể chuyện cho một lũ trẻ tí hon nghe, không biết chàng kể thế nào mà lũ trẻ khoái chí, vỗ tay và bảo kể tiếp. Vua dừng ngựa lại, nhìn một hồi và bảo.

-          Nầy chàng kia lại ta bảo.

-          Dạ, Vua cho gọi con.

-          Mi tên chi ?

-          Dạ, Ngạch

-          Mi về chuẩn bị, mai có người đến đón vào cung.

-          Dạ, thưa vua, làm gì ?

-          Ta bảo vào là vào, không phải lôi thôi.

-          Dạ, con tuân lệnh.

-          Tốt. Rồi cho ngựa đi tiếp.

 

   Nhà vua thường hay đi kinh lý nơi nầy, nơi nọ hơn nữa trong cung có rất nhiều thứ phi. Nên Hoàng hậu thường hay lâm vào cảnh cô đơn, buồn tủi. Bà luôn cần ai đem đến cho bà những nụ cười, dù ít hay nhiều để an ủi, khoả khuây. Biết Hoàng hậu đang cần những thứ ấy, nên nhà vua cho đem Ngạch về để giải khuây cho Hoàng hậu. Với bản tính bẩm sinh, khi vừa bước vào cung, Ngạch chỉ mở miệng chào bà, là bà bỗng dưng cười ầm lên và nói rằng « Mi được đấy « Và từ đó ngày nào Ngạch cũng kể chuyện và làm trò hề cho bà vui.

  

   Một hôm không biết vì hứng thú Ngạch kể một câu chuyện rất đặc sắc, khiến bà cười đến nghẹn và ngất xỉu, quân hầu phải đến cứu cấp cho bà năm lần, bảy lượt, mới bình tĩnh trở lại. Khi tỉnh dậy, bà còn tức giận và ra lệnh cho quân sĩ đem Ngạch đi chặt đầu. Vua đi kinh lý về hỏi bà tại sao làm như thế ? Bà bảo hết vui rồi, ta đang cần một người mới, vì cứ để tên Ngạch nầy ở đây càng lâu, có ngày ta sẽ đứng tim chết mất. Vua nghe xong và cũng ưng lòng, thôi ta sẽ tìm cho Hoàng hậu một người mới. Khi chém đầu Ngạch xong, bà cho hai quân sỹ võng Ngạch về trả lại cho gia đình và bảo rằng.

    May mà chỉ có thằng Ngạch chết thôi, nếu ta chết, thì cả dòng họ thằng Ngạch nầy phải đi chầu Âm phủ.

 

    Sau khi thằng Ngạch chết, cả làng không ai dám hé miệng kể một câu chuyện vui nào với nhau, họ sợ, lỡ vua nghe được, mời vào cung là chết mất.

 

Thủy Điền

Ngày 23, tháng 3, năm 2016

www.thivanviet.wordpress.com

E.Mail. tran.vanmau@yahoo.de

 

110- Gà Đẻ Trứng Vàng

 

   Cứ mỗi sáng sớm khoảng 6 giờ là mấy bà bán Xôi, Bắp, bánh Mì thịt gần bến xe cũng đều thấy bà hai Hanh trên chiếc xe Lam bước xuống. Thiên hạ xì xầm, cái bà nầy buôn bán chi không thấy mà ngày nào cũng xách một túi đệm đồ ăn về. Ai cũng tự hỏi ? Chẳng lẽ bà đi mua hàng ở tỉnh về, bộ xứ Tân hiệp nầy không có cái gì để bà mua sao ? Nên thỉnh thoảng thắc mắc ?

-          Bà Hai, đi đâu về vậy bà, mua gì mà kình rìn thế ?

-          Bà nói dối với mọi người, hôm qua xuống thăm con gái, ngủ lại đó, nên sáng mới về, sẵn mua luôn ít hàng vậy mà.

-          Thăm gì mà ngày nào cũng thăm, bà siêng thật.

-          Con nó bệnh, đành bỏ về được sao, rồi từ giã, đi một nước về nhà, đóng cửa rào lại, biệt tích cả ngày trong nhà.

 

   Năm 1975, sau khi rã ngũ, ông hai Hanh về quê. Ba ông cho ba công đất, ông lấy một công vừa cất nhà, vừa làm cái sân, trồng hoa, kiểng. Còn lại hai công, ông lên luống trồng hoa màu phụ để sinh sống. Làm mãi đến năm 1978, ba năm dài đăng đẳng, ông thấy không khá, chỉ toàn lổ lã, nên ông chuyển sang trồng Nhãn, rồi quả Thanh long và rất nhiều thứ trái cây khác. Nhưng rồi kết quả vẫn không như ý muốn. Có lẽ, hồi ấy kém phân bón hay thổ nhưỡng nhà ông không phù hợp với những loại cây ăn quả nầy. Sau cơn ấy, ông đi giao du nhiều nơi và nghĩ ra cách nuôi gà sản xuất nhỏ. đến cuối năm 1995 ông quyết định công việc mới và quây sang bàn với bà là không trồng trọt nữa, mà chuyển sang lĩnh vực chăn nuôi. Bà hỏi ?

-          Ông định nuôi heo à ?

-          Không có, vốn đâu mà nuôi, hơn nữa cực nhọc lắm.

-          Mà ông định nuôi thứ gì ?

-          Gà.

-          Thôi đi ông ơi, thiên hạ nuôi bao nhiêu, chết toi hết bao nhiêu, trước mắt mà ông không sợ sao.

-          Biết vậy, nhưng tôi có cách, tôi hứa với bà là sẽ thành công. Nhưng phải chịu đựng và chờ đến ba, bốn tháng sau mới có kết quả được.

-          Tôi nói trước, ông nên bỏ ý định nầy đi, nguy hiểm lắm, không chừng mắc nợ nữa là khác. Ông coi nghiên cứu cách trồng trọt lại, làm tiếp. Còn tôi xem cái gì mua bán thêm sống qua ngày là được rồi.

-          Không, tôi nhất định rồi, khỏi bàn tới, bàn lui gì hết.

-          Tùy ông, muốn làm gì thì làm, nhưng khi thất bại đừng lôi tôi vào cuộc là được.

-          Ừ.

 

   Sau khi tính toán xong, ông dự định bỏ ra 90 ngày ròng rã, mỗi ngày ông đóng một cái chuồng nhỏ cở kích cho 5 con gà lớn. khi cái chuồng hoàn chĩnh, ông thả ngay 5 con gà con vào và chăm sóc kỷ lưởng. Đặc biệt cái chuồng phải thật kín, không cho gió luồn vào chỉ có một cái cửa sổ nhỏ thoáng khí và khi về đêm được đóng lại. Cứ thế, ngày thứ hai…thứ ba…thứ tư cho đến ngày thứ 90 là đúng ba tháng, khu trang trại của ông được hoàn tất. Ông không làm nhà như những trang trại khác, nên mỗi khi người lạ đứng bên ngoài nhìn thấy như là một cái hộp không hơn, không kém. Lúc nào mưa thì ông buông tấm mũ to phủ lấp cả 90 mươi cái hộc chứa gà và khi nắng được mở ra. Thời gian ba tháng, chu kỳ phát triển của con gà đã đến hồi bán được là khoảng 1kg800 đến 2kg, ông bắt đầu cho xuất chuồng thứ nhất, dọn dẹp, vệ sinh và thả ngay vào buổi chiều hôm đó 5 con gà con khác, bước qua ngày thứ hai và những ngày kế tiếp cũng trình tự như vậy. Nói chung, công việc của ông cũng không mấy vất vả hơn trồng trọt, phải dầm mưa , dãi nắng. Hàng ngày, 4 giờ sáng thức dậy, ông lấy 5 con gà ra cho bà mang đi tỉnh bán, kế đến cho gà ăn, uống, làm sạch sẽ chuồng trại, sửa chữa nơi nào bị hư hỏng còn không thì thôi, rồi nghỉ và chờ chiều thả gà con khác vào, thế là hết việc. Nhiệm vụ của bà cũng thế, chẳng có gì là to tát lắm, mỗi sáng mang 5 con gà xuống tỉnh bán và thâu từ 450.000 đến nửa triệu đồng rồi về và ngày ấy chỉ lo quây quần việc nội trợ mà thôi. Tính ra hàng tháng ông thâu về non , già 15.000.000 đồng, trừ các khoảng chi như: Thức ăn, thuốc tiêm dịch, ông bà còn lại một số lãi rất to.

 

    Những người xung quanh rất tò mò, tuy biết ông đang nuôi gà để bán, nhưng chẳng biết ông nuôi bằng cách nào, bao nhiêu gà, bán bao nhiêu tiền và vào thời điểm nào. Mọi việc dường như ông đều giấu kín. Ngoài ra, người ta chỉ phát hiện vào những buổi sáng sớm khi nhìn thấy bà ngoài bến xe, nhưng chẳng biết bà làm gì và đi đâu.

 

    Không ngờ ! Sau năm năm hoạt động âm thầm, « Đùng » mội cái, « Gà đẻ trứng vàng » trong căn nhà lụp xụp kia, đã bỏ ra một khối tiền mua miếng đất gần bên, mở một nông trại tầm cỡ và mướn gần chục công nhân vào làm việc với danh hiệu « Trang trại nuôi gà Hai Hanh « Trang trại nầy rất nổi tiếng về mặt chất lượng và hiện vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

 

Thủy Điền

Ngày 21, tháng 3, năm 2016

www.thivanviet.wordpress.com

E.Mail. tran.vanmau@yahoo.de

 

 

109- Lọ Dầu Con Ó

 

    Sáng thứ hai đầu tuần, trước khi vào làm việc, giữa Ban lãnh đạo Nông trường và Công nhân viên đều phải họp thường lệ một tiếng như : Tổng kết, kế hoạch mới, kiểm điểm, khen thưởng và phụ thêm một vài vấn đề linh tinh nếu có. Sau phần phát biểu của Đồng chí Tư Vân (Trung úy) Giám đốc Nông trường, kế đến là Đồng chí hai Tài (Thiếu úy) Trưởng ban chăn nuôi. Trong bài phát biểu của Thiếu úy hai Tài, ông có phần đề nghị rất là hấp dẫn « Thay mặt ban chăn nuôi, tôi đề nghị Ban lãnh đạo Nông trường khen thưởng hai cán bộ kỹ thuật có thành tích xuất sắc trong công tác của tuần qua « Đó là Đỗ văn Tiết và Nguyễn thanh Trắc. Bà con cả trong hội trường nghe xong, ai ai cũng nhìn hai anh chàng rồi đồng loạt vỗ tay khen ngợi. Tiết và Trắc ngồi đỏ mặt.

  

   Nông trường Bộ tư lệnh quân khu 9 được thành lập hồi đầu năm 1976. Được đặt phía sau cùng căn cứ Đồng tâm (Bộ tư lệnh Sư đoàn 7 cũ) thuộc xã Bình đức, thành phố Mỹ tho, tỉnh Tiền giang ngày nay. Nông trường nầy mục đích sản xuất, nhằm phục vụ cho Bộ tư lệnh quân khu 9 tại Cần thơ như : Chăn nuôi, trồng trọt và tạo một vườn thuốc Đông y. Thành phần ban đầu chỉ có vài ba Sĩ quan bộ đội chỉ huy, còn thành phần lao động chính là một trung đội Nghĩa vụ quân sự. Lúc nầy chưa có một công nhân nào.

  

   Năm đầu hoạt động, bộ đội chỉ nhiệm vụ phát hoang, làm cỏ, đào ao, lên luống, cất trang trại. Chủ yếu là làm thành hình một nông trại hẳn hoi, khi xong, tất cả số bộ đội ấy chuyển đi nơi khác. Và, chỉ còn lại Ban lãnh đạo mà thôi.

  

   Một hôm Tư Vân thủ trưởng nông trường và một vài Sĩ quan theo cùng trên chiếc xe Jeep xuống Mỹ tho công tác và có ghé lại quán Hủ tiếu người chị của Tiết ở đường ông bà Nguyễn trung Long để ăn sáng. Tiết đang làm anh bồi bàn, lời qua, tiếng lại. Tư Vân hỏi ?

-Trước đây cháu làm gì ?

-Dạ, cháu đi học.

-Cháu học ngành gì ?

-Dạ cháu học Nông Lâm súc.

-Nông lâm súc, chú chưa nghe qua.

-Dạ, trường Nông nghiệp đó chú.

-Sau không học nữa, mà ở nhà bồi bàn, chuyện nầy để các chị, em làm ?

-Tiết cười cười và trả lời tiếp. Giải thể rồi, lấy đâu mà học nữa chú.

-Bây giờ có muốn làm việc ngành nông nghiệp tiếp không ?

-Dạ muốn chứ, nhưng ai mướn mà làm.

-Tôi mướn đây.

-Chú là Bộ đội, chú đùa cháu hoài.

-Thật đấy, chú làm việc trong nông trường, nông trường chú đang rất cần những người như cháu và nếu được, cháu giới thiệu thêm cho chú hai chục người càng tốt. Cháu suy nghĩ đi, hai ngày nữa chú trở lại, cháu trả lời cho chú nhá, làm hay là không làm cũng được. Cháu hứa với chú đi.

-Dạ.

  

   Khi ăn xong, khách ra về. Tiết nghĩ mấy ông Bộ đội nầy nói vui qua loa thôi, Tiết không để ý đến và cứ mãi lo công việc bồi bàn hàng ngày của mình.

  

   Giữ đúng lời hứa, hai ngày sau Tư Vân và một người cận vệ đến, cũng ăn Hủ tiếu và sau đó hỏi Tiết có làm hay không ? Phải trả lời dứt khoát trong ngày hôm nay. Tiết đồng ý và hứa giúp tìm một số người nữa và hai ngày tới sẽ lên Đồng tâm gặp Tư Vân. Vì Đồng tâm là khu quân sự, ra vào rất khó. Tư Vân cũng hứa, sẽ cho người ra cổng đón vào. Sau khi Tiết nhận lời, Tư Vân ra về rất vui vẻ và hẹn, hai ngày nữa sẽ đón Tiết và các bạn tại cổng Đồng tâm.

  

   Chiều hôm ấy, Tiết lấy xe đạp chạy khắp nơi tìm kiếm bạn bè, trong đó có tôi. Thú thật hồi ấy tìm một việc làm đâu có dễ, muốn đi làm nhà nước, ít nhất phải con gia đình cách mạng hay Đảng viên hoặc quen biết lớn lắm mới vào được. Mặc dầu chưa biết công việc ấy ra sao. Cuối cùng Tiết gom được mười lăm người bạn cũ và hẹn sáng mốt tại nhà Tiết rồi cùng nhau lên Đồng tâm.

  

   Khi đến Đồng tâm, làm thủ tục xong, họ phân chúng tôi làm ba đội : Chăn nuôi, trồng trọt, vườn thuốc Đông y. Tôi học canh nông nên họ phân đội trồng trọt, còn Tiết học mục súc họ phân đội chăn nuôi, còn các bạn khác tùy theo ngành nghề học, họ phân vào các đội rất rõ ràng, cho phù hợp công việc.

  

   Một hôm đội chăn nuôi của Tiết gặp rắc rối, chuyện là một con heo khoảng 80 ký sắp bán hay làm thịt, bỗng dưng nằm ngã ra như chết, không ăn, không uống, nhưng còn thở. Đồng chí hai Tài (Trưởng ban) cáu lên, bắt buộc Tiết và Trắc phải xử lý, vì hai anh chàng nầy mang tiếng là cán bộ kỹ thuật. Ông hâm dọa, nếu không xử lý được sẽ bị kỷ luật và có thể mất việc vì không làm tròn bổn phận một cán bộ. Tiết và Trắc đang phụ trách gần 50 con heo. Thưa thật, hồi ấy lấy cái gì mà xử lý, thuốc men thì không có. Cả con người còn thiếu lên, hụt xuống, huống chi con vật. Trước tình huống nầy Tiết và Trắc bó tay, chỉ biết chờ khi con heo chết, phải đành bị kỷ luật và có thể nhận giấy Quyết định ra về mà thôi. Một lát sau, Tiết suy nghĩ và tình nghi. Con heo nầy bị cảm gió, chứ không ngộ độc, bệnh hoạn gì cả. Bởi, chuồng trại quá trống trải, hơn nữa gần sông rạch nên dễ bị cảm, trúng gió. Tiết cho rằng nó cũng giống người ta thôi. Sẵn trong người Tiết lúc nào cũng có mang theo chai dầu xanh hiệu con Ó, phòng khi giá lạnh. Tiết bàn với Trắc, hay là mình thử bôi dầu, rồi cạo gió như con người, rồi cho nó vào chỗ kín nằm, thử xem sao, may ra nó hết cảm và mạnh trở lại, ai biết được. Thử nào ? Hai chàng nhất trí, rồi đi tìm hai cái muỗng và trút nửa lọ dầu vào thân thể con heo, rồi cùng nhau cạo gió, giống như đổ nước sôi cạo lông, làm thịt. Đây là ván bài cuối cùng »Mầy chết tao về, mầy sống tao ở lại« Hai chàng cứ cạo tới tấp, da con heo đỏ bầm và có trạng thái cục cựa, Tiết và Trắc kéo vào căn phòng kín lấy hai bao bố tời cũ đấp lại, rồi bỏ ra về. Tới đâu thì tới, mệt quá rồi.

  

   Sáng hôm sau đi làm, hai chàng không dám đi ngang qua văn phòng hai Tài, mà đi vòng ngõ khác để đến trang trại, vừa đến thì con heo mất tiêu, bao bố tời thì còn đó, nó mạnh khỏe lại và đi về hướng nó ở gần mé sông, hai chàng đi tìm, thì bỗng nghe tiếng ột ẹt, hai chàng mừng quá, thế là nó sống rồi.

  

   Thường khoảng 8 giờ 15 hai Tài mang cái túi da đựng hồ sơ từ văn phòng đi xuống trang trại để kiểm tra. Hai Tài thấy hai chàng đang lui cui bên con heo, và hỏi ?

-Sao, hai chú xử lý con heo thế nào rồi ?

-Dạ thưa chú hai, tụi cháu xử lý nó từ chiều ngày hôm qua, xong rồi, giờ chỉ còn cho nó đi đi, lại lại để kiểm tra lần cuối và cho vào chuồng, vì sợ lây những con heo khác.

-Hai Tài thấy con heo còn sống, vội khen, hai chú giỏi lắm, cán bộ kỹ thuật là phải thế chớ, tôi nghĩ hôm qua nó chết rồi, mấy chú cứu được nó, mấy chú giỏi thật.

-Dạ cũng thường thôi chú hai, chúng cháu hôm qua nhìn sơ, thấy chẳng có gì, tại chú hai quá quan tâm thế thôi

-Thôi các chú nghiên cứu tiếp những con khác nhé, đừng để xảy ra như ngày hôm qua.

-Dạ.

  

   Trên đường về văn phòng, hai Tài cứ khen Tiết và Trắc đáo để. Chính ông đã thấy nó sắp chết rõ ràng, mà sao hai anh chàng nầy làm sống lại. Quả thật là hay, vừa ngồi xuống bàn ông viết ngay tờ trình lên Thủ trưởng đề nghị khen thưởng Tiết và Trắc và chuẩn bị thứ hai tới sẽ trình bày vấn đề nầy trước buổi họp để mọi người học hỏi, rút kinh nghiệm. Và, đúng vậy sáng thứ hai Tiết và Trắc nhận được giấy khen của Tư Vân. Sau trận nầy Ban lãnh đạo nông trường tự dưng tin tưởng 15 anh em chúng tôi vô cùng. Bởi trước đó, họ mướn anh em chúng tôi thì mướn, nhưng họ luôn luôn ngờ vực.Và, may mắn hơn là nhờ lọ dầu xanh hiệu con Ó, mà tôi tồn tại nơi đây được một năm, trước khi về học ngành Thủy lợi. Còn các bạn tôi thì làm lâu dài hơn, có người làm đến khi nông trường giải tán.

 

Thủy Điền

Ngày 17, tháng 3, năm 2016

www.thivanviet.Wordpress.com

E.Mail. tran.vanmau@yahoo.de

 

 

 

 

 

108- Bác Trưởng Thôn

 

  Leo xuống xe, bước vào cổng làng, khoảng đường chỉ còn 200 mét nữa là đến nhà cô em gái. Nơi đây ngày xưa là nhà của mẹ tôi và tôi cũng được sinh ra trên mảnh đất nầy. Vừa định quẹo trái vào nhà thì gặp ngay ông Trưởng thôn. Ông hỏi ?

-          Điền, mới về hả mậy ?

-          Dạ, thưa mới về. Ông Trưởng thôn khỏe chứ ?

-          Khỏe, còn mầy ?

-          Dạ, cũng khỏe .

-          Gia đình bên ấy đều tốt cả ?

-          Dạ, thưa Trưởng thôn tất cả đều tốt.

-          Điền nầy, nhớ chút qua tao trình giấy nhé, tao phải đi, vì còn bận ít việc ở cuối thôn.

-          Dạ, tôi sẽ qua ngay.

-          Thế thì tốt, mình sẽ gặp lại.

 

   Thú thật thì tôi và Trưởng thôn là bạn thuở thời, vừa tình làng xóm, vừa tình bạn học trò. Khi lớn lên một chút, tôi đi tỉnh học, còn ông ta học tại quê nhà. Và, khi thật sự trưởng thành thì coi như mỗi người, mỗi hướng. Ông theo cha ông lên Sài-Gòn làm hỏa xa, riêng tôi đi học nghề rồi đi vượt biên luôn. Thời gian gần hai mươi năm không gặp mặt. Năm 2000 tôi có về quê lần đầu và lúc ấy có gặp lại ông với cương vị Trưởng thôn, hồi ấy ông ta cũng bắt tôi trình giấy, thủ tục như bao người khác. Vì mới về lần đầu nên tôi sợ lắm, ông bắt làm gì tôi cũng làm theo và không dám hỏi điều gì khác. Mặc dầu tôi với ông là bạn. Năm 2010, tức mười năm sau tôi trở về quê lần nữa, tôi ngỡ ông lên chức và đi nơi khác làm việc. Nhưng không ngờ vừa bước vào làng, chưa kịp hỏi ? Thì ông đã tự xưng mình là Trưởng thôn và cũng bắt tôi làm y trang như lần về kỳ trước. Như đã hứa, chiều lại tôi sang nhà ông để trình giấy tạm trú, bước vào nhà, ông và bà xả niềm nỡ đón tiếp tôi. Ngồi vui vẻ, hỏi thăm, nói qua , nói lại làm mấy cái thủ tục tạm trú. Thấy ông cỡi mỡ, nên tôi hỏi ?

-          Thưa trưởng thôn, xin Trưởng thôn cho biết bây giờ tôi phải gọi ngoài Trưởng thôn với cái tình ngày xưa bằng danh từ nào cho phải phép. Ông ngồi lặng thinh một hồi và nói.

-          Ôi ! Cái gì cũng được . Mầy bày vẽ quá.

-          Thưa không, ngày xưa bọn mình còn nhỏ là khác, bây giờ Trưởng cả một thôn là khác.

-          Thôi mầy cứ gọi Trưởng thôn thế là xong. Tôi hiểu ý ông cũng muốn phân cách một phần nào đó. Và, hỏi tiếp ?

-          Lần trước, cách đây mười năm tôi về, ông là Trưởng thôn mà sau mười năm cũng chẳng có gì đổi khác cả. Ông cười cười rồi bảo.

-          Thì vậy đó, thắc mắc làm cái gì, còn làm Trưởng thôn là may, còn không tao cũng giống như những người đàn ông trong thôn nầy thôi. Mà có lẽ cuộc đời tao chỉ nhận một mức lương cố định.

-          Sao thảm vậy Trưởng thôn ?

-          Tao đã nói với mầy là vậy đó, nếu mười năm sau mầy về lần nữa, mầy còn thấy tao làm Trưởng thôn tức là tao có phước lắm rồi. Mầy thấy tao không ngon hơn Chủ tịch, Thủ tướng sao ? Mấy ổng bây giờ, có ông nào được làm lâu hơn tao đâu, giỏi lắm là hai nhiệm kỳ hoặc ba nhiệm kỳ là cùng. Còn tao đường vận mệnh Chính trị suốt cả một đời.

 

    Tôi ngồi vừa uống trà, vừa nghe ông nói, nửa buồn cười, nửa thấy cũng đúng. Thật đúng là luận điệu của một nhà Chính trị Trưởng thôn.

   Khi ra về, tôi thầm nghĩ ông bạn ngày xưa của tôi không cần tiền lương cao, thấp. Không cần một chức vụ cao quý trong xã hội, mà chỉ cần một công việc đến suốt đời, dầu chức vụ ấy chỉ là một Trưởng thôn.

  

Thủy Điền

Ngày 14, tháng 3, năm 2016

www.thivanviet.Wordpress.com

E.Mail. tran.vanmau@yahoo.de

 

107- Miếng Đất Hất Cái Tình

 

    Sau ngày giải phóng một năm. Cô năm Nga trở lại quê nhà sau bao ngày xa cách, tuy nói về thăm nhà, nhưng nhà đâu nữa mà thăm. Nơi ấy bây giờ chỉ còn lại một mảnh vườn và nhiều cây ăn trái xanh um màu lá. Vì những năm 65-66 giặc giã đã thiêu đốt trụi căn nhà ấy và gia đình cô phải tản cư đi nơi khác để mưu sinh. Tình cờ cô gặp ba Thủy vợ sáu Oanh đang làm cỏ mấy gốc Đu đủ trên mảnh đất nhà cô ngày xưa. Cô hỏi ?

-          Vợ thằng Oanh bây khỏe hả, mấy đứa cháu chắc lớn cả, có đứa nào vợ con gì chưa ?

-          Dạ, chị Năm mới về, em khỏe chị, các cháu lớn cả, nhưng em chưa làm Sui với ai hết.

 

    Chỉ câu trả lời ngắn gọn, rồi bỏ về, đóng cửa chặt và biến mất trong ngày hôm ấy và cũng chẳng một lời mời chị năm sang dùng nước ; Thăm hỏi cha mẹ mình giờ ra sao. Cô Năm chưng hửng và tự hỏi ? Cái con nầy đổi tính nhanh thế, rồi đành sang nhà người quen cạnh đó uống ly trà. Bà hàng xóm nói.

-          Vợ thằng Oanh thấy bây về, sợ đòi đất lại, nên lánh mặt vậy thôi.

-          Cô Năm bùi ngùi và ra về với nỗi buồn vô kể.

  

    Cô Năm là người sanh đẻ tại xã Bà Ụt, thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền giang ngày nay. Nơi đây là quê ngoại của cô. Năm 1966 cũng chính chốn nầy từng hứng chịu rất nhiều đạn bơm, nên gia đình cô phải di tản cùng những gia đình khác xuống tận cồn Rồng, Mỹ Tho để sinh sống tạm. Ở đây cô làm nghề quạt vôi, còn cha mẹ cô thì bán vôi dạo bằng ghe. Được năm năm định trở về quê Cai lậy lại, nhưng giặc giã càng lúc càng nhiều, hơn nữa nhà cửa thì không còn, cha cô đành quây ngược, trở về Sóc trăng quê ông, để sống bằng nghề làm ruộng. Hồi đầu thì mướn, nhưng sau nhờ luật « Người cày có ruộng « nên cha cô được làm chủ ba mẩu đất, canh tác cho đến ngày nay.

  

    Sáu Oanh là em bạn Dì ruột với cô Năm và cũng là em Út trong gia đình. Cha sáu Oanh chết trong những năm kháng chiến, sau khi mẹ sáu Oanh vừa sanh con xong và cũng mất ngay ngày hôm đó. Vì là Dì ruột, nên mẹ cô Năm phải mang cháu mình về nuôi thế em, trong hoàn cảnh khó khăn và từ đó sáu Oanh là em út trong nhà. Khi sáu Oanh lớn lên, bà đi cưới vợ cho sáu Oanh là cô ba Thủy và ba Thủy chính thức là con dâu Út của cha mẹ cô cho đến ngày nay. Trước khi lấy vợ, sáu Oanh đã từng tham gia cách mạng và là một cán bộ cao cấp của huyện Cai lậy. Năm 72 sáu Oanh trên đường đi công tác qua xã Bình Phước, bị phục kích và hy sinh tại đó, chức vụ cuối cùng là Huyện đội trưởng huyện đội Cai Lậy. Sau ngày giải phóng, với chánh sách đãi ngộ cho những gia đình Liệt sỹ, ba Thủy vợ sáu Oanh được nhà nước cấp cho hai mẩu vườn ở Xã Bà Ụt, đồng thời cũng được cấp giấy hưởng luôn phần đất của cha mẹ cô Năm, vì gia đình nầy đã tự động bỏ xứ đi rất lâu cộng sáu Oanh là con út trong gia đình. Ngoài ra, ba Thủy còn hưởng thêm phần đất đai của cha mẹ ruột cô đã chia từ trước nữa. Tất cả diện tích đất nầy, ba Thủy trồng toàn những thứ trái cây đắc giá, nhiều nhất là Đu đủ, hàng năm thâu nhập lợi tức rất cao.

  

   Cô Năm về quê với mục đích là thăm lại cái quá khứ xa xưa, thăm ba Thủy và các cháu, chớ nào có ý định gì đâu. Bởi, một khi đã bỏ xứ ra đi, hơn nữa bây giờ ở Sóc trăng cô có cả ba mẩu đất thênh thang, đang canh tác và cha mẹ cô chỉ còn mỗi mình cô. Nên cô đâu cần về lại Cai Lậy để chia năm, xẻ bảy với em mình.

 

   Còn ba Thủy thì ngược lại, không nghĩ thế, chỉ nghĩ chị mình về để đòi lại, chia chát phần tài sản của cha mẹ ngày trước, nên khi gặp cô Năm về thăm đành lạnh lùng biến mất. Và, kể từ đó cho đến nay, cô Năm thề, cô không còn dòng họ với ai ở đây và cô cũng không bao giờ trở lại đất Bà Ụt nữa, vì « Miếng đất đã hất cái tình » mất rồi.

 

Thủy Điền

Ngày 13, tháng 3, năm 2016

 

 

 

106- Bên Quán Cà-Phê

 

   Qua bao lần về thăm quê, nếu có đi thăm bà con hay đi chơi xa thì thôi, còn không đi đâu, thì sáng nào cũng cùng mấy ông bạn ngồi lê la, đàm đạo gần cả buỗi trời ngoài quán Cà-Phê cô Cúc đầu ngõ.

 

 

   Thường mấy ông bạn hay nói, nhờ có mầy là Việt kiều nên được ngồi lâu như thế nầy. Tôi hỏi tại sao ?

-          Vì cô ta nể bụng, chứ uống có một ly Cà-Phê mà đày người ta châm năm, bảy bình nước trà, người ta mắng cho mà nghe. Tôi bảo.

-          Thì mình trả tiền nước trà là xong, ai dám mắng mình, vô lý.

-          Trời ! Trời, Mầy tưởng tụi tao giàu lắm hả Điền, tiền Cà-Phê thỉnh thoảng còn ghi lên, ghi xuống, bây giờ trả thêm tiền nước trà nữa, chắc ở đây rửa ly cho cô Cúc trừ quá. Vừa nói xong, mọi người áp cười và cô chủ quán gương mặt cũng đỏ bừng.

  

    Trong cái bực bội, cũng có cái may, là những ngày ghé qua uống Cà-Phê, tôi hay nói chuyện nầy, chuyện nọ, tiếu lâm, nên có rất nhiều khách mới. Thậm chí có những người xưa nay không biết uống Cà-Phê cũng vào gọi tạm ly trà đá, đá chanh rồi ngồi nghe chuyện, nên quán cô cũng đông lên dần. Không biết ? Sau ba mươi ngày tôi đi, quán cô có còn được vậy hay không ?

 

     Mỗi buỗi sáng uống Cà-Phê, dường như tôi đều nhận được những câu hỏi và những mẩu chuyện khác nhau. Nhưng đặc biệt câu chuyện «  Sướng và khổ «  thường được người ta lập đi, lập lại nhiều lần. Có lần thằng Hùng bạn tôi hỏi ?

-          Đi ngoại quốc ở sướng thật, làm Việt kiều lại càng sướng hơn. Tôi trả lời.

-          Sao Hùng dám khẳng định như vậy.

-          Còn cái gì nữa mà khẳng định hay không khẳng định.

-          Sao hồi đó Hùng không đi ?

-          Tao không có điều kiện.

-          Tôi cũng như Hùng thôi, mẹ tôi phải bán đất, bán vườn, gom góp cho tôi đi, bây giờ bà còn chỉ cái nhà, còn Hùng thì còn tất cả, chẳng mất thứ gì. Tóm lại, hai ta bằng nhau, chẳng ai sướng hơn ai cả. Đúng không ? Hơn nữa bây giờ là chín giờ sáng mà Hùng còn ngồi đây, ngày nào cũng thế và Hùng có thể ngồi tiếp tới mười hai giờ trưa hoặc đến chiều cũng được. Sau giờ đó, về nhà Hùng cũng có cơm ăn và ngủ thẳng giấc. Riêng bọn tôi ngoài ấy không được đâu Hùng, sáng là bảy giờ hoặc bảy giờ ba mươi là phải có mặt tại hãng để làm việc đàng hoàng, và một ngày tám tiếng răng rắc cho đến sáu mươi bảy tuổi, mới chính thức được nghỉ hưu. Riêng Hùng và các bạn ở đây bằng tuổi tôi, mà đã nghỉ trước đây năm , sáu năm rồi. Và, một điều để cho Hùng hiểu thêm, khi sang ngoại quốc tôi không dễ dàng leo lên máy bay, bay nửa ngày qua bên đó đâu. Tôi phải chui nhủi, lén lút mới ra được biển khơi- được tàu vớt- bỏ lên đảo lây lất mấy tháng trời, tưởng chừng như thất vọng. Hồi ấy họ bắt buộc vào rừng sống với người thiểu số Nam Dương cũng phải đành.

 

     Một ông bạn khác lại bảo, mấy ông Sĩ quan đi diện HO sướng thật, trước ở Việt nam làm Sĩ quan, giờ sang Mỹ, cuộc đời mấy ổng số là Vua. Tôi cười, đừng nói vậy, người ta nghe được người ta buồn.

-          Buồn sao được mà buồn, mấy ổng là Vua chớ còn gì.

-          Sao không nói, họ sang được Mỹ là cả một vấn đề và khổ sở của họ. Họ được sang Mỹ là họ cũng đã trả giá mười mấy năm trời cải tạo của họ rồi đó, họ sang Mỹ, họ lớn tuổi cả rồi, họ chẳng làm gì được hết, họ ngồi nhà, bạn biết nỗi khổ tâm của kẻ ngồi nhà, nhìn ra ngoài trời toàn là Tuyết trắng và chờ đến một ngày nào đó, có thể họ phải vào viện Dưỡng lão nữa là khác, vì con cái họ phải đi làm, không người chăm sóc. Không như quê nhà còn được cháu A, cháu B giúp việc nầy, việc khác đâu.

  Qua những câu chuyện trên và còn nữa, tôi không ngờ họ hiểu một cách cạn cợt như thế, họ chỉ nhìn một cách đơn giản bên ngoài mà tự hoạ một vấn đề, mà mình vừa uống Cà- Phê vừa phải giải thích mỏi miệng, phải ai cũng nghe hết đâu, có kẻ thức thời, có kẻ không. Chính từ  những sự suy nghĩ tầm thường ấy, mà biết bao gia đình vì nhớ thương quê nhà, cha mẹ, anh em, làng xóm khi trở ra đều thất vọng với những người thân của mình. Thật là đáng tiếc.

 

Thủy Điền

Ngày 08, tháng 3, năm 2016

 

 

105- Bắt Tay, Đừng Nên Bắt Chuyện

 

    Xưa nay người Phương tây khi gặp nhau, thường hay bắt tay. Riêng người Á đông mình thì ngược lại, mỗi khi gặp nhau đâu đó, thường hay bắt chuyện. Bắt tay là lối chào hỏi xã giao ngắn gọn, rồi đi. Còn bắt chuyện thì hơi dài dòng hơn, cũng thăm hỏi sức khỏe chung chung, chuyện gia cảnh, làm ăn và dần dà vui miệng, rồi đi xa thêm bước nữa.

 

    Ông sáu Chỉnh hành nghề lái xe Lam tuyến đường Tân Hiệp- Mỹ tho, gần chục năm nay, ông quen biết rất nhiều người và nhất là khu vực bến xe.

  

    Một hôm, xe ông đến tài, nhưng không biết lý do gì, mà cả giờ đồng hồ không có một người khách đến đi, thường khi tới tài, khoảng mười lăm, hai chục phút thì xe ông cũng như những xe khác, mười chỗ ngồi chật nứt. Thậm chí, khách đến sau phải chờ đợi đến chuyến khác. Trong lúc chờ khách, vừa hút thuốc, vừa cầm cây chổi nhỏ quét sàn xe cho sạch sẽ, vô tình ông nhìn thấy vợ thằng năm Gà tòn ten với người đàn ông khác. Chuyện nầy ông cũng đã nghe gần cả năm nay rồi, nhưng đâu có thấy tận mặt, bắt tận tay, chỉ nghe đồn đại, loáng thoáng mà thôi. Mà cả thằng năm Gà cũng thế, nghe người ta nói, rồi về ghen bóng , ghen gió, vì không nắm rỏ sự việc, hay bắt quả tang. Nên bị vợ phản công mấy lần. Sở dĩ thằng năm Gà làm thế, là gì nó quá thương vợ và muốn cản ngăn, phòng hờ, tránh hậu họa.

  

    Sau giờ làm việc về nhà, trong buổi cơm chiều, ông sáu tâm sự hết sự việc nhìn thấy kể cho bà vợ nghe và bảo rằng, bà không được nói với ai điều nầy. Lỡ, vợ thằng năm Gà nghe được là nó sang mắng hai vợ chồng mình, có môn mà độn thổ luôn. Vừa ăn cơm, vừa nghe câu chuyện ông kể, bà ừ, ừ. Tôi không có nói đi, nói lại đâu, ông khỏi lo. Nghe bà nói vậy ông rất an tâm, rồi ông bồi thêm vài lời, nói thì nói vậy, kệ, chuyện nhà ai nấy lo, đèn nhà ai nấy rạng.

  

    Sáng hôm sau đi chợ, bà Sáu gặp bà hai Nhành bạn thân, thăm hỏi ba điều, bốn chuyện bà vui miệng kể hết câu chuyện hôm qua cho bà bạn nghe và cũng bảo, chị đừng nói với ai. Bà bạn hứa sẽ không lập lại chuyện nầy. Thế thì bà sáu Chỉnh rất yên tâm và ra về.

  

    Mấy ngày sau, ông hai Nhành kể cho ba Hoạch, ba Hoạch là một người bạn nhậu, thân thiết nghe tất cả câu chuyện. Ba Hoạch cẩn thận, hỏi hai Nhành ?

-          Hỏi thật anh Hai ? Anh nghe tin nầy từ đâu vậy.

-          Tôi nghe vợ tôi kể, chắc chắn là có thật đó chú.

-          Anh hỏi kỷ lại đi, chuyện không đúng, thiên hạ nghe được kẹt lắm đó anh Hai.

-          Thì tôi bảo với chú, là chỉ nghe nói lại thôi, chuyện nầy nghe xong, chú đừng nói với ai là được, ai biết, mà mắng mình.

-          Ờ, thì xưa nay, anh thấy tôi có nói ra, nói vào gì đâu.

-          Bởi tôi tin chú, nên tôi mới kể, người khác khại miệng, cho tiền, tôi cũng chẳng thèm nói.

 

    Trong ngày đám cưới thằng Lân con ông Bửu Khiêm, có mặt đông đủ bà con trong xóm. Vợ ba Hoạch khiều, khiều vai bà sáu Chỉnh nói nhỏ.

-          Chị Sáu, chị ra đây, nghe em kể chuyện nầy cho chị nghe, động trời lắm.

-          Mà chuyện gì, bà làm quan trọng vậy bà Hoạch.

-          Chuyện vợ thằng năm Gà ngoại tình, chớ ai vô đây. Bà Sáu chỉnh biết ngay là bể chuyện, nên giả đò không biết, hỏi tiếp ? Rồi sao nữa.

-          Ăn ở với người khác lâu lắm rồi, thằng năm Gà bị cậm sừng, mà nó không biết.

-          Chuyện ghê gớm vậy sao ?

-          Em biết lâu rồi, mà tại em không thèm nói thôi, em thấy chị là người kín miệng, nên em mới kể.

-          Cám ơn thím, nghe để tai, tôi chẳng thêm bớt gì đâu. Thôi ta vào ngồi mâm, để mọi người chờ, không nên.

 

    Ăn tiệc cưới về, bà kể cho ông nghe. Ông sáu nầy, hôm nay đi ăn cưới, vợ ba Hoạch kể cho tôi nghe rất rành rẽ chuyện vợ thằng năm Gà ngoại tình với người khác. Vậy là hôm rồi ông kể cho tôi nghe, là hoàn toàn sự thật đó ông. Không lầm đâu.

  

    Ông Sáu vừa nghe bà kể, nửa tin, nửa ngờ vực. Chẳng lẽ ? Mà bà có kể chuyện nầy cho ai nghe không ? Bà chối.

-          Tôi hứa với ông, là tôi chẳng nói ai, tôi là vợ ông, ông không tin tôi à ?

-          Không phải không tin, nhưng tôi sợ bà vui miệng với một ai thì chết mất. Thôi bỏ qua chuyện nầy đi, chuyện của người ta, đừng thèm quan tâm cho mệt. Có hay không kệ họ, chẳng liên quan gì đến mình.

 

    Một tháng sau, vợ thằng năm Gà nghe được, nó mắng cho bà Ba Hoạch một trận, bà ba Hoạch đổ thừa bà hai Nhành, bà hai Nhành đổ thừa bà sáu Chỉnh. Cuối cùng cả xóm bị vợ thằng năm Gà mắng tan nát như tương bầm.

 

    Kết cuộc hỏi ra, vợ thằng năm Gà đâu có ngoại tình với ai đâu, nó chỉ quan hệ vui vẻ với đối tác trong việc làm ăn hàng ngày, lúc thì đi chung, lúc thì thân mật, lúc cười giỡn, lúc đi ăn quán chung, chứ có gì đâu mà thiên hạ nhỏ, to, mổ xẻ ra làm trăm mảnh. Công bằng mà nói, nếu nó ngoại tình thật, nó bỏ nhà đi theo người khác lâu rồi, đừng nói chuyện nó mỗi ngày về sống chung với thằng năm Gà cho mất công.

  

    Sau cơn ấy, ông Sáu nói với bà Sáu, từ rày trở lên, tôi khuyên bà khi gặp người quen dọc đường hay ở đâu cũng thế, nên bắt chướt người Tây bắt tay, chớ đừng nên bắt chuyện. Dễ bị mắng lắm bà ơi.

 

 Thủy Điền

Ngày 26, tháng 02, năm 2016

  

 

 

104- Trớ Trêu

 

    Nghe tiếng mở cửa, Vạn từ lầu ba chạy xuống thấy mẹ và người đàn ông lạ bước vào nhà. Vạn hỏi ?

-          Sao hôm nay mẹ về sớm thế, mọi khi năm, sáu giờ chiều mẹ mới về kia mà. Chào Bác.

-          Chào cháu.

-          Còn ông khách nầy là ai đấy mẹ ?

-          Ờ….ờ…..ờ người làm chung Cơ quan, ghé thăm mẹ đó mà.

-          Mời anh Chinh ngồi nghỉ, uống chi ?

-          Cô cho tôi ly nước Suối cũng được.

 

    Bà Sự kéo Vạn vào nhà bếp và hỏi ?

-          Còn con, sao hôm nay bộ bỏ học sao mà cũng về sớm thế, con về hồi nào ?

-          Dạ, con về lúc mười giờ cơ.

-          Còn lý do ?

-          Hôm nay Thầy con bệnh, ông Hiệu trưởng chỉ dạy thế được hai tiết, rồi cho tất cả về hết, ngày mai đi học lại.

  

    Mời anh Chinh uống nước, anh Chinh nầy, hôm nay không tiện, mong anh thông cảm, khi khác ta sẽ gặp nhau nhé.

   Không sao ! Em cứ an tâm lo việc nhà, ta sẽ gặp nhau vào dịp khác, rồi cáo biệt ra về. Nghe tiếng cổng đóng lại, Vạn chạy xuống lần nữa.

-          Khách về rồi hả mẹ ?

-          Mầy đi lên lầu đi, để mẹ ngồi yên một chút được không ?

-          Dạ.

  

    Bà Sự ngồi trầm ngâm, buồn bã, khó xử, không biết thằng Vạn sẽ nghĩ thế nào khi có người đàn ông lạ cùng đi với mình về căn nhà nầy, trong lúc Cơ quan còn đang làm việc. Nó năm nay mười lăm tuổi chớ ít ỏi gì. Bà xoa xoa vầng trán, rồi ngã lên chiếc ghế Sa-lon ngủ hồi nào mà không hay.

  

   Vạn ngồi trong phòng, đóng cửa chặt lại, tắt máy Vi tính vừa đang chơi, chàng nhận ra người đàn ông cách đây một tuần, có cùng mẹ mình đến đón mình tại cổng trường. Nhưng ông ấy vừa đến, rồi vội vã đi ngay.

  

   Tiếng gõ cửa.

-          Vạn ơi Vạn, ăn cơm, mẹ nấu xong rồi, xuống ăn mau.

-          Dạ, con xuống ngay. Vừa ăn cơm, vừa nói qua, hỏi lại. Bỗng dưng Vạn hỏi ? Ông Bác hồi trưa có thường hay đến nhà mình chơi không mẹ .

-          Chỉ mới lần đầu.

-          Tuần trước con thấy ông ta đi cùng mẹ đến trường đón con.

-          Sao con nói thế ?

-          Giống hệt ông ta, chắc có lẽ con nhầm một ai, xin lỗi mẹ.

 

    Khi nghe Vạn kể hồi tuần trước, bà Sự choáng váng, nghẹn và ăn cơm hết ngon, bà nói.

-          Vạn, con ăn tiếp đi, mẹ thôi.

-          Sao mẹ ăn ít thế ?

-          Hôm nay trở trời hay thế nào, mẹ cảm thấy yếu trong người, ăn mất ngon. Mẹ đi nghỉ một lát.

-          Mẹ cần thuốc không ? Để con đi lấy cho mẹ uống.

-          Khỏi, một chút mẹ sẽ tỉnh ngay, không sao đâu con, ăn xong mang xuống bếp, lát nữa mẹ rửa, con lên phòng học bài tiếp đi.

-          Dạ.

  

    Chuông điện thoại reo vang.

-          Hallo, anh đây, em và con có khỏe không ?

-          Dạ, anh hả, ở nhà khỏe cả, anh có khỏe không, bao giờ anh về ? Vạn ơi Vạn, ba con gọi điện về nè Vạn.

-          Nó làm gì thế ?

-          Dạ, chắc nó đang ngủ.

-          Thôi, kệ để nó ngủ đi, em cứ nói có ba gọi về thăm là được rồi. Vì nay mai anh cũng về rồi, thời gian học tập xong trước dự định.

-          Mừng quá, vậy bao giờ anh về ?

-          Đúng một tuần nữa, em và con ra Phi trường đón anh.

-          Dạ, anh báo cho em lần nữa nhé.

-          Ừ.

 

    Khi cú Điện thoại gọi về từ Paris, bà Sự lẽ ra phải mừng rỡ, vì ngày về của chồng đã đến gần, ngược lại bà dường như bị choáng váng và muốn thời gian dừng lại, nhưng sao nó càng qua nhanh quá, bà bắt đầu ngã bệnh, thân thể tiều tụy, chẳng làm ăn được vì cả, trông người cứ lo sợ hết chuyện nầy, đến chuyện khác. Cả đến thằng Vạn là người hủ hỉ hằng ngày với bà, mà bà cũng chẳng màng tâm đến.

 

    Trên chuyến xe từ Phi trường về nhà, ông nhìn bà trong sự xót thương, cứ nghĩ bà buồn, chờ đợi mà ra thế. Ông nói ?

-          Anh về rồi, mọi chuyện sẽ ổn thôi, buổi cơm gia đình sẽ ngon hơn, giấc ngủ sẽ dài hơn.

-          Cám ơn anh, rồi ngồi yên như bất động. Chẳng nói thêm lời nào, đến nổi chiếc xe dừng trước cửa nhà, mà bà cũng chẳng hay.

  

     Trong những ngày còn nghỉ phép, mẹ đi làm, chỉ còn mình ông và thằng Vạn ở nhà, hai cha con tâm sự với những ngày xa xứ. Vô tình thằng Vạn kể hết chuyện nầy, chuyện nọ, chuyện người đàn ông lạ đến nhà, làm cho ông băn khoăn cộng lời ra, tiếng vào của mấy mảnh tình chồm xóm. Sự nghi kỵ cứ dồn dập vào người. Nhiều lúc ông định hỏi bà cho ra lẽ, nhưng thôi. Vì hỏi ra là điều không ai muốn khi mình đã xa nhà gần hai năm trời nơi đất khách.

   

     Một hôm ông gặp người bạn thân cùng Cơ quan, vì thương bạn mà kể hết sự thật và cũng vô tình làm cho gia đình ông tan nát sau nầy.

    Về nhà, sau buổi cơm chiều, vì thương vợ, thương gia đình ông đành bật miệng, tưởng bà trả lời thế nào còn tha thứ, cứu giản. Ai ngờ ! Bà thú thật tất cả, rằng bà đã yêu người đàn ông khác và đang chờ ông về để nói ra sự thật. Khi nghe xong, ông không còn gì phải hỏi và chỉ biết ôm đầu bật khóc. Khóc cho số phận, khóc một sự việc không lường trước được.

    

     Ngày ra tòa ly dị và cũng là ngày bà cuốn gói theo người khác, chỉ còn lại ông và Thằng Vạn lẻ loi trong căn nhà rộng lớn, đầy đủ tiện nghi, thật là buồn tẻ và ảm đạm.

 

 

Xã hội ngày nay quá trớ trêu

Được « Bằng » mất « Vợ « Vỡ ra điều

Cả hai, ai muốn, thời cũng khó

Cách mặt, xa lòng « lỡ dở yêu « .

 

Thủy Điền

 

 

 

103- Chim Đại Bàng Gãy Cánh

 

   Giữa đêm, khi mọi người đang ngon giấc, thành phố còn đang ồn ào của đêm Giáng sinh 2010. Hắn bò lên cây cầu Dừa, gõ cửa sau nhà.

-          Mẹ ơi, mẹ ơi, mở cửa cho con vào, nhanh đi mẹ.

-          Trời đất ơi, sao con ra nông nỗi nầy hả Cường ?

-          Đừng hỏi nữa mẹ, đóng cửa lại đi, mọi chuyện sáng rồi hãy tính. Rồi hắn đóng cửa phòng chặt lại, làm cả nhà phải lo sợ, thấp thởm, thức sáng đêm và trông trời mau sáng, để xem việc gì đã xãy ra.

 

    Hắn rất hiền và là đứa con ngoan ngoản nhất nhà. Tuổi thanh xuân, hắn chưa hề bị cha mẹ, gia đình phiền trách và cả xóm giềng cũng thế.

 

    Năm hắn học lớp tám, vì hiền quá, nên hay thường bị bạn bè lấn ép, thậm chí còn bị chúng đập vô cớ cho mấy trận. Hắn tức giận vô cùng, lẽ ra hắn phải báo với cô giáo, nhà trường hay về nói lại với cha mẹ, để mọi việc cần phải được chấm dứt ngay. Đàng nầy hắn cứ chịu đựng, lặng câm. Và, lâu ngày vẫn cứ thế, hắn không chịu nổi nữa, nên suy nghĩ và tìm cách chóng đỡ.

 

    Một hôm tan học về, hắn bị ba thằng bao vây, hắn tựa mình vào góc tường và cầm sẵn cây thanh sắt, rồi đập cho mỗi thằng vài cây, chúng ôm đầu máu và rồi bỏ chạy. Chuyện chưa xong, ngày hôm sau chúng kéo đến năm thằng, nhất quyết thanh toán và xử đẹp hắn, ai ngờ ! Hắn cao cơ hơn, thủ sẵn con Dao trong cặp da, khi bị bao vây hắn nhào đến lụi đại vào một thằng rồi thoát thân. Khi thấy đỗ máu chúng cũng bỏ chạy lần hai. Cuộc đỗ máu động đến Nhà trường và Chính quyền, nên cuối cùng hắn bị kỷ luật và đành bị đuổi học. Sau cơn ấy cha mẹ hắn gởi hắn vào học trường tư. Ở đây hắn muốn đi học lại bình thường, không muốn gây gỗ, đụng chạm kẻ khác. Nhưng rồi, cái đám lưu manh kia ở đâu cũng có, lại xuất hiện, vớ vẩn trước mặt hắn, khiến hắn không kiềm chế được và ra tay. Kể từ đó hắn trở thành một kẻ thất học và giới Giang hồ nhí biết đến, rồi tìm cách kết nạp hắn vào Băng, Nhóm. Lúc đầu hắn không tham gia, nhưng cứ ở nhà lang thang, lời ra, tiếng vào, thị phi, dèm pha nên hắn quyết định gia nhập vào Băng, Nhóm khi tuổi đời vừa mười sáu tuổi. Băng, Nhóm nầy toàn nhí, hút sách, cướp giựt, đứng bến, đòi nợ, bảo kê. Tay anh chị Trưởng nhóm chỉ vừa bằng tuổi hắn. Bước đầu hắn được phân công bảo kê nhà hàng, quán Karaoke. Đây là một công việc rất khó và phải gan dạ, bản lĩnh vì hắn phải đối đầu với các phe nhóm khác để giành địa bàn. Tay Đại ca ngồi nhà, bắt hắn và một số đàn em phải mọi giá giữ trọn các cửa hàng con đường Nguyễn Huệ và Nguyễn Tri Phương, nếu không hoàn thành nhiệm vụ, hắn sẽ bị đàn anh xóa tên. Hắn khi nghe nói hai chữ xoá tên, tự ái, tức quá, ở nhà chẳng làm tích sự gì, mà còn bảo « Nếu không xong việc, sẽ bị xóa tên « 

 

   Đêm ấy, hắn đang thâu tiền bảo kê tại một nhà hàng, thì bị nhóm khác ập vào thanh toán, đám bạn đi cùng hắn bảo vệ phía trước nhà hàng sợ, bỏ chạy. Chỉ còn một mình hắn trong nhà hàng và hắn nhanh nhẹn nhẩy vào nhà bếp chớp hai con Dao to và chiến đấu tới cùng, cuối cùng hắn thoát thân và để lại những vết Dao dằn mặt ; những vết máu vẫy đầy. Khi công an đến những anh hùng chiến bại được đưa vào nhà thương và sau đó vào khám Đường ngồi nghỉ mát, gỡ lịch. Về đến nhà, hắn móc túi trao hết số tiền cho Đại ca, Đại ca nói, thế là giỏi và thọt tay lấy tiền. Đại ca chưa kịp lấy tiền, hắn đang cầm con Dao trên tay đầy máu và sẵn dịp cho Đại ca về chầu Âm phủ, bởi lời nói cách đó vài giờ « Nếu không xong chuyện, mầy sẽ bị xoá tên « .

  

   Sau khi Đại ca qua đời, đàn em phong hắn làm Sư phụ và xâm sau lưng hắn một con Đại Bàng thật bự để thể hiện là một đàn anh. Thân hình hắn ốm tong, ốm teo khoảng bốn mươi lăm ký và là con thứ tư trong gia đình, hắn đổi danh là mười mập. Từ ngày hắn lên làm Đại ca, lời hắn hét ra là cả đàn em đều xanh máu mặt, vì hắn nói, là hắn làm ngay, hắn không chần chừ và biết sợ sệt. Đều đặc biệt ở hắn, là làm Giang hồ là phải ra tay, làm Đại ca là phải đi trước và hành động trước, nên đàn em hắn rất phục hắn.

  

   Khuya Nöel 2010, cũng vì giành giựt Địa bàn, hai phe đã bày trận sát đấu, kéo dài khoảng mười lăm phút, vì thấy đàn em chịu không nổi sức ép của đối phương, hắn hy sinh xung phong định hạ gụt tay đầu đảng, nhưng không ngờ, hắn bị một nhát chém lén sau lưng đứt nửa con Đại Bàng. May nhờ Công an vừa đến kịp lúc, đối phương kéo nhau bỏ chạy, nên hắn thoát chết. Tuy, bị thương rất nặng, hắn cố gượng, điều khiển và ra lệnh cho đàn em tẩu thoát, riêng hắn một mình nhẩy xuống dòng sông Bảo Định giữa đêm khuya bơi về nhà. Khi vừa vào nhà xong, hắn đóng cửa chặt lại. Ai ai cũng nghĩ hắn đang ngủ. Và, cả nhà đêm ấy phải đành thức trắng đêm, chờ sáng dậy, xem hắn sẽ nói điều gì. Ai ngờ ! Sáng hôm sau người nhà gọi hắn mãi mà không thấy trả lời, bèn tung cửa vào, thì thấy hắn đang nằm đấp mền và chết tự lúc nào. Cả nhà đỡ hắn dậy, lo dọn dẹp, tắm rửa để tẩn liệm, thì chợt thấy trên lưng hắn xâm hình một con Đại Bàng to tướng bị chém đứt làm hai. Ba hắn nói.

   Không ngờ ! Thằng Cường là một « Tướng cướp ».

 

Thủy Điền

 

 

 

102- Chú Tiều Phánh

 

   Mọi người ở bến đò Long Mỹ, xưa nay đều gọi hai ông bà người Hoa bán thuốc bắc, cái tên « Tiều Phánh « . Đặc biệt, cũng chẳng ai biết nguồn gốc gia đình Tiều Phánh có mặt ở bến đò nầy bao lâu. Nghe nói đâu, đời ông Cố, ông Sơ họ từ bên Tàu sang và tấp vào làng Long Phú nầy sống cho đến nay. Những người xưa thì đã qua đời, chỉ còn trơ lại Tiều Phánh và mấy anh em sống gần đó chừng năm cây số.

  

   Tiều Phánh còn có biệt danh nữa là « Tiều tiện « Sở dĩ có cái tên nầy là vì gia đình hắn tỏ vẻ bề ngoài rất hà tiện, hắn chỉ có cái áo Kaki xanh da trời mặt hết năm nầy, qua tháng nọ. Vợ, con hắn lúc còn nhỏ cũng thế, cứ lèn xèn, nhìn chẳng ra gì. Gia đình hắn chuyên bán thuốc bắc, củ Cải muối, dưa Cải ngâm, nước Tương, Chao và vài thùng thiếc bánh con Sò, bánh In, bánh lỗ tai Heo Xí muội, quả Hạnh ướp đường. Tiệm thuốc thì ít ai tới, cửa hàng thì ế ẩm, thế mà không biết sao hắn nuôi nổi mười đứa con đi học ở Sài-Gòn; đứa nào cũng thành tài và ở tận trên đó, thỉnh thoảng, lâu lâu chúng nó thay đổi về quê thăm hắn.

 

    Hồi đầu bà con ở bến đò Long Mỹ, nghĩ vợ chồng hắn hà tiện, chắc chiu, ăn cực, ăn khổ nuôi con, nên người ta mới gáng cho hắn cái tên « Tiều tiện « Vợ hắn thường hay đi chợ vào lúc xế chiều, chủ yếu mua hàng ế, thừa, giá rẻ. Riêng hắn chưa bao giờ ra quán Cà- Phê hay quán Hủ tiếu ngoài bến đò, mà chỉ biết ngồi nhà uống Trà một mình. Ngoài đường ai gọi hắn là Tiều tiện, hắn chỉ cười và cho qua. Nhiều lúc ở bến đò thấy vợ chồng hắn nghèo, con đông nên hay thường ghé qua, mua giúp cửa hàng hắn một ít, để gọi là. Rồi chuyện đời, thời gian, ngày qua ngày, chuyện ai nấy làm, nhà ai nấy sống, người ta không còn quan tâm đến hắn nữa, chỉ khi gặp nhau, gật đầu, chào hỏi, hốt thuốc, mua hàng, bán hàng bình thường như bao cửa hàng khác.

 

   Nhưng không ngờ! Sau ngày hòa bình, tá hoả ra, hắn không phải là Tiều tiện nghèo nhất bến đò, mà hắn là Tiều Nậu, giàu có nhất làng, chớ đừng nói nhất bến đò cho mất công. Hắn là tay Thương gia giả nghèo cả hai chục năm nay. Hàng tháng hắn chở một lần hai ghe bầu vào bưng để bán như : Vải Ny-Lon, gạo, muối, đường, kem đánh răng, thuốc lá, rượu, đậu xanh hột, thuốc bắc, thuốc tây, thịt và dụng cụ y tế. Hắn thu về một số tiền rất lớn, mà chẳng phải trả một đồng tiền công nhân hay một đồng thuế má nào. Bởi thế, hắn mới nuôi nổi mười đứa con ăn sung, mặt sướng nơi chốn đô thị phồn hoa Sài-Gòn và chúng đã thành công, có công ăn việc làm vững chắc nơi đó. Chỉ riêng hai vợ chồng hắn chịu hy sinh cực khổ nơi quê nhà.

  

   Năm 1979 hắn đóng vàng cho cả mười đứa con hắn đi đăng ký hợp pháp và cả mười đứa đều lọt qua Tây Đức hết, khi qua Tây Đức xong, chúng làm đơn bảo lãnh vợ chồng hắn ngay và chỉ trong vòng một năm, tức tháng mười hai năm 1980, là hai vợ chồng hắn có hộ chiếu, Visa leo lên máy bay sang Đức với diện đoàn tụ gia đình. Chưa hết, sau khi học tiếng Đức chín tháng bắt buộc hoàng tất. Hắn không cần tìm việc làm hay lãnh tiền trợ cấp nào của Chính phủ như bao người khác, hắn lập tức liên lạc các công ty lớn bên Pháp như Tăng freres , Paristore tại Paris (Pháp) rồi cùng các con mở ngay hai Siêu thị thực phẩm Á đông thật lớn để kinh doanh và hai Siệu thị ấy vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

 

Thủy Điền

 

 

101-Tìm Lại Mùa Xuân

 

      Cứ mỗi độ vào khoảng mùng năm, tháng hai dương lịch là Hoa thường hay bảo chồng.

-Anh ơi, mình đánh xe ra tiệm thực phẩm Á đông mua ít hàng về ăn Tết Nguyên đán.

-Quang bảo, đi thì đi, nhưng nói mua hàng về ăn Tết thì không đúng.

 Hoa hỏi? Tại sao.

 -Quang trả lời, ăn Tết, người ta ăn vào đầu xuân, Mai vàng, nắng ấm, còn đàng nầy ngoài trời Tuyết trắng vây quanh, bốn bề giá lạnh, mà bảo là ăn Tết. Tết cái nổi gì.

 -Thì mình ăn Tết theo quê nhà, ở đây có gì thì ăn nấy, cũng vui vậy. Có còn hơn không. Chẳng lẽ Tết ngồi xem Tivi thì cũng phô quá.

    

     Kể từ ngày xa quê đến nay, đã gần ba mươi lăm năm, năm nào cũng như năm nào, Hoa và Quang cũng cố tìm mua cho được những thứ như: Bột nếp , Đậu xanh cà, Củ kiệu, Gừng v.v..

để về làm cái Tết cho ra vẻ.

    

     Hồi những năm đầu mới sang, muốn mua những thứ nầy phải đi thật xa. Tận những thành phố lớn mới có, thật là vất vả, hơn nữa ngày Tết Nguyên đán thường rơi vào thời khắc Tuyết phủ đầy sân, khí trời cóng lạnh, thời gian đi mua rất là nguy hiểm. Qua nhiều năm, dần… dần có nhiều người Việt sang định cư, có vài người kinh nghiệm, khôn ngoan, nghĩ ra cách đi mua hàng từ nơi khác đem về, rồi chở đến tận từng nhà để bán lại, kiếm lời. Mặc dầu không đầy đủ, đắc một chút, nhưng cũng có thể mua được những thứ cần thiết và khỏi phải bỏ công đi xa, tốn kém, cực khổ. Nếu không đủ hàng dùng, còn thiếu lại bao nhiêu thì mua thêm những hàng tương cận của Tây rồi chế biến lại. Cuối cùng thì nhà nào cũng có một mâm cơm cúng Phật và Ông bà thật là tươm tất; hoành tráng. Sau khi cúng vái xong, cả nhà cùng xúm nhau hưởng xuân, vừa ăn, vừa kể chuyện, vừa ngắm những cành Mai mũ tự chế thật thú vị vô cùng. Thật lòng mà nói, người lớn thì còn tưởng tượng đến cái Tết quê nhà, còn riêng lũ trẻ con thì chẳng biết gì. Dù cha mẹ có kể trăm ngàn câu chuyện chúng vẫn ừ ừ rồi xoay lưng quên mất. Cha mẹ thì kể Mai vàng, Pháo đỏ, bánh Chưng, bánh Dầy, ngày xuân cái gì cũng được thể hiện, trưng bày toàn màu đỏ. Ngược lại, nghe xong, chúng nhìn ra cửa toàn một màu Tuyết, trắng xóa vây quanh.

  

    Những năm về sau các con dần… dần lớn khôn, nhiều cặp vợ chồng nghĩ ra cách, để các con hiểu được thế nào là ngày Tết. Như tự tạo thành những chậu hoa Mai kết bằng vải và những lọn Pháo đỏ treo tòn ten trước cửa nhà. Ý tưởng nầy cũng hây, làm cho những đứa trẻ tò mò và hỏi? Cái gì thế, rồi cha mẹ từ… từ giải thích và hiện tại chúng đã thật sự hiểu rõ ngày Tết đều cần những thứ ấy. Nhưng đó chỉ là mường tượng mà thôi.

    Ngoài việc tổ chức Tết ở nhà, người ta còn tổ chức thêm Tết tập thể ở một vài nơi có nhiều người Việt đang sinh sống, nơi đó, quy tụ rất đông người từ các nơi đỗ về, rất vui và nhộn nhịp.

   Giữa mùa đông Tuyết trắng, kẻ mặc áo lông dầy, người mặc Mantel đứng lúm xúm, miệng thở ra hơi lạnh, như đang nhả khói thuốc, cùng kể chuyện ngày xuân nơi quê nhà, trông rất là khổ cực, nhưng họ rất vui và hứng thú. Càng đứng lâu ngoài trời tâm sự, mỗi người càng lúc càng già đi mười, hai mươi tuổi, đầu bạc trắng ngà, bởi, những hoa Tuyết đang rơi, bám vào mái tóc thanh xuân, hai gò má đỏ hồng, môi run run, tay thoa thoa, chưa bao giờ ngừng nghỉ.

 

    Bên trong Hội trường thì ấm cúng hơn, nào Văn nghệ, nào Bầu Cua, Cá Cọp, Tài xĩu, lao xao tiếng ăn thua, như cái chợ đầu làng. Bên cạnh, cũng có số người khéo tay làm ra những thứ như bánh Mứt, bánh Tét, bánh Chưng và ẩm thực Việt nam được bày bán với gía bình dân thật là đình đám. Mọi người muốn ăn thứ gì, món gì đều có cả. Những hình ảnh ấy còn nhộn nhịp hơn một thôn nhỏ nơi quê nhà.

   

   Mỗi khi đến tháng hai ( Dương lịch ) nghe thông báo sắp tổ chức Tết, ai ai cũng đều mừng, vui vẻ, hớn hở đón chào. Nhưng ngược lại, lòng thấy ngài ngại, bởi ngoài trời Tuyết trắng đang rơi, vây phủ, bao trùm sự lạnh lẽo, nguy hiểm, nói thì nói vậy, nhưng mọi người vẫn cố gắng tranh thủ đến sớm, để tận hưởng trọn vẹn ngày Tết nơi xứ người.

  

   Ba mươi lăm năm xa quê, nhìn ba mươi lăm mùa đông, chồng chất ba mươi lăm tuổi đời, mất đi ba mươi lăm năm cái Tết quê nhà. Nhưng lòng người tha hương vẫn cố tìm lại những mất mác ấy bằng những cành Mai mũ và những đòn bánh Chưng, bánh Tét được gói thay lá chuối bằng những cuộn mũ và giấy bạc Aluminum.

 

Thủy Điền

 

 

100- Đoàn Nông Gia Tương Lai Trí Dũng

 

Sơ lược Tiểu sử

 

   Đoàn Nông Gia Tương Lai là một tổ chức, trực thuộc Trường trung học Nông Lâm Súc Định Tường. Được thành lập ngày…,tháng…, năm…theo Quyết định số…ngày…,tháng…,năm…của Nha học vụ Nông Lâm Súc Việt Nam.

 

 Mục đích:

Tạo điều kiện cho mỗi Học viên hiểu dần đời sống của người Nông dân, rèn luyện học tập, nâng cao tinh thần đoàn kết, tương thân, tương trợ lẫn nhau trong học tập và trong cuộc sống.

 

 *Về mặt Tổ chức:

Đoàn được đặt dưới sự hướng dẫn và cố vấn của thầy:

   Nguyễn Trung Bình

 

Thành phần lãnh đạo:

-          Trương Công Hòa (Chủ tịch Đoàn) K1

-          Nguyễn Văn Tấn (Phó Chủ tịch Đoàn) K1 (Chết)

-          Nguyễn Thị Chắn (Phó Chủ tịch Nữ) K2

-          Nguyễn Thị Dung (Thủ quỷ) K1

 

Danh sách các Đoàn viên:

1-      Đoàn Hữu Phước K1 (Chết)

2-      Nguyễn Hoàng Long K2 (Chết)

3-      Nguyễn Hoàng Phi K2

4-      Nguyễn Văn Hiệp K2

5-      Võ Đăng Khoa K3

6-      Nguyễn Xuân Khoa K3 (Chết)

7-      Phạm Trần Huỳnh K3

8-      Nguyễn Văn Trọng K3 (Chết)

9-      Nguyễn Văn Huyền K3

10-  Nguyễn văn Hoành K3

11-  Nguyễn Văn Bình K3

12-  Nguyễn Văn Thới K3 (Chết)

13-  Nguyễn Văn Hạnh K3

14-  Trần Thị Thêu K3

15-  Nguyễn Thị Nguyệt K3

16-  Nguyễn Thị Bê K3

17-  Nguyễn Thị Cúc K3

18-  Lâm Tố Mỹ K3

19-  Nguyễn Thị Kim Thoa K3

20-  Nguyễn Thị Kim Tuyến K3

21-  Hồ Thanh Đảo K4

22-  Nguyễn Văn Tâm K4

23-  Lê Văn Tuấn K4

24-  Phùng Trung Dung K5

25-  Hồ Văn Tuấn K5

*Đặc điểm riêng cuả Đoàn NGTL Trí Dũng:

- Huy hiệu

- Khăn quàng cổ (Nền tím, viền xanh lá cây)

*Phương châm của Đoàn:

- Học để làm

- Làm để sống

- Sống để phụng sự.

 

    Những ngày đầu, Đoàn vừa được thành lập. Đoàn nhận được sự quan tâm ưu ái của Ban lãnh đạo nhà trường, như cung cấp cho một khoảng đất rộng trước sân trường. Khoảng đất nầy dùng để sử dụng cho việc canh tác nhằm mục đích gây quỷ cho đoàn.

  

   Thời gian hoạt động của Đoàn chỉ được thực hiện vào những ngày lễ và những ngày cuối tuần. Thời gian nầy được chia cụ thể hai phần như sau;

Ban ngày:

   Tham gia vào công tác lao động như : Vỡ đất, trồng trọt, bón phân, tưới nước , trừ sâu, thâu hoạch. Nói chung cả Đoàn rất vất vả từ sáng đến chiều. Ngoài ra còn tổ chức thêm chương trình giúp đỡ, hỗ trợ cho những bạn đang gặp hoàn cảnh khó khăn.

      Ban đêm:

   Đoàn tổ chức những cuộc cấm trại, những cuộc cấm trại nầy được thay đổi với những điểm khác nhau, tùy theo tình hình và điều kiện cho phép. Ví dụ hay mượn các nhà của những thành viên trong Đoàn như ở: Chợ Gạo, Bình Phục Nhất, Ong Văn, Long Bình Điền v.v. Trong thời gian cấm trại chúng tôi phải chuẩn bị rất kỹ lưỡng đủ mọi mặt như: Lều, Mền, Chăn, Dụng cụ nấu ăn và Y tế. Ngoài ra có nhiều trường hợp anh Đoàn trưởng phải đến từng nhà xin phép gia đình, cho các bạn tham gia nhất là các bạn nữ. Đêm cấm trại chúng tôi tổ chức đốt lửa trại, nấu ăn, ca hát, sinh hoạt.

 

   Ngoài những hoạt động trên, Đoàn còn tham dự những cuộc cấm trại ngoại khóa cùng các Đoàn bạn như các Đoàn:

1-      Gia đình Phật tử

2-      Du ca Lam sơn

3-      Du ca Sóng biển

4-      Trẻ vui sống

5-      Hướng đạo

tại bãi biển Ô Quắn – Vũng Tàu. Những lần hoạt động tập thể, chúng tôi tổ chức những cuộc thi đua rất hào hứng, nói chung Đoàn NGTL Trí Dũng luôn đạt những kết quả rất cao, đáng tự hào.

 

  * Những kỷ niệm khó quên

1-      Đoàn chúng tôi cùng thầy Triệu về trường Nam tiểu học Gò Công để cấm trại; giao lưu cùng với Đoàn Du ca Sóng biển. Lần ấy có tổ chức cuộc thi nấu ăn giỏi. Đoàn chúng tôi được bầu chọn nấu ăn ngon và người nấu giỏi nhất là chị Trần Thị Chắn và được nhận phần thưởng là một Gấu bông. Sau đó thầy trò cùng nhau dạo biển và bắt Nghêu về liên hoan một bữa thật thú vị vô cùng.

2-      Lần hai chúng tôi cùng Thầy Hiển (Giáo sư trường Nguyễn Đình Chiểu) về Hà tiên, đêm ấy không may, Đài báo sẽ có Sóng thần, nên anh em trong Đoàn phải nhổ Lều chạy về trường Tiểu học Rạch Giá để tránh bão. Sáng hôm sau trời êm, chúng tôi tiếp tục lên đường đi Thăm mộ Mạc Cửu, Thạch động, Hòn vọng phu. Những di tích thật tuyệt vô cùng, rất xứng đáng là điểm dừng cho khách hưởng du.

3-      Để kỷ niệm ngày NGTL Việt Nam, được tổ chức tại tỉnh Phước Tuy. Nơi quy tụ tất cả những Đoàn NGTL của các trường NLS trên toàn quốc. Trường ta cử anh Hoà làm Trưởng đoàn dẫn đầu. Trong quá trình giao lưu, thi thố. Anh Hoà là người được bình chọn, người hoạt động phong trào giỏi nhất, đây là niềm Hãnh diện và Tự hào cho Đoàn NGTL Trí Dũng nói riêng và trường Trung học NLS Định Tường nói chung.

 

   Sau hơn bốn mươi năm, gần nửa đời người, những kỷ niệm đáng nhớ, tôi nhận ra rằng Đoàn NGTL Trí Dũng là một tổ chức nằm trong phạm vi Học đường, nơi ấy tôi đã trải qua thời thanh xuân một khoảng ngắn, tôi đã học hỏi được bao điều có ích trong cuộc sống, như tình thương yêu đồng đội, đoàn kết, chịu đựng gian khó và biết hỗ trợ lẫn nhau trong những lúc gian khó, khốn cùng.

 

Thủy Điền

 

 

 

 

 

99- Cây Trâm Linh Thiêng

 

   Mỗi sáng theo mẹ đi chợ hay đi học, và ngược lại khi đi về cũng thế. Mẹ nó thường bảo, khi đi ngang qua cây Trâm linh thiêng con nhớ cuối đầu hay chấp tay xá một cái, rồi hãy đi qua nha con. Nó hỏi ?

-Tại sao phải làm thế. Mẹ nó trả lời.

-Rằng cây Trâm nầy rất linh thiêng, mình làm như vậy cốt để Ma, Quỷ phù hộ mình. Nó bảo tiếp.

-Ở đây cả chục cây Trâm, mà chỉ lại xá cây Trâm nầy sao?

-Vì những cây Trâm khác là những cây Trâm bình thường, không cần phải làm như thế.

-Dạ, con sẽ làm theo ý mẹ.

 

    Mẹ nó còn nói, cây Trâm nầy có lâu rồi, trước ngày bà sanh mẹ là đã có nó, bây giờ mẹ sáu mươi bảy tuổi. Có lẽ nó từ bảy mươi trở lên, đường kính gần một mét, chiều cao khoảng hai chục mét, tàng cây gần chục mét. Nằm giữa đồi thoi thỏi, chung quanh chừng hai chục hộ người xứ Nẩu ngoài miền trung vào đây lập nghiệp. Họ sống bằng nghề đan lưới gân và lưới chỉ để bán, rất khá, thậm chí có người rất giàu có.

  

   Cây Trâm nầy trước ngày giải phóng, có rất nhiều bàn thờ nhỏ, cúng xung quanh cây. Nghe đâu có nhiều người bị chết oan tại đây như :

-Trường hợp ông tư Sang bán quán chạp phô, đêm về, người ta gõ cửa, muốn mua hàng, ông nạt nộ và không thèm bán. Sau mấy hôm người ta phát hiện ông bị chết tại đây, rất là thê thảm.

-Trường hợp hai có ông Chớp bu đêm về ngủ với vợ, chưa trọn đêm, sáng hôm sau cũng thấy ông ta nằm nghẽo tại gốc Trâm nầy.

-Trường hợp ba có một ông trong thôn, miệng mồm lép xép, nhiều lần bị cảnh cáo. Nhưng chứng nào, tật nấy và cuối cùng vợ con cũng ra đây mang xác ông về. Và, còn nhiều trường hợp khác nữa. Bởi thế, người ta đặt cho cây Trâm nầy là cây Trâm linh thiêng, vì biết bao oan hồn còn phản phất nơi đây.

 

    Ngày đất nước hòa bình, chính quyền xã bắt mang những bàn thờ đi nơi khác và cấm tuyệt đối, không ai được đốt nhang dưới gốc cây Trâm nầy, nhằm mục đích trấn an người dân và bài trừ mê tính dị đoan, duy tâm. Chính quyền cấm thì cấm, dân dọn dẹp thì dọn dẹp, nhưng từ già đến trẻ, ai ai cũng hiểu rằng, cây Trâm nầy ngày xưa là như thế. Nếu muốn biến nó đi phải đốn bỏ cây Trâm và vài chục năm sau hy vọng mới xóa được trong đầu họ.

 

    Cây Trâm linh thiêng hàng năm có rất nhiều trái, nếu thu hoạch đúng mức, có thể lên đến hai, ba cần xé và đem đi bán với một số tiền không ít.

    Lúc vừa mới giải phóng có anh thanh niên trong thôn, ra tay anh hùng, trèo lên định hốt quả to. Ai ngờ một lát sau, bị té xuống đất và gảy cả hai chân. Có người bảo, do Thần linh xô xuống đất, có người lâm le, tại nó trượt giò, trượt tay nên mới bị té. Và, kể từ đó cho đến nay chẳng ai dám trèo lên cây Trâm linh thiêng để hái những quả Trâm nữa. Nó, xem như bị bỏ  hoang. Cứ đến mùa là chim tha hồ cắn phá và ăn, vì số lượng nhiều quá, nên khi tàn mùa Trâm rụng đầy, phủ đất, một màu đen thẩm.

   Khi nó nghe mẹ kể, nó thật sự bàng hoàng, choáng váng, thế ra cây Trâm nầy có nhiều gốc tích cổ xưa.

  

   Một hôm, mẹ nó bị mất năm chỉ vàng, lý do chôn dưới chân giò của bộ Ván gõ, vì lâu quá, bà muốn lấy lên bán, để mua ít vật dụng trong nhà, nhưng không ngờ nó biến mất. Bà nghi trong nhà hết người nầy đến người khác. Ai ai cũng bảo, rằng không có lấy, mẹ nó tức quá mua bó nhang ra cây Trâm linh thiêng vái lén, nhờ những người chết oan và các vị Thần linh về báo mộng, chỉ giúp giùm. Thật cũng may, vừa cúng xong, về nhà, hôm sau bà nằm mộng và đào tiếp xung quanh chân giò bộ Ván, cuối cùng bà tìm được. Bà mừng quá vội đi mua đĩa trái cây định mang ra cây Trâm linh thiêng cúng trả lễ, cám ơn, nhưng không dám, vì sợ chính quyền bắt, phạt, nên bà phải đành cúng tại nhà. Và, bà bắt đầu đi xin lỗi từng người trong nhà vì bà đã nghi oan cho họ, trong số đó có nó. Vô tình nó vọt miệng nói, theo nó, chẳng có thầy bà gì cả, tại mẹ chôn dưới chân giò, hôm nay, mẹ dời đi một chút, ngày mai, mẹ nhích đi một chút , cuối cùng bị xê dịch, nên mẹ tìm không ra đó thôi. Mẹ nó tin dị đoan, nên quát cho nó một trận tơi bời và bảo rằng « Nó coi thường Trời, Phật « :

  

   Mấy hôm sau, trong nhà ai cũng bênh vực nó, rằng nó nói đúng, còn bà nhất định là không, chỉ có cây Trâm là linh thiêng thôi, nếu không có những Thần linh ngoài ấy chỉ bảo, là bà bị mất năm chỉ vàng mất rồi.

 

Thủy Điền

  

 

 

 

  98- Hãnh Diện Và Tự Hào Là Điều Cần Thiết

 

   Ngày 26 tháng 10, năm 2015. Tình cờ tôi có đọc được Trang thơ mạng trên Internet, thấy rất thú vị. Nên tôi có Mail đến đó và xin hỏi? Tôi có ít bài Văn, thơ muốn gởi đến trang mạng tham dự cho vui có được không. Hai ngày sau, tức 28 tháng 10, thì nhận được sự trả lời, dường như phía bên kia là ông Chủ nhiệm nói rằng.” Cám ơn bạn đã có nhã ý, như bạn biết, thơ bây giờ chúng tôi rất giới hạn. Bởi Việt nam ta hiện có 90 triệu dân mà 90 triệu người nầy đều muốn trở thành Thi sỹ cả. Vì thế bạn thông cảm cho chúng tôi “. Tôi hiểu ý ông ta là từ chối, không chỉ riêng tôi, mà cả người khác, khi gởi những bài thơ đến ông.

  

   Khi đọc qua lá thư phản hồi, tôi không hiểu hàm ý của ông ta dành riêng cho 90 triệu Thi sỹ nầy như thế nào. Nhưng riêng tôi, khi đọc xong, thì rất vui mừng và phấn khởi, thí điều muốn nhẩy tung lên mà tự hào. Vì Việt nam ta bây giờ mọi người ai ai cũng đều giàu có, sung túc và tràn đầy hạnh phúc.

  

   Để chứng minh điều nầy tôi xin đưa ra hai ví dụ cụ thể như sau:

Trong xã hội sinh hoạt hàng ngày, có hai hạng người.

1-      Một người làm việc bình thường từ thứ hai - thứ sáu và cuối tuần còn phải đi làm thêm như bồi bàn , rửa chén ở các nhà hàng v.v…

2-      Một người khác cũng làm việc như thế, nhưng cuối tuần nghỉ, dẫn vợ con đi ăn hết quán nầy, đến quán nọ. Thậm chí mua những cuốn sách dạy nấu về chế biến những món ngon vật lạ, mà chẳng thèm làm thêm một giờ nào vào cuối tuần.

   

   Người thứ ba đứng bên kia đường nhìn thấy. Ồ ! Ông bạn số một giàu quá, làm mãi, tiền để đâu cho hết. Còn ông bạn số hai ăn xài kiểu nầy có môn mà chết đói không hay.

    Xin thưa ! Ông bạn đứng bên lề đường.

Chắc ông quên rằng, anh số một còn nợ nhà Bank một cái nhà và một chiếc BMW, thì thử hỏi cuối tuần làm sao mà anh ta ngồi nhà yên được chứ. Riêng anh số hai chẳng nợ ai cả, đủ ăn. Đã nói là đủ ăn, thì chạy đôn, chạy đáo làm gì cho cực, thời gian ấy, anh ta dành hết vào những khoảng như đã nói ở trên.

    Tóm lại, Việt nam ta có 90 triệu người hiện tại đang nằm trong Top của anh số hai.

 

   Như ai ai cũng biết, dân tộc Việt nam là một dân tộc vốn thông minh, cần cù chịu khó, học hỏi. Nhưng không may, đất nước ta đã trải qua những thăng trầm của Lịch sử, hết giặc nầy đến giặc khác. Chiến tranh triền miên khói lửa, gần đây nhất như giặc Pháp, Nhật, Pháp rồi đến Mỹ. Công việc hàng ngày là phải đánh đuổi giặc, bảo vệ Tổ quốc, cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm, thử hỏi ? Còn lý trí, công sức đâu nữa mà làm thơ, làm văn ca ngợi Tình yêu quê hương đất nước. Bởi thế, giai đoạn khó khăn ấy, dân tộc ta dường như bị tạm đứt đoạn. Thật đáng tiếc, nhưng phải đành chấp nhận mà thôi.

  

    Sau ngày giải phóng, hoà bình được lập lại, giặc ngoại xâm không còn nữa, dân tộc ta trở lại cuộc sống bình thường và dần dần cùng nhau tạo dựng lại cuộc sống mới. Điển hình là kể từ năm 1986 nhà nước đã mở ra bước ngoặc mới, đồng thời tạo những điều kiện tối đa, để dân tộc ta tiến lên một xã hội tươi đẹp và giàu có. Bằng chứng ràng ràng trước mặt, Việt nam bây giờ từ Bắc chí Nam, nơi nào cũng phát triển như nhau. Điện, Đường xá, Cầu cống, Trường học, Nhà thương, khu Công nghiệp, Hàng hóa, Thông tin đại chúng, ngựa xe như nước, không còn một căn nhà lá lụp xụp như xưa. Nói chung, thứ gì cũng có, muốn làm gì cũng được, nhưng đừng vượt quá những gì không cho phép. Như thế là quá đủ, quá tự do rồi, còn đòi hỏi gì nữa. Đúng không ?

 

    Qua những điều trên cho ta thấy, hiện tại ai cũng ăn no, mặc ấm cả, không phải âu lo cho ngày mai. Bởi thế, họ rất thanh thản và thoải mái trong lòng. Khi con người đạt đến những đỉnh cao ấy, tất nhiên họ nhìn cái gì cũng đẹp cả, mà khi trong lòng như thế thì tự nhiên họ sẽ « Xuất khẩu thành thơ « . Đó là điều tất nhiên. Thơ là gì ? Là người ta muốn phơi bày những ý tưởng đẹp bằng ngôn ngữ, biểu lộ tình cảm của mình với người khác một cách chân thật và khách quan. Có nhiều người cũng thường bảo, thơ văn thường hay xuất hiện từ những cảnh đời và con người khốn khổ mà ra, riêng tôi cũng đồng ý điều nầy, nhưng nó được xếp ở một khía cạnh khác.

 

    Tôi hy vọng ý nghĩ của ông bạn trên, giống như ý nghĩ của tôi. Rằng ta hãy hãnh diện, dân tộc ta, dân tộc Việt nam, hiện là một dân tộc có 90 dân mà 90 triệu dân ấy có tôi và ông là 90 triệu Thi sỹ. Một dân tộc tuyệt vời có một không hai.

 

 

Thủy Điền

 

97- Ga Ông Táo

 

    Ngày ngày, mỗi khi đi học về, trên chuyến xe Lam chiều, thường hay nghe người ta bảo. Bác tài làm ơn cho tôi xuống Ga ông Táo. Nhìn xung quanh thì chẳng thấy có cái Ga nào và ông Táo đâu hết, chỉ có vài bụi tre già nằm cạnh đó. Thế mà người ta vẫn đỗ đúng điểm như người khách yêu cầu.

 

    Hồi những năm học trung học ở tỉnh, lúc ấy cũng mười lăm, mười sáu tuổi, đâu có ít ác gì mà không biết, để rồi cứ thắc mắc về cái chuyện Ga ông Táo, ngần bao năm trời.

 

    Một hôm tức quá, đi tìm hỏi vài người lớn trong làng cho ra lẽ, thì người ta bảo rằng. Chuyện đâu ngày xửa, ngày xưa, ở đây là một khoảng đất trống, rộng chưa có đường lộ xe hơi, chỉ có con đường mòn nho nhỏ, ít người qua lại và vài ba bụi tre già cằn cõi, chiều về như bãi tha ma. Nếu trong làng ai có Cà ràng, ông Táo, Nồi ơ, Thố, Ấm, Chậu. Nói chung dụng cụ nhà bếp làm bằng gốm bị hư, hỏng thì đều phải mang ra những bụi tre nầy, để tập trung lại, rồi đốt nhang cúng vái, như tiễn ông Táo về trời. Vì hồi ấy người ta hay dùng đồ làm bằng đất nung để nấu nướng và chứa đựng nước, tất cả đều bằng gốm sứ. Hơn nữa ai cũng cho những thứ nầy là vật linh thiêng, không được vứt bỏ bừa bãi sẽ mang tội với đất trời. Trong lòng mọi người ai cũng vậy, đều cũng mang một ít tính duy tâm, thành thử tất cả đều tuân thủ ; chấp hành tốt. Và, dần hồi nơi ấy trở thành bến đỗ, rồi từ đó có cái tên khá dân dã và ngộ nghĩnh. Đó là Ga ông Táo. Ga ông Táo nầy tồn tại cũng khá lâu và ăn sâu vào lòng của mọi người dân sống trong khu vực ấy.

  

   Ngày qua ngày, xã hội càng lúc, càng văn minh, tiến bộ. Con người bắt đầu dùng đồ Nhôm, Mũ nhiều hơn và dần dần loại trừ những dụng cụ bằng đồ gốm, nên Ga ông Táo cũng trở nên thưa, vắng khách. Đặc biệt những năm của thế kỷ hai mươi chính phủ cho xây dựng nhiều đường xá, mở rộng hệ thống giao thông, bởi thế Ga ông Táo cũng bị lấn đất- sang bằng- dẫn đến triệt tiêu và chỉ còn lại một cái tên trong ký ức của mọi người, mà không một ai có thể quên được chính là Ga ông Táo. Nghe xong những lời kể, mới hiểu ra rằng, Ga ông Táo có nguồn gốc và xuất xứ từ đó, cũng hay, ở cái làng nhỏ bé nầy cũng có câu chuyện cổ tích rất là  thú vị.

  

   Theo thói quen từ xưa nay, người dân sống lân cận nơi đây, không ai bảo ai, nhưng người ta luôn tạm cho Ga ông Táo là một bến xe, hay bến đỗ. Để mỗi khi đi đâu hay về lại đều dùng nó làm điểm hẹn và những chuyến xe chở khách, chở hàng hóa cũng thế, qua nhiều năm xuôi ngược, mọi người cũng thuộc nằm lòng để đưa những khách, hàng đi và về đến đích.

  

   Rất tiếc, là trong cuộc đời chỉ nghe cái tên, mà chưa một lần nhìn được Ga ông Táo bao giờ.

 

 Thủy Điền

 

96- No

   Trên đường từ Gò công về Mỹ tho, má nó cằn nhằn ; mắng cho nó một trận tơi bời. Hân hôm nay mầy làm nhục tao với cha mầy như vậy, mầy xem có được không Hân ? Nó trả lời.

-          Sao mẹ lại nói thế, con làm nhục cha mẹ điều gì ?

-          Mầy biết mầy năm nay bao nhiêu tuổi chưa Hân ?

 Rồi mạnh ai nấy quay mặt sang chỗ khác, chẳng thèm nói lời nào nữa.

 

   Năm 1981 nó theo gia đình đi vượt biên, rồi định cự tại Úc. Hồi ấy nó mới vừa ba tuổi, vào trường Úc học, lớn lên đi làm nói toàn tiếng Anh, thỉnh thoảng ở nhà cũng nói được chút ít tiếng Việt, nhưng chẳng đọc và viết được tiếng Việt nào.

  

   Năm 2004 vừa tròn hai mươi ba tuổi, cha mẹ nó nghĩ tới việc lập gia đình cho nó, để nó có đôi, có bạn và lo làm với người ta. Vì hiện tại ông bà thấy nó còn quá ham chơi, hơn nữa ông bà không muốn nó lấy vợ Đầm.

  

   Giữa năm 2004 nhân dịp hai ông bà đi dự đám cưới con người bạn, làm quen được một gia đình khác, lời qua, tiếng lại, gia đình nầy giới thiệu cho ông bà một đứa cháu gái ở Gò công.

  

   Sau đám cưới họ gần nhau hơn, hai bên lui tới làm quen, giới thiệu đứa cháu gái qua hình ảnh, cô ta trông đẹp gái, còn đang đi học, nhỏ hơn Hân ba tuổi. Khi tiễn khách ra về, ông bà gọi Hân lại hỏi ý kiến, Hân thấy hình cô ta cũng đẹp, trẻ nên đồng ý.

  

   Chờ đến mùa ấm, tức cuối năm 2004. Hân và cha mẹ về Việt nam, tiến hành coi mắt cô gái trong hình. Hai bên đã hò hẹn thời gian hẳn hoi, qua trung gian người bạn mới bên Úc.

 

   Một ngày giữa tháng 12- 2004, ông bà và Hân đến nhà cô gái tận Gò công. Khi đến chủ nhà chuẩn bị rất cẩn thận như nhà cửa gọn gàng và đãi đùng mọi thứ. Phía bên Hân cũng mang những món quà ngoại, đắc giá đến tặng. Trông rất thân thiện và hài hoà.

  

   Bước đầu chủ nhà đãi đùng nước, bánh khai vị. Cha mẹ Hân ngồi làm khách, còn Hân chấp tay sau lưng đi vòng vòng xem quang cảnh ; làm quen vài người trong gia đình. Đúng một tiếng sau chủ nhà dọn đồ ăn lên mời khách, trông đó có một đĩa gõi gà, một đĩa xào và hai đĩa đồ ăn khác. Trên bàn ăn chỉ có hai vợ chồng chủ nhà, ông bà và Hân. Chủ nhà quí khách, hơn nữa Hân là nhân vật chánh nên bảo « Ăn đi cháu «  cái gì cũng dồn vào cho Hân. Hân ngỡ như bên Úc, dọn lên năm đĩa, ai muốn ăn đĩa nào thì tự chọn lấy, chàng không nghĩ ngồi ăn chung như kiểu Việt nam, nên chàng bê nguyên đĩa Gõi gà và ngồi ăn tỉnh bơ, ăn xong Hân hỏi ? Hân được phép ăn tiếp không. Chủ nhà bảo được cháu cứ ăn thoải mái. Hân định bê tiếp đĩa thứ hai, nhưng bị mẹ gạt tay và trừng hai đôi mắt, nó hoảng hồn dừng lại. Nếu mẹ nó không ngăn cản nó sẽ ngồi ăn tiếp, rất tự nhiên như đang ăn ngoài quán. Phía chủ nhà thấy hơi là lạ, nhưng vẫn giữ thái độ bình thản. Riêng ông bà thì đỏ mặt, muốn sang đập cho thằng con hồ đồ một trận. Sau khi ăn xong, Hân hỏi ? Sao mọi người ăn ít thế. Mẹ nó tức quá, quát cho một trận, mầy ăn uống như vậy ai mà dám ăn nữa. Nó trả lời. Con chỉ ăn phần con thôi, tại mọi người không chịu ăn, chớ đâu phải tại con.

  

   Tàn tiệc, chủ nhà bắt đầu cho cô con gái lên để ông bà và Hân xem mặt. Ông bà nhìn cô gái chịu ngay, vì thấy cô có vẻ hiền hậu và được người. Ông bà bảo, con gái Việt nam như vậy là được rồi, chọn lựa lắm, tìm ở đâu ra. Đến lượt Hân, vừa mới gặp cô ta là chàng phản ứng ngay bằng từ tiếng anh « No « mẹ nó hỏi ? Tại sao « No » Nó bảo.

-          Không đẹp.

-          Con gái người ta như vậy, mầy còn đòi hỏi gì nữa, không hơn mấy con đầu xanh, đầu đỏ của mầy bên Úc sao ?

-          No mod.

-          Thôi tùy mầy, mầy muốn làm gì thì làm, tao chẳng thèm lo cho mầy nữa đâu Hân.

 

    Trên chuyến xe trở về nhà bà nội, hai ông bà ngồi buồn hiu ; thất vọng, vì thằng con đã làm nhục mình trong bữa tiệc và công cốc khi phải bỏ công, bỏ việc từ bên Úc về Việt nam lo vợ cho nó, để cuối cùng đón nhận một chữ « No « .

  

Thủy Điền

 

95- Trả Lại Cái « Quyền «

 

 

Hắn canh vừa ăn buổi cơm chiều xong. Hắn bạo miệng hỏi vợ ?

-          Kỳ ầy đám cưới thằng ba Mẫn, mình cho tôi đi cùng hay tôi đi một mình. Có được không ?

-          Không đi đâu hết, ở nhà lo việc nhà, để tôi đi cho.

-          Một lần thôi mà.

-          Tôi nói không là không, khỏi lòng vòng.

-          Không đi thì thôi, có gì mà cáu lên thế.

 

    Hắn lấy vợ đến nay đã hơn bảy năm, có hai đứa con, một gái và một trai. Từ ngày lấy vợ hắn bị hạn chế quyền lực rất nhiều. Đặc biệt, hắn chưa bao giờ được tham dự một đám đình  nào trong làng, tất cả bao nhiêu chuyện nhỏ, lớn dường như bà vợ giành đại diện hết, hắn chỉ biết đi làm về, ở nhà, vợ bảo sao thì nghe nấy. Hắn nể vợ đến nỗi bạn bè đặt cho cái tên là « Thành rét « Mấy người bạn chạy xe Lam chung ngoài bến với hắn hay nhạo, tụi tao nói với mầy rồi, đàn bà mặt thỏn thỏn, dài dài, má cao, mông nhổng lên trời, dữ lắm Thành ơi, mà mầy cũng không tin, cứ xáp vô, để bây giờ……… ! Thôi đành chịu đi cưng. Thì tao có nói gì đâu, tại tao muốn, thì tao chịu, nhưng được một cái, nó lo cho tao đủ thứ và yêu tao lắm. Nếu được vậy tụi tao chúc mừng mầy.

  

   Mấy hôm ngoài xã phát động phong trào « Kế hoạch hóa gia đình « Trong đó có đề tài hấp dẫn. Đó là : « Giải phẩu của qúy « Vợ hắn sau khi đi họp về, thấy có lý. Nên khuyên chồng mình đi giải phẩu, thì hằng ngày anh ta ra xã hội làm việc, mình ở nhà sẽ yên tâm hơn, chẳng phải lo và nghĩ ngợi gì cả. Qua những lời khuyên và dường như bắt buộc, hồi đầu hắn không chịu, nhưng cuối cùng vì quá nể vợ, nên hắn phải đành đến trạm Y tế, ký giấy và nằm chịu trận cho Bác sĩ vứt đi một phần của quý ấy. Thật tình vì vợ hắn quá ghen nên bắt hắn làm thế, thực chất hắn chưa bao giờ dám ngó đông , ngó tây với một ai, hằng ngày, sáng, hắn chỉ biết ra bến xe chở khách và chiều về, cứ như thế mà hơn cả chục năm nay, hắn chưa có lần tai tiếng, lem nhem với một ai cả. Hơn nữa hắn hiền như cục đất, ai cũng biết, cộng bà vợ như chằn tinh, bố cô nào mà dám xáp vào hắn. Chứ đừng nói đến chuyện yêu đương.

 

    Cách đây một tháng thằng ba Mẫn bạn đồng nghiệp của hắn, có mời hắn dự đám cưới. Mẫn thừa biết chuyện gia đình hắn nên chận trước.

-          Thành nầy, kỳ nầy đám cưới tớ, Thành cố gắng sắp xếp chuyện nhà đến vui với tớ nha Thành, nếu Thành không đến, tớ buồn lắm đấy.

-          Ừ ! Tôi sẽ sắp xếp và đến cùng vui với Mẫn.

-          Chắc nha ?

-          Ừ ! Chắc chớ.

 

    Chỗ bạn bè thân quen, đồng nghiệp và lỡ hứa với Mẫn, nếu ngày cưới không đến thì bạn bè chẳng coi mình ra gì nữa, nên một hôm vừa ăn cơn chiều xong. Hắn đành bạo miệng hỏi vợ ? Rằng kỳ nầy đám cưới ba Mẫn tôi sẽ đi cùng mình hay một mình được không ? Bà vợ la óng óng lên, từ chối và giành đi một mình. Hắn tức mình, muốn cưỡng lại, nhưng không dám và đành chịu thua, ở nhà.

 

    Ngày đám cưới, ba Mẫn đứng chờ hắn, chờ mãi chẳng thấy hắn đâu, một lát sau chỉ thấy một mình bà vợ hắn lon ton tới. Ba Mẫn vui vẻ hỏi ?

-          Anh Thành đâu, không thấy tới vui với hai em hả chị?

-          Xin lỗi anh Mẫn, anh Thành em bị bệnh không đến được, mong anh Mẫn thông cảm.

-          À , tiếc thật, em trông anh Thành từ sáng đến giờ. Anh ấy có bệnh nhiều không ?

-          Dạ, cũng khá nhiều anh.

-          Tội nghiệp quá, khi nào chị về, nhớ cho em gởi lời thăm anh và sau đám cưới em sẽ sang thăm anh ngay.

 

     Sau ngày đám cưới hai thằng gặp nhau ngoài bến xe. Mẫn hỏi ?

-          Anh thành bệnh sao vậy? Nghe chị kể bệnh nhiều lắm hả, bớt chưa.

-          Bệnh hoạn khỉ gì Mẫn, tớ xin lỗi cậu vì tớ thất hứa.

-          Không có gì đâu anh, mà sao chị lại bảo thế.

-          Thì cứ nghe vậy đi.

 

    Nguyên cả ngày chạy xe hắn bị xóc, mặt cứ hầm hầm, bà nầy quá đáng, đã nhịn thua ở nhà, đến đám cưới còn biện trò nói dối với bạn bè, thật không nói nổi. Thường thì khoảng năm, sáu giờ chiều hắn mới về, hôm nay mới hai giờ trưa là hắn nghỉ việc, không thèm chạy xe nữa, nhất định về quát cho con vợ một trận, tới đâu thì tới.

   Vừa bước vào nhà, vợ hắn hỏi ngay?

-          Sao hôm nay anh về sớm thế.

-          Lẽ ra tôi về lúc chín giờ sáng kia, bây giờ là trễ lắm rồi đấy.

-          Tại sao ?

-          Tại mình tất cả, bạn bè sỉ nhục tôi ngoài bến xe kìa, mình ra đó mà nghe. Tôi lâu nay đã chìu chuộng, nhường nhịn mình hết sức rồi, chưa đủ sao ? Thế mà mình còn nói dối với ba Mẫn, rằng tôi bệnh nầy, bệnh nọ không đến dự đám cưới được. Mình biết tôi đã hứa với Mẫn là tôi sẽ đến, nhưng không đến được là tôi cũng khổ tâm lắm rồi. Mẫn là thằng bạn tốt, việc nhà nầy cần Mẫn giúp, có lần nào Mẫn hứa với tôi rồi không đến chưa ? Nhục ơi là nhục. Hắn đứng dậy, mặt gầm gừ, có cái gì gần hắn là hắn đập nát hết, hắn quăng tán loạn xà ngầu, hắn dọa, hắn sẽ đốt nhà cho hã dạ, vợ hắn bỏ chạy sang nhà bên, hắn bảo đi luôn đi, về ló mặt tao chém bay đầu, rồi đi ở tù cũng được. Hắn mắng lên, la hét um xùm. Vợ hắn nấp bên nhà hàng xóm, mặt mày xanh như tàu lá chuối.

 

   Chiều lại, thấy tình hình êm xuôi, vợ hắn quây về, năn nỉ hắn, hắn bảo khỏi cần năn nỉ gì cả, hắn chỉ yêu cầu, cái gì cũng vậy, nên cần làm đúng thì thôi. Kể từ đó mọi đám đình trong làng, dòng tộc vợ hắn đều bảo hắn đi dự và hắn được trả lại cái « Quyền «  làm chồng thật sự sau mười năm chung sống.

 

Thủy Điền

 

94-Mùa Xuân Năm Ấy

 

   Vừa bước vào sân nhà, chưa kịp chào, mẹ tôi ngồi trước hàng ba đang khóc. Cứ ngỡ nghe tôi về sau những năm dài xa cách, mừng quá rồi khóc. Ai ngờ ! Những giọt nước mắt ấy đang lẫn lộn cái nhớ nhung và sự khổ ải chồng chất bao năm.

 

    Những năm hòa bình được lập lại. Đất nước nói chung, sau chiến tranh cũng còn rất nhiều khó khăn và riêng người dân cũng thế. Hai mặt vật chất, tinh thần rất hạn hẹp, thiếu thốn mọi bề. Nhưng mỗi khi Xuân về, Tết đến từng nhà, từng ngõ chưa bao giờ thiếu vắng cây Mai. Nó mạnh mẽ và hiên ngang lắm, luôn luôn đứng vững, không lay chuyển và chẳng bị ảnh hưởng bởi một thế lực nào.

 

    Năm 1991, lần đầu tiên sau mười một năm đi vượt biên, khi nghe tin mẹ tôi bệnh nặng và ngay lúc sắp sửa tết Nguyên đán, nên kết hợp cả hai về quê một chuyến vừa thăm mẹ và tiện ăn tết luôn thể. Thú thật hồi ấy về thì về, nhưng trong lòng cứ mãi lo lo, vừa xuống máy bay, vào Phi trường chỉ cần thấy mấy ông Công an mặc đồ vàng là đã sợ rồi. Mặc dù mình chẳng tội tình gì cả, chỉ tội là bỏ nước đi vượt biên như bao triệu người khác. Những điều nầy Chính phủ người ta cũng châm chế, bỏ qua cả mấy năm nay rồi, nên mới cấp, cho Visa vào Việt nam, thế mà vẫn còn sợ « Vô duyên thật « .

  

   Trên đường về nhà, nhìn hai bên đường, ôi! Xung quanh toàn Mai vàng, Cúc trắng nở thật đẹp, nhà cửa thiên hạ trang điểm, bày biện cho ngày lễ Nguyên đán đầy màu sắc, đình đám hương vị tết cũng loáng thoáng bay xa. Lòng tôi thật rộn ràng, nôn nao chờ mau về đến nhà, để được tận hưởng những phút giây hạnh phúc ấy. Phút vui trong lòng chưa vơi, không ngờ! Khi vừa bước vào đến cửa, là nhìn thấy ngay người mẹ già đang ngồi trước hàng ba, thân gầy gò, ốm yếu đang khóc. Bỏ Vali chạy đến ôm bà, nghẹn ngào, nứt nở.

-Thì con đã về đây, khóc nữa làm gì. Mẹ có nhớ con nhiều không ? Câu hỏi không lựa lời nên bà mắng cho một trận.

-Tao đâu phải Trâu, Chó, Cỏ cây đâu mà không biết nhớ.

-Xin lỗi mẹ, con hỏi không tế nhị, mong mẹ thứ tha.

  

   Chỉ chốc lát, anh em, họ hàng, bạn bè kéo nhau đến đông như Kiến, những câu hỏi cứ tới tấp, tôi chỉ biết ừ ừ, dạ dạ cho qua. Rồi năn nỉ mẹ đừng khóc nữa, mà mẹ vẫn khóc. Cứ ngỡ vì nhớ thương, mừng con ngày trở về, nên mới khóc. Ai ngờ………………. !

  

   Sáng thức dậy nhìn quanh thấy nhà sao vắng vẻ, chẳng có gì gọi là ngày tết, chỉ cạnh hàng rào trước sân có hai cây Mai vàng còi cọc, xấu xí nở loe ngoe vài ba nụ. Định hỏi? Sao không mua Mai, Vạn thọ về trang điểm cho đẹp ba ngày xuân. Nhưng thôi ! Thấy vậy tôi nhờ người đi cùng, xuống chợ mua một ít hoa cho nhà thêm xinh xắn, dự trù mua một trăm Đô la, không dè chỉ mua mới năm chục là đầy hết một xe ba bánh. Trong đó nào Mai, Vạn thọ, Mồng gà, Cúc, Nai , Hưu kiểng. Tất cả mang đem về và trưng bày đầy một sân rộng, đủ sắc màu thật là tuyệt đẹp. Tôi thấy mẹ tôi vui, cười và nói. Nhờ có mầy về xinh xắn được đôi hôm, khi mầy đi rồi cũng vậy thôi con. Tôi nghĩ bà nói thế, là gì hiện tại người ta chỉ nghĩ đến miếng ăn hàng ngày, còn bao nhiêu chuyện khác, chắc chẳng mấy ai để tâm, để ý.

 

    Hai ngày sau, tức hai chín tết có một người đàn bà mà từ lúc còn ở quê nhà, tôi chưa lần biết đến. Người ấy cứ ngồi miết ngay hàng ba nhà tôi, chẳng nói năng gì cả, nhìn tôi chỉ cười cười, mà không chịu về. Hồi đầu tôi nghĩ người láng giềng đến thăm hay đến chơi, nhưng gì ngồi lâu quá, nên tôi đành hỏi cô em ? Ai vậy. Cô em trả lời.

-Bà ta đến đòi tiền mẹ đó, nhưng ngại, không dám nói.

Trời đất ! Bao nhiêu ?

 Sáu trăm ngàn đồng.

Tôi tự hỏi ? Chưa tới ba chục Đô la mà để người ta đến nằm dạ vậy sao. Cô em bảo.

-Mẹ làm gì có sáu trăm ngàn mà trả hả anh ?

-Chết thật ! Nhà tệ đến vậy sao em ?

-Đúng vậy đó anh.

  

   Mẹ tôi nghe xí xô, xí xào trước cửa, bà ngồi phía sau nhà nhìn theo rồi khóc. Và, tôi phải móc tiền ra trả, để người ta còn đi về. Tôi biết rõ nguyên nhân hết, nên chẳng hỏi gì thêm nữa và cho mọi việc đi qua. Chắc vì ngại ngùng, nên kể từ ngày tôi đi cho đến nay, mẹ tôi chưa bao giờ viết một bức thư, xin xỏ điều gì. Có lẽ bà nghĩ, tôi còn phải lo cho gia đình riêng tôi nữa. Và, tôi cũng không ngờ sự nghèo nàn, túng thiếu đã đến với gia đình tôi mau như thế, vì trước mười một năm tôi ra đi, gia đình vẫn còn xung túc lắm.

 

    Những ngày tết và sau những ngày tết, tôi đi quanh làng, thăm người nầy, người nọ. Nhìn thấy, chẳng riêng gia đình mình, mà ai ai cũng đều xuống dốc. Những tiếng thở than, những giọt nước mắt, người nầy nợ người kia mà không trả nổi, phải chi một khối tiền lớn thì không nói, đàng nầy chỉ có năm ba trăm ngàn, một triệu mà đành phải bó tay, chịu trận. Thật thương xót vô cùng.

 

Thủy Điền

  

93-Cá Thòi Lòi Biển

 

   Hò là hò lơ…….Hó là hó lơ

Ai qua đất mũi mà xem

Cà mau cá nướng dậy thèm, hương bay

 

   -Thôi xỉn quá rồi anh sáu, tôi phải bơi về ngủ anh ơi.

   -Mà có bơi về nổi không ? Nếu không tôi kêu mấy nhỏ nó đưa về.

   - Không sao, đây đó một chút là tới ngay.

 

   Hò là hò lơ……..Hó là hó lơ

Thòi lòi chấm nước mấm xoài

Rượu ngà nâng cốc, nhớ hoài ngàn năm.

  

   Thế là còn lại ba anh em mình, nửa bình nầy ta phải cạn, nếu không mấy con Thòi lòi biển  nó trách mình, không làm tròn bổn phận. Đúng không ? Phải rồi Dô….dô nào…..Dô !

  

   Sau những năm hòa bình, những gia đình khó khăn ở Cà mau, người ta mon men dọc theo bờ biển để dựng lên những nhà sàn bằng cây lá rừng để ở và tìm kế mưu sinh. Vô tình người ta phát hiện được loài cá Thòi lòi biển ăn rất ngon và còn bán được cho các nhà hàng Đặc sản để kiếm tiền. Bấy lâu nay ít ai để ý đến nó, mà chỉ tìm, săn bắt những con Cồng, Cua, Nghêu hay Cá biển mà thôi.

  

   Hàng ngày đi làm việc ở các trại cưa cây Mắm về, người ta thường ghé qua các bãi bùn dọc theo bờ biển để bắt những con cá Thòi lòi biển về nướng trui, rồi nhậu. Buổi nhậu nói chung thì cũng chẳng có ai xa lạ, chỉ loanh quanh những bạn hiền sống dọc theo bờ biển. Hồi đầu là một thú vui, nhưng lần lần là một món ăn chính trong gia đình và có khi mang đi bán cho các chủ nhà hàng ngoài tỉnh.

  

   Cá Thòi lòi biển còn được gọi là cá Bóng thùng, có khả năng lặn lâu, phóng như bay trên mặt nước, đặc biệt chỉ sống ở vùng nước lợ, nước mặn, cửa sông và vệ rừng ven biển. Leo trèo rất giỏi, thân dài khoảng 25- 30 cm, có cặp mắt to, lòi ra quan sát được xa mười mét. Cá thòi lòi biển rất mạnh và hung hăn, khi bắt xong có thể giữ trong Hũ, Lu khoảng ba ngày vẫn không chết. Muốn bắt nó người ta có ba cách.

-Lấy lá Dừa nước kết lại thành ống Trúm và tìm đến miệng hang chúng đặt, khoảng một tiếng đồng hồ sau phải đến thăm Trúm, nếu có cá sẽ lấy ra ngay, bằng không cá sẽ bị chết ngộp.

-Với cặp mắt nhà nghề, người ta biết miệng hang nào có cá, sẽ dùng chân đạp kề bên miệng hang cho cá trồi lên và dùng tay bắt chúng.

-Người ta dùng Sàn lon (Giống như cái lồng đựng cá, phần trên cái lồng có một ngăn nhỏ dùng để chứa những con Cồng, Tôm, Tép để nhử mồi) Vì cá Thòi lòi chuyên ăn những loài cá nầy, đánh hơi, sẽ  chui vào Sàn lon và không thể nào ra được. Sau nhiều giờ người ta sẽ thu hoạch từ mười con Cá Thòi lòi trở lên.

  

   Cá Thòi lòi biển ăn rất ngon, thịt thơm, dai hơn Cá Lóc đồng. Khi bắt được chúng, người ta có thể chế biến nhiều món ăn khác nhau như :

-Chiên sả, ớt

-Kho tiêu

-Luộc mẽ

-Nấu canh chua

-Nấu cháo

-Và làm khô

  

   Đặc biệt khi phơi khô xong, thịt y như thịt cá Lóc, người dân Cà mau hay gọi là Khô Trâu xứ biển. Loại khô nầy khi nướng, chiên xong rất thơm, để nguội ăn vẫn không nghe mùi hôi tanh như những cá biển khác.

  

   Nhờ phát hiện được nó mà một số dân nghèo, cũng như một số gia đình những người lính ngày trước khi rã ngũ trở về với hai bàn tay trắng đỡ vất vả. Mỗi ngày khi xách giõ ra bãi bùn mỗi người có thể tìm, săn bắt được từ ba đến bốn ký cá, số lượng nầy vừa ăn, vừa nhậu, vừa bán và cũng vừa trang trải được một phần gia đình.

 

Thủy Điền

  

 

 

92-Nỗi Ám Ảnh

 

     Thường ngày theo thói quen, tôi thường hay dậy sớm vào lúc 6giờ hoặc trễ nhất là 6giờ30 sáng, theo tiếng chuông đồng hồ báo thức. Rồi ngồi uống ly Cà-phê, hút vài điếu thuốc trước khi đến Công sở làm việc. Trong lúc nhả khói, đầu hay suy nghĩ vu vơ câu chuyện nầy, câu chuyện nọ để khi chiều về viết lại thành bài văn, bài thơ cho vui. Có ngày viết xong một đoạn, đọc thấy không hây, rồi xé, bỏ cuộc. Có ngày hứng chí viết tràng giang đại hải. Nói chung thì tôi hay ít bỏ cuộc, một khi nhất định viết câu chuyện, là tôi cố viết đến cùng, khi nào xong thì thôi.

 

   Nhưng hôm nay lại khác, ngày Chúa nhật, dậy trễ một tiếng. Ngồi vừa hít hơi thuốc, vừa uống ngụm Cà-phê, tôi nhìn thấy vợ mình hôm nay lại khác thường. Cô ta nhìn tôi chầm chập như có vẻ giận hờn điều gì mà không tiện nói ra, nên tôi đoán, cô ta chờ tôi uống hết ly Cà-phê, rồi hãy nói sau. Thật đúng như suy nghĩ, vừa uống xong, Cô ta hỏi tôi ngay ?

-          Đêm qua anh làm gì mà lăn lộn, miệng la ó như đang chóng cự với một ai trong rất hãi hùng, dữ tợn. Có phải không ?

-          Nếu em nghe hết chuyện thì còn gì phải hỏi lại.

-          Miệng anh nói toàn là Ma. Đúng không ?

-          Ừ, đêm qua anh nằm mộng thấy Ma.

-          Tại sao ?

-          Vì cách mấy ngày, anh có viết hai bài truyện ngắn : Thôn Ma và Quật Mồ.

-          Em đã nói với anh nhiều lần, viết chuyện gì thì viết, đừng bao giờ viết ba cái chuyện vớ vẩn, vô hình ấy. Anh ừ ừ, rồi cũng viết, kết quả phiền toái cả mình và những người xung quanh.

-          Ừ, đã nói là không viết nữa, nói hoài.

 

    Thật tình thì nhà Văn, nhà Thơ, Ca sỹ, Nhạc sỹ nào cũng thế. Việc làm của họ như là món ăn hàng ngày, lâu lâu họ muốn làm cái gì khác một chút như thay đổi không khí. Sáng tác, ca một thứ như Tình yêu, Xã hội hoài cũng chán. Người ta cũng vậy, chẳng lẽ ngày nào cũng cơm canh chua, cá kho. Thỉnh thoảng thay đổi Mấm kho, thịt Bò xào hoặc lẩu Lương đương nhiên sẽ thấy khoái khẩu hơn. Cá nhân tôi cũng thế, bấy lâu nay thường hay viết văn, làm thơ, tôi thường viết về chuyện Xã hội, tình cảm, thiên nhiên. Nhưng nhận thấy mình cần phải làm cái gì cho mới, lạ hơn để cuộc chơi càng ngày càng mới mẻ và sinh động. Bởi thế tôi mới mang hai câu chuyện ở quê tôi ra làm ví dụ.

-          Câu chuyện thứ nhất là « Thôn Ma « Câu chuyện rất đơn giản, tôi kể về thôn tôi trước ngày giải phóng, giặc giã kéo về, cả thôn phải đi tản cư nơi khác, bỏ lại một thôn vắng lạnh, buồn bã, không người và tôi đặt cho bài văn cái tên là Thôn Ma vậy thôi, ngoài ra thôn tôi chẳng có con Ma nào và cả bài văn cũng chẳng đá động gì đến Ma, Quỷ cả.

-          Câu chuyện thứ hai là « Quật Mồ « Câu chuyện mà tình cờ được người bạn kể lại, nghe thấy lạ lạ nên viết lại thành văn. Nói chung tôi đâu có trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào vụ việc như ông bạn tôi đã từng quật hơn một trăm cái mộ trong vòng một năm.

  

   Qua hai câu chuyện trên về mặt cá nhân tôi thì chẳng có gì, chỉ có tội là suy nghĩ và viết lại mà còn bị ám ảnh đến như thế, huống hồ những người trực tiếp, có lẽ trong giấc ngủ họ khổ hơn tôi gấp trăm, ngàn lần. Và, điều tội nghiệp nhất cho ông bạn tôi, sau cơn ấy, đến giờ ông ta vẫn chưa nguôi.

  

   Cách đây khoảng chục năm, tôi có đọc quyển truyện của một nhà văn bên Mỹ, ông ta viết về những câu chuyện Ma. Những câu chuyện nầy đọc nghe cũng đả tai lắm và ông ta còn nhấn thêm một câu « Đây là câu chuyện Ma có thật « Đọc xong, tuy thích, nhưng tôi phê bình ngay « Ông nhà Văn nầy nói thế nào, làm gì có chuyện Ma thật » Sỡ dĩ tôi bất bình với ông ta là gì từ nhỏ đến giờ, tôi chưa bao giờ tin có con Ma nào thật. Tất cả là sự tưởng tượng quá trớn mà thôi.

  

   Quây lại giấc mộng đêm hôm qua, tôi không biết phải rút lại lời phê bình cách đây mười năm hay vẫn để yên như vậy. Vì đêm chiêm bao hôm qua tôi thấy rõ ràng trên đường về nhà, có ba bốn người đào, nghiên cứu Khảo cổ trước sân nhà tôi, khi đào xong, dọn dẹp sạch sẽ lòi lên những xác chết còn nguyên hình dạng, mặc đồ bỏ áo vào quần chỉnh tề, sình thối, nằm co ro bất động. Nhiều và nhiều xác người như vậy. Vừa nhìn thấy, tôi chạy một mạch vào nhà, mẹ tôi bảo ăn cơm, ăn cơm xong, tôi ói đến tận mật xanh. Tôi hoãng lên, la ó thật to và cũng là lúc vợ tôi đánh thức tôi dậy. Ngồi dậy, tay xoa xoa vầng trán, mồ hôi tuôn chảy, mệt ngất cả người, mặt mày bơ phờ và phải đành thức trọn cả đêm……. !

 

Thủy Điền

 

91-Ngày Xuân Thắp Nén Hương Lòng

 

Giữa tháng hai (Dương lịch ) năm 1967, sáng sớm 7 giờ 30.

 

   Trung úy Toàn Trưởng ban quân lương Tiểu đoàn Biệt động quân cho lính gọi ba tôi lên văn phòng của ông trình diện. Ba tôi ăn mặc chỉnh tề, bước ra khỏi Doanh trại.

-Trình diện Trung úy.

-Mời anh ngồi. Anh Thông nầy, tôi báo cho anh biết đơn vị sắp chuyển đi nơi khác, anh coi giải quyết « Cháu »  thế nào cho nhanh đi, tôi e không kịp đâu đấy.

-Dạ, em hiểu và làm ngay.

-Tốt, thôi anh về tiến hành đi.

-Chào Trung úy.

 

    Ba tôi là một Hạ sĩ quan (Thượng sĩ nhất) thuộc đơn vị Tiểu đoàn Biệt Động Quân. Căn cứ đóng tại Mười tám thôn vườn trầu, huyện Hốc môn, tỉnh Gia định. Ông là một Hạ sĩ quan quân lương Tiểu đoàn, nhiệm vụ chỉ đi phát lương ngoài ra vẫn ở tại Căn cứ, không đi tác chiến ngày nào.

  

   Trong những ngày nghỉ phép, không biết giữa ông và mẹ tôi giận nhau như thế nào. Tôi nghĩ giữa hai người có sự mâu thuẫn khá lớn. Chưa hết ngày nghỉ phép, ba tôi dẫn tôi đi, bỏ lại hai đứa em gái nhỏ ở lại quê nhà với mẹ. Hồi ấy tôi vừa tròn bảy tuổi, chưa biết gì. Trong cơn giận, ba tôi đem tôi về Căn cứ Tiểu đoàn sống cùng ông và những người lính BĐQ . Mẹ tôi cũng giận, muốn mang con đi đâu thì mang, bà cũng chẳng cản ngăn. Thời gian xa cách, tôi biết, chắc chắn mẹ tôi cũng nhớ con nhiều lắm, nhưng gì còn giận, sỹ diện, nên chẳng thèm lên đơn vị đón tôi về.

 

   Thời gian sống tại Căn cứ, cứ mỗi sáng sớm là ba tôi đem tôi ra gởi một nhà dân đối diện Căn cứ, rồi vào làm việc, trưa ba tôi ra đón vào và cho ăn trưa, xong cũng lại mang ra gởi tiếp mãi cho đến chiều, trước khi vào Doanh trại ăn chiều và ngủ, ba tôi cho tôi tắm tại đây. Trong lúc tắm ông thường hay kể cho tôi nghe. Tại mười tám thôn vườn trầu nầy, dường như nhà nào cũng có những cái Giếng rất sâu và trong vắt. Họ dùng để sinh hoạt trong gia đình và tưới trầu vào lúc sáng sớm. Cuộc hành trình mang ra, mang vào như vậy, phải nói ba tôi mất rất nhiều thì giờ, có lúc ông đi phát lương tận xa xôi, thời gian phải mất đôi ngày và tôi phải đành ngủ tạm với người mẹ bất đắc dĩ.

 

   Cứ thế- và cứ thế, dần dần tôi cũng quen đi và không còn nhớ nhà nữa, cuộc sống tạm bợ nơi nầy đã gần một tháng, trong Căn cứ từ ông Tiểu đoàn trưởng, đến ông lính nào tôi cũng đều quen hết, vì chỉ có một mình tôi là chú bé duy nhất chạy lỏng nhỏng, loanh quanh suốt những buổi chiều, ba tôi thì nghĩ có lẽ để tôi ở đây lâu dài hơn. Nhưng một hôm ông Trung úy Toàn gọi ba tôi lên, báo sự việc. Vì nhiệm vụ, buộc ba tôi phải mang tôi về giao trả lại cho mẹ tôi, ngoài ra không còn cách nào khác. Tưởng vắng con xa, bà bớt giận, nguội lạnh, hàn gắn lại những  mâu thuẫn bấy lâu. Ai ngờ ! Ông vừa mang tôi về chừng mười lăm phút. Thì ra, cả tôi và ông bị đắm chìm trong biển lửa. Chưa ăn được bữa cơm chiều ấm cúng, ba tôi lại phải vác Balô đi ngay, vì không chịu nỗi sự giận dỗi lâu dài của người đàn bà cố chấp.

  

   Tôi mới lên bảy tuổi, biết gì, vô tội. Đúng ra tôi phải được an ủi, nâng niu nhiều hơn, nhưng ngược lại bà xem tôi như một người đồng lỏa, thật là quá đáng.

  

   Sau khi trở về đơn vị, thì một tuần sau, tức ngày mồng bảy tết, cả Căn cứ Tiểu đoàn chuyển toàn bộ về Bà Rịa - Vũng Tàu, đêm ấy không may, đơn vị ba tôi bị Địch tấn công, Tiểu đoàn  BĐQ bị thiệt hại nặng nề, một số chết, một số bị thương và một số mất tích. Trong số người mất tích nầy có cả ba tôi. Lẽ ra ngày trao đổi tù binh hay ngày giải phóng ba tôi phải được trả tự do như bao người tù binh khác. Nhưng ngược lại, mãi đến ngày nay chẳng biết tin tức ông đâu, chết hay sống ? Thật bất hạnh vô cùng. Và, kể từ đó mẹ tôi tạm xem ngày mùng bảy tết là ngày ông chết, cứ mỗi hằng năm là đúng ngày mùng sáu là bà làm giỗ cho ông và khi lớn lên, có gia đình, tôi cũng bắt chước làm theo như thế. Có lần tôi hỏi ? Tại sao mẹ lại cúng ngày mùng sáu, bà bảo rằng ngày ấy cha con còn sống. Thế thì tôi mới hiểu ra và suy nghĩ cũng đúng.

 

   Sự việc đã qua, ngồi viết lại câu chuyện nầy, như thắp lên một nén hương lòng dành riêng cho người quá cố.

 

Xuân về, thắp nén hương lòng

Cậm lên ngôi mộ « Trống » không xác người

Thương cha, nước mắt tuôn rơi

Nhớ cha, chẳng biết, giờ, nơi phương nào ?

 

Thủy Điền

 

90-Những Cái Nghề Không Thể Tưởng…. !

 

 

   Ở xã hội nào cũng thế, có rất nhiều ngành nghề, tất cả đều phát sinh từ cuộc sống, thành hình và tồn tại đến ngày nay. Nhưng trong mỗi nghề, có nghề nặng nhọc, có nghề nhẹ nhàng. Nói chung nghề nào cũng cao quý và cũng có mức độ nguy hiểm khác nhau. Đặc biệt sau ngày hòa bình được lập lại, người ta còn phát hiện thêm ra một vài nghề khác mà từ xưa đến nay ít ai nhìn thấy và công nhận như nghề tháo Mìn, Bơm để bán sắt vụn ở Miền trung và nghề quật Mồ ở Miền nam trong thật hãi hùng.

  

   Tháng tư năm 2002, trong một chuyến về thăm quê. Tôi gặp lại một người bạn thuở thời. Anh ta lớn hơn tôi một tuổi, người có vẻ già dặn hơn tôi nhiều lắm, đã làm sui gia hai lần rồi và cũng lên chức ông ngoại, ông nội đầy đủ. Anh mời tôi vào nhà uống trà, tâm sự. Anh hỏi tôi rất nhiều về gia cảnh và đời sống xứ Âu châu? Tôi cũng lịch sự lời qua, tiếng lại cho vui. Khoảng lâu tôi hỏi tiếp ?

-          Thời gian tôi đi ngoại quốc, anh ở quê nhà làm nghề gì? Mà sao thấy khấm khá hơn thiên hạ xung quanh, anh có thể kể cho tôi nghe được không. Anh ta vui vẻ trả lời.

*    Bạn mầy không hỏi, tớ cũng sẽ khai, có gì đâu mà giấu giếm.

-          Vậy anh kể cho tôi nghe đi, chứ trước mắt là tôi phục anh rồi đó, cả thôn mấy trăm nóc gia, chỉ có một mình anh cất được nhà lầu ba tầng, còn bao nhiêu là nhà lá rách nát.

*    May thôi bạn ơi.

-          Anh trúng số độc đắc à ?

*    Đâu có, phải tôi mà trúng số thì tôi đâu có già khú như thế nầy.

-          Nếu trúng số, Anh sửa sắc đẹp sao ?

*    Không ! Tớ sẽ ăn ngon, ngủ ngon, không bị ám ảnh.

-          Anh nói cái gì ám ảnh. Tôi chả hiểu anh nói gì.

*    Từ từ uống trà đi. Tớ sẻ kể cho bạn mình nghe.

-          Kể đi, lòng vòng quá.

 

    Tháng năm, năm 1999 nhà nước ra thông báo, là sẽ sang bằng cái Nghĩa địa lớn ở thôn mình. Mục đích sẽ xây dựng Khu Văn hóa của Huyện. Thông báo nầy có hiệu lực trong vòng một năm. Nghĩa là tháng năm, năm 2000 tất cả thân nhân những ngôi Mộ nầy phải lấy cốt di chuyển đi nơi khác. Sau thời gian đó nhà nước sẽ sang bằng và không ai được quyền khiếu nại. Bạn biết, thời điểm ấy thật là nóng bổng, có người tự quật Mồ lấy, có người chạy đi mướn. Trong mười người, hết chín người chạy đi mướn. Tớ thì ở gần Nghĩa địa, nên họ đến nhờ tớ trước. Hồi đầu tớ sợ, tớ từ chối, nhưng họ cứ năn nỉ và đòi trả một số tiền khá lớn.

-          Bao nhiêu tiền quật một cái Mồ ?

*    Hai triệu rưởi.

-          Một ngày anh quật được mấy cái ?

*    Một hoặc hai là hết ga.

 

    Bạn để tớ kể tiếp, Suy nghĩ thấy số tiền quá lớn, so với công lao động hàng ngày chỉ năm chục ngàn đồng, nên tớ nhận làm. Ngày đầu quật xong cái Mộ, về tớ ăn không được, ngủ cũng chẳng yên, nằm chiêm bao thấy toàn Ma, Quỷ. Vợ tớ bảo, thôi đừng làm nữa, tớ ừ. Vừa định thôi, là có người khác đến nhờ, năn nỉ. Tớ đi quật tiếp. Cứ thế và cứ thế, tớ quật trong năm đó hơn một trăm cái Mộ và kiếm khá nhiều tiền, nên mới có tiền cất ngôi nhà nầy đây, nếu không làm cái nghề quật Mồ thì đến hôm nay tớ cũng vẫn ở cái nhà lá rách nát như bao nhiều khác.

-Trong thôn mình chỉ có một mình anh làm nghề nầy sao ?

-Đúng, chỉ có mình tớ, còn bao nhiêu họ không dám và can đảm để làm cái nghề nầy.

-Vậy một Nghĩa địa to lớn như thế nầy, ai làm nghề như anh ?

-Họ hoàn toàn là những người xa lạ, từ nơi khác đến, tớ cũng không tiện hỏi. Bạn biết, họ đến rất đông, làm việc với tính cách Công ty.

-Chuyên nghiệp vậy sao ?

-Thật đấy.

-Việc quật Mộ có khó khăn không ?

-Khó thì không khó, nhưng khi thâu xác là một vấn đề lớn, có cái còn nguyên vẹn bộ xương, có cái còn phân nửa, có cái bị phân hóa, phải lụm từng đốt xương nhỏ, lớn bỏ vào thau nước rửa sạch rồi gói lại từng phần.

-   Không sát trùng gì hết ?

*  Có người mua Rượu, Alkohl, Nước tẩy. Có người không mua.

-   Khi làm xong về có sợ không ?

*  Như tớ vừa nói với bạn lúc đầu, rằng sợ lắm chứ, sao mà không sợ được, ngày đầu tớ bỏ cơm, bỏ ngủ, đêm nằm toàn thao thức. Ngày thứ hai đói quá, ăn đại vào bụng, cứ trợn trợn muốn cho ra. Ngày thứ ba, thứ tư và những ngày tiếp theo, tớ bớt sợ dần và ăn uống tốt hơn. Thú thật với bạn, mọi chuyện tuy đã qua và trở lại bình thường, nhưng đến giờ nầy tớ vẫn còn bị ám ảnh, bởi những bộ xương còn nguyên vẹn. Tớ luôn tưởng tượng, những bộ xương nầy lúc nào cũng đứng gần bên cạnh tớ, trách móc, hờn dỗi, than phiền một cái gì đó. Ngày nào khi đêm về, tớ thường hay khấn nguyện, đốt gần một bó nhang xin lỗi họ. Vì nghĩ rằng, mình đã vô tình phá tan căn nhà của họ đang ở bấy lâu nay, họ đang lạnh, vất vơ, vất vưởng, không nơi nương tựa.

  

   Nghe ông bạn kể lúc đầu về câu chuyện làm nghề quật Mộ là cũng đủ lạnh da người. Giờ, lại nghe thêm người về báo mộng, tôi càng lạnh thêm và thương hại anh ta rất nhiều. Tất cả cũng gì hoàn cảnh mà nên, chớ thật tình, cũng chẳng ai muốn làm những điều quái vị nầy. Mặc dù, khi làm xong có một khối tiền, nhưng nỗi ám ảnh, cứ đeo đuỗi suốt cả một đời dai dẳng.

 

Thủy Điền

  

89-Khóa Lộn

 

  

   Đây là một câu chuyện có thật và là một câu chuyện vui, kể về một người thầy. Rất tiếc là ông ta đã qua đời cách đây chín năm trong một cơn bệnh nặng.

 

   Trong buổi tiệc cưới con trai trưởng của một cựu Học Viên Nông lâm Súc. Thầy Kỳ uống cũng khá nhiều, vì quá vui, vô tình Thầy kể câu chuyện vui cho mọi người cùng nghe, làm cả cái đám cưới cười bể bụng. Đúng nửa tiếng sau, Thầy cảm thấy mình lỡ lời, mắc cở, nên diện lý do và cáo biệt ra về trước, khi mọi người còn đang vui say.

    

   Thầy Kỳ là một Kỹ sư Mục súc, đồng nghĩa là một Bác sĩ Thú y và từng là Hiệu trưởng một trường Nông Lâm Súc tỉnh. Thầy rất vui tính, khoái nhậu, sống hòa đồng. Nói chung không phải riêng thầy khoái nhậu, mà dường như ông thầy nào dạy Nông Lâm Súc cũng đều khoái cả. Lúc nào dạy thì dạy, lúc nào hướng dẫn học sinh thực hành Nông trại thì các thầy làm việc rất nghiêm khắc. Nhưng sau giờ ấy, thì thầy trò hè nhau vui say tới bến. Trên nguyên tắc là không được phép. Sỡ dĩ xảy ra những điều nầy là gì họ sống chung độn với nhau nhiều năm như anh em một nhà và cộng hoàn cảnh thiên nhiên tạo nên. Họ rất đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau. Khác hẳn với những trường Phổ thông, hay nói cách khác lòng họ luôn có một số vốn Nông dân chân chất nhất định.

  

   Sau ngày giải phóng, nói chung những trường Nông Lâm Súc trên toàn Miền nam đều bị giải thể, bởi tình hình khách quan của đất nước. Trường thầy Kỳ cũng nằm trong số phận ấy. Riêng các thầy khác và các em Học viên phải tự tìm trường khác học, các thầy cũng tìm các trường khác dạy hoặc về nhà cấm câu. Chỉ còn lại một thầy Kỳ may mắn, nhờ có bằng Kỹ sư nên Ty Nông Nghiệp trưng dụng lại và phân về Trường Kỹ thuật Nông nghiệp tỉnh làm Cán bộ Kỹ thuật.

  

   Cơ quan thầy làm việc cách nhà mười bốn cây số, mỗi ngày thầy thường hay dùng chiếc xe đạp để làm phương tiện đi và về.

  

   Một hôm nhà trường tổ chức liên hoan, thầy và một số Cán bộ trường nhậu quắc cần câu. Sau khi tiệc tàn thầy lái chiếc xe đạp về trong khổ ải, nhưng thầy rất cố gắng. Đoạn đường từ Trường Kỹ thuật về đến nhà mười bốn cây số, phải mất một giờ đồng hồ. Hôm ấy, vì quá say và dù cố gắng hết sức , nhưng thầy chỉ chạy được bốn cây số, là thầy hết chạy nổi, đành phải đầu hàng vô điều kiện, không thể chạy thêm một mét nào nữa, chớ đừng nói mười cây số còn lại. Trên đường về, thầy nhìn thấy mờ mờ trước mặt một bụi chuối, thầy xuống xe, ngã cái rầm và nhào đại vào chỗ khuất để ngủ một giấc và định khi tỉnh táo hãy chạy về tiếp. Trong cơn say thầy còn nhớ, trước khi ngủ phải khóa chiếc xe đạp vào cây Trứng cá cạnh bên, nếu có ngủ say thì không bị ai lấy cắp. Nhưng xoay qua, xoay lại thầy quên, rồi khoá nhằm chiếc xe đạp vào chân thầy mà thầy không hề hay biết và cứ nằm ngủ tỉnh queo, không còn biết trời trăng, mây nước gì cả. Cũng may, trọn đêm ấy chẳng ai hay biết thầy và chiếc xe đạp đang nằm nơi bụi chuối rậm nầy.

  

   Sáng sớm, những chiếc xe Lam, những chiếc xe Lôi kéo, xe Hành khách nổ máy, chạy ành ạch trên lộ, tiếng người qua, kẻ lại lao xao. Thầy giật mình, tỉnh giấc và đã hết say. Tự hỏi ? Ủa, sao mình lại nằm ở đây, thầy bật cười và nhanh nhanh chuẩn bị thâu xếp cho gọn gàng rồi vọt lẹ, bằng không thiên hạ lỡ thấy là chết mất. Thầy ngồi dậy tìm xâu chìa khóa, mở ổ khóa ra. Thầy chực nhớ, hôm qua mình khóa chiếc xe đạp vào cây Trứng cá, mà sao bây giờ lại khóa vào chân mình.

  

   Nhìn ngang, nhìn dọc, không thấy ai, thầy leo lên xe đạp và đạp một nước về nhà. Trên đoạn đường về nhà, thầy cố tìm mọi cách nói dối cô, còn không cô cằn nhằn cho một trận và khó sống với bà.

  

   Cô Xuân vợ thầy Kỳ rất thương chồng, lo cho ông từ li, từ tí. Nói chung cái gì cũng được, nhưng đặc biệt khi thấy thầy nhậu là cô nổi máu xung thiên ngay. Mục đích của cô là giữ gìn sức khỏe cho thầy. Ngược lại thầy thì ngày nào cũng xỉn, lắm lúc giữa cô và thầy sanh ra nhiều mâu thuẫn.

  

   Cô Xuân cả đêm trường không ngủ được, đứng thập thò trước cửa, xem thầy có về và gõ cửa nhà không, cô chờ đến bốn giờ sáng, mỏi mòn, mệt lã và vừa thim thíp ngủ. Bỗng nghe tiếng gõ cửa, cô bật dậy, thì ra là thầy đã về. Cô nhăn mày, nhéo mặt định quát cho thầy một trận hã giận. Nhưng thầy cao cơ hơn, khai thật tất cả, cô từ lửa trở thành nước, hai vợ chồng ôm bụng cười cho tới sáng, khiến người láng giềng bên cạnh ngỡ như hai kẻ đang điên, mới sáng sớm mà cười ngây ngất.

  

   Cô vừa rót cho thầy Cà-Phê, vừa cười, vừa nói. May mà anh khóa lộn chân anh vào xe đạp, nếu khóa lộn chân anh vào chân cô nào thì hôm nay cũng khó mà về.

 

Thủy Điền

  

88-Hội Thi Chim Bồ Câu

 

    Bình minh vừa qua một đỗi. Mặt trời hé lên, chỉ mới tám giờ sáng mà cả không gian thành phố Hồ Chí Minh hoàn toàn ấm áp. Tiếng kèn xe, tiếng người xôn xao, tấp nập hướng về quán Cà-Phê « XE « đường Bùi Tư Toàn, quận Bình Thạnh hoặc quán Cà-Phê « Hội Ngộ «  Số 90, liên khu 16-18, quận Bình Tân thành phố Hồ Chí Minh để xem hội thi chim Bồ câu.

 

    Hàng năm không nhất thiết vào ngày tháng nhất định, miễn đủ điều kiện là Hội Bồ câu kiểng Việt Nam, chi nhánh phía Nam, sẽ tổ chức những cuộc thi tranh tài, khoe sắc, có thể một lần hoặc đôi lần. Nhằm mục đích tìm ra những Nghệ nhân khéo tay và những con Bồ câu đẹp, khác lạ, kỳ dị trên thế giới đang hiện hữu tại Việt Nam hay nói cách khác, động viên tinh thần sáng tạo, tìm tòi, sưu tầm của con người, hầu phục vụ cho đời sống được thư giản sau những giây phút làm việc mệt nhọc.

 

    Thường trước khi bước vào hội thi, người ta thường hay đến sớm một ngày. Nào lo trang điểm khu dự thi, lấp ráp chuồng trại dã chiến để các con chim Bồ câu từ nơi khác đến có nơi nghỉ ngơi và biểu diễn. Họ có một tổ chức hẳn hoi gồm sáu mươi thành viên được mang tên : Nhóm Jacobin và trên dưới năm mươi thành viên từ nơi khác đến tham dự hàng năm.

 

    Những con chim Bồ câu đến dự thi, đều là những con Bồ câu xinh đẹp , thiện chiến, trong chúng có vẻ hùng hồn, cao lớn như con Gà trống. Ngoài những đặc thù ấy chúng còn có những cái tên nghe rất oai vệ như.

-          Bồ câu Sư tử trắng

-          Bồ câu Sư tử (Tiger Hoà lan)

-          Bồ câu Sư tử vàng (Ý)

-          Bồ câu khoe dáng

-          Bồ câu dọ Bườm (Mỹ)

-          Bồ câu Kỳ lân

-          Bồ câu cổ Rắn

-          Bồ câu Ức xù

-          Bồ câu Bông cúc

-          Bồ câu Bông gòn

-          Bồ câu cánh Vảy và

-          Bồ câu Ức hình cầu.

 

    Khi những con Bồ câu nầy được trưng bày trong các chuồng lồng theo thứ tự, đủ chủng loại, màu sắc. Ban Giám Khảo chuẩn bị, chờ đúng giờ là bắt đầu tuyên bố khai mạc. Mọi người đến tham dự đều vỗ tay hoan nghênh. Kế đến họ đi một vòng, xem xét từng con, chấm điểm, rồi chọn lựa ra chín con Bồ câu xuất sắc, để xếp chúng vào vòng sơ kết, sau đó bắt đầu bỏ thăm kín chọn tiếp, để loại trừ ra thêm ba con khác và sáu con còn lại sẽ lọt vòng chung kết. Trước khi vào vòng chung kết để chọn ra ba con Nhất, nhì, ba. Ban Giám Khảo nghỉ xả hơi và cho Khán giả tự do đi xem, nhìn ngắm những con còn lại được trưng trong các chuồng lồng một cách thoải mái. Ai muốn chụp hình thì chụp, ai muốn quây phim thì quây và ngược lại những con Bồ câu nầy rất dạn dĩ, hiếu khách khi thấy người đến xem đông đúc, hứng chí, vỡ trò hề, khoe sắc, khoe tài. Khiến Khán giả đi xem thật thích thú và vô cùng ái mộ.

 

   Thời gian tham quan dần dần thấm mệt, mọi người đã chiêm ngưỡng hết những kỳ thú của những con chim Bồ câu, Ban Tổ Chức tuyên bố cho bỏ thăm kín lần chót, để chọn ra ba đại diện cuối cùng. Mỗi con được bầu chọn sẽ được trao tặng Ban khen và Cúp luân lưu, đồng thời cả chín con vào vòng sơ kết lúc đầu được kiềng chân lại bằng một vật kim loại mỏng có đóng số, dành làm dấu hiệu, để năm sau được vào tham dự một cách trực tiếp mà khỏi phải qua phần ứng thi.

 

   Đúng mười bảy giờ chiều cùng ngày, Hội thi chim Bồ câu chính thức được bế mạc. Cả Ban Tổ chức, người dự thi, khán giả ra về đều rất vui sướng và hài lòng với một ngày đầy thỏa thích.

 

 

Năm nào cũng thế

Vợ chồng đèo xế

Xem hội Bồ câu

Trông thật là mê

 

Nghệ nhân quá nghề

Sưu tầm khắp Thế……

Đặc chủng, sắc màu

Cố gắng mang về

 

Tô đẹp xứ, quê

Cho mọi người xem

Con mắt đả thèm

Dòng người thư thả.

 

Thủy Điền

 

 

 

87-Vội Vã

 

  Trên chuyến xe từ Thành phố về quê thăm gia đình hàng năm, Loan chợt nghĩ ra, cuộc đời có nhiều lúc hạnh phúc, rồi cũng có lúc, bất hạnh, cô đơn. Mỗi khi cuộc sống tràn đầy hạnh phúc, dường như chuyến xe đời hay chuyến xe khách lăn bánh thật là nhanh. Còn khi cô đơn nó hình như chậm lại, cứ kéo dài dai dẳng Thời gian, mà con người không cần thiết. Dù biết thế, nhưng nó vẫn bình thãn từ từ tạo thêm một khoảng trống và sự chán chường chưa từng có.

    

      Những lần trước mỗi khi về quê Loan lúc nào cũng bên người chồng yêu quý. Hai đứa ngồi cạnh bên nhau, đùa nhau, kể hết chuyện nầy, chuyện khác. Ôi! Bao ngàn thứ chuyện và cứ trông cho chuyến xe chạy chầm chậm, để được tận hưởng những phút giây hạnh phúc nồng nàn, ấm áp bên chồng. Nhưng mấy chốc là chuyến xe đã về đến bến. Rồi mỗi người lần lượt  chia nhau tay xách, vai mang đùm đề qua mấy ngõ. Bước vào nhà, thì khối người chờ đợi thăm hỏi, mừng rỡ, lu bu, la ba sau những ngày xa vắng, cứ mãi mê, thao thao mà quên mất người chồng yêu quí lúc nào mà không hề hay biết. Mặc dù có muốn hưởng được những giây phút ấy lâu dài, nhưng cả hai phải chờ đợi đến ngày về.

   

     Sỡ dĩ sự thèm khác ấy được bộc lộ, là gì xã hội ngày nay là một xã hội chạy đua, tấp nập. Hằng ngày mỗi sáng thức dậy, vợ lo son phấn ráo riết chạy đến Công sở, chồng cũng thế, công việc vất vả, mệt nhọc từ sáng đến chiều. Khi tan sở, chiều về đến nhà muộng màn, nhanh nhanh ăn cái gì cho qua bữa, tắm rửa, xem tivi, ngã phèo ra ngủ, ngon giấc quên mất cái bóng dáng thân yêu bên cạnh. Và cũng chẳng còn nghị lực, để vui đùa hay kể lể những câu chuyện hàm tiếu trong cuộc sống. Mọi tình cảm, sự âu yếm, cái gọi là hạnh phúc gia đình cũng dường như giới hạn, không trọn nghĩa. Và, nó được trọn nghĩa khi thật sự buông tất cả những vướng bận xã hội bên ngoài để trở về hiện tại tróng không.

   

     Hai năm gần đây Loan đã cảm nhận được điều nầy và chàng cũng thế, tuy biết vậy, nhưng công việc cứ dồn dập, chạy đua, đè nén, rồi tự dưng làm cho người ta quên mất đi mọi chuyện khác, trong đó có chuyện tình cảm gia đình một cách dễ dàng. Những lơ đãng ấy, đã đưa đến những sự mâu thuẫn, hồi đầu phát sinh nhỏ nhoi rồi dần dần lan rộng ra đến đổ vỡ, thật là đáng tiếc và cuối cùng hai người không chịu thức tỉnh, dừng lại, suy nghĩ cặn kẽ, mà ngược lại vội vã quyết định ký đơn ly dị để thỏa mãn cơn giận dỗi. Vợ chồng nào mà không ao ước những giây phút tuyệt vời ấy. Nhưng tiếc thay cũng gì hoàn cảnh đẩy đưa, đưa đẩy để rồi cả hai trở thành hai kẻ cô đơn. Thật là vô cùng hoang uổng.

   

     Trong chuyến về quê kỳ nầy, trong đơn độc, nàng trở về với cuộc sống độc thân, tróng rổng, thoải mái, không vướng bận. Nàng không cần những thứ khác, ngoài việc về thăm gia đình. Nên quyết định không thèm mua những loại vé xe khách bình thường, mà nàng mua vé xe tốc hành. Mục đích muốn chạy thật nhanh và về đến nhà càng sớm, càng tốt, hầu gặp lại cha mẹ, anh em, bè bạn để vui thích, khỏa khuây. Nhưng ngược lại chuyến xe ấy không may cứ trục trặc, hư lên, hỏng xuống dọc đường năm lần, bảy lượt. Ngồi chờ đợi sửa chữa mất cả buổi trời mới xong, nỗi chán chường cứ dâng tràn lên ùng ục, nhưng biết làm thế nào bây giờ, khi cả bao nhiêu người cũng rối trí, bực bội chớ đâu phải riêng ta. Những giây phút chờ đợi ấy, là những giây phút nàng chợt nghĩ ra cái hạnh phúc là cái đến với ta rất ngắn ngủi và ít ỏi, còn sự cô đơn, bất hạnh lúc nào cũng luôn đeo đuổi, dằn vặt kéo dài mà không cách nào tránh khỏi.

 

    Hôm trở lại Thành phố Loan buồn hơn bao giờ hết, nàng nửa định muốn kể cho người thân cận nghe, nửa định thôi, nhưng cuối cùng nàng kể lại tất cả câu chuyện trên đường về quê hôm ấy cho Hằng nghe. Hằng chỉ ngắn gọn, rồi bỏ đi………. như có vẻ trách hờn.

     

    Chuyến xe tốc hành hôm ấy là bằng chứng và kinh nghiệm của sự quyết định vội vã đấy Loan à….. !

 

    Loan ngồi ôm mặt khóc, tất cả đã muộng màn.

 

Thủy Điền

    

 

 

 

86-Tờ Báo Rách

 

   Lắm ngồi trước hành lang nhà, cây chổi tựa vào đùi, tay cầm tờ báo rách, ngồi đọc. Gương mặt hầm hừ, nổi cáu như đang giận dữ. Ngà đi chợ về ngang, đứng lại hỏi ?

-          Nầy cô nàng kia, quét sân sao không lo quét, ngồi đọc báo, bất đồng chuyện gì mà gương mặt đỏ bừng lên thế.

+    Mầy vô đây ! Vô đây ! Tao chỉ cho mầy xem, cái loại đàn ông, dối trá, phản bội           cho mầy coi. Tức muốn trào máu ra.

-    Cái gì ?..... cái gì ?  Mà mới sáng sớm mầy quơ đủa cả nấm vậy Lắm.

+   Tức thật, yêu con người ta, ăn ở với người ta mấy năm trời, rồi bỏ người ta. Sau đó quây trở lại, còn thốt lên «  Tôi xem cô ấy như em, như người bạn tốt « . Mầy thấy khốn nạn chưa Ngà ?

-    Mầy lấy tin tức nầy từ đâu ra vậy ?

+   Tao đang quét sân, thấy ai dụt nửa tờ báo, tao lụm, định đọc chơi, ai dè ! Tao đọc được cái tin trời đánh nầy, bực mình dễ sợ.

-    Chuyện của người ta, mầy bực mình làm gì. Hơn nữa báo mà.

+   Có thật người ta mới viết, mới đăng chớ.

-    Đành rằng là như vậy. Thôi bỏ qua đi, quét tiếp đi cưng. Tao về đây.

+   Con nhỏ nầy, tưởng nói ra nó thông cảm được điều gì, đàng nầy nói chuyện với nó toàn là huề vốn. Hứ… !

 

   Năm học lớp 12 Lắm yêu Ngân, chàng đẹp trai, học giỏi, năng động lại biết ga lăng phụ nữ, nên nhiều cô trong trường cũng thường hay để mắt, dò dèm. Lắm cũng thế, cố quyết làm mọi chuyện để lấy lòng chàng, từ cách ăn mặc, lời nói và hành động và cuối cùng nàng đã chinh phục được chàng. Hết năm lớp 12, hai người đậu Tú tài, rồi cùng đỗ vào Đại học. Ngân học Đại học Văn khoa còn Lắm học Đại học Sư phạm. Trong những năm học Đại học cả hai gắn kết như keo sơn và hứa hẹn khi ra trường là sẽ cưới nhau, tạo thành một gia đình, sống trăm năm hạnh phúc. Lời hứa hẹn ấy là một niềm tin, Lắm luôn ấp ủ trong lòng, nàng cứ mơ mộng rồi tự vẽ ra nhiều kế hoạch trong tương lai như một vầng trăng sáng.

 

   Khi ra trường Lắm được phân về tỉnh nhà dạy học, còn Ngân xin vào được một nhà báo ở Sài gòn, làm việc với vai trò Biên tập viên, cuộc sống đôi bên rất vững chắc, chiều cuối tuần nào Ngân cũng về thăm Lắm đều đặn, thật ấm cúng như một gia đình. Lắm thường hay tâm sự, thôi mình cưới nhau đi anh. Ngân trả lời một cách dịu dàng, tự tin. Chuyện nầy anh định từ lâu, nhưng chờ thời gian ngắn nữa, làm kiếm ít tiền, ta sẽ tổ chức một đám cưới linh đình, nở mặt, nở mày với bà con hai họ, bạn bè. Lắm nghe Ngân phân trần, nàng thật là vui, thôi mình ráng một chút nữa nha anh. Ngân gật đầu, rồi hôn lên trán nàng nhiều lần như cảm ơn sự thông cảm của nàng.

 

   Thời gian- rồi thời gian không biết sự đổi thay lòng người hay gì hoàn cảnh nẩy sinh. Ngân quen một cô bạn đồng nghiệp, qua những lần đi thực tế, rồi bổng chốc hai người yêu nhau. Tình cảm càng ngày càng đậm sâu, những lời hứa thuở ban đầu với Lắm dần dà phai nhạt và mỗi chiều cuối tuần về thăm Lắm cũng lần lượt thưa dần. Nơi quê nhà, sau những giờ đi dạy học, nàng ngóng đợi, chờ đến cuối tuần chàng về, chờ mãi- chờ mãi mà sao không thấy, nỗi buồn cứ càng lúc tràn dâng. Một vài lần, nàng ngỡ, chắc chàng bận đi công tác xa, nên về không được, rồi nàng tự an ủi, thông cảm và chấp nhận.

 

  Gần hai tháng trời nàng mỏi mòn chờ đợi, nhưng chàng vẫn lặng tâm, biệt tích và cũng không thư từ, khiến lòng nàng luôn nôn nao, bồn chồn không biết chàng có chuyện gì không. Nàng gác lại mọi chuyện và quyết định đi Sài gòn một chuyến để xem sao. Đến nơi, thì tá hoả ra, thất vọng. Ngân đã có người yêu khác gần nữa năm nay rồi mà nàng không hề hay biết. Nàng không ngờ ! Chàng đã lừa dối nàng và hẹn lần, hẹn hồi cái đám cưới mà bao năm nàng hằng mong ước. Trong khoảnh khắc nàng như nửa say, nửa tỉnh và còn ác nghiệt hơn khi nghe Ngân nói « Thôi em hãy về đi, chắc có lẽ giữa anh và em chúng ta không duyên nợ « Và anh hứa, anh sẽ xem em như một người em gái và là một người bạn tốt suốt cuộc đời nầy. Nghe xong, nàng ôm mặt khóc, chẳng nói được lời nào, mở cửa, chạy tung ra khỏi nhà, suýt chiếc xe Taxi đi ngang qua hút nàng một cách oan uổng.

 

  Về đến nhà, nàng ngã bệnh và nghỉ dạy gần một tháng dài, nàng dường như tuyệt vọng chẳng còn muốn làm gì nữa cả, chỉ muốn tìm đến cái chết để quên đi sự đời ngang ngửa. Cũng may, bên cạnh nàng hiện tại còn có gia đình, còn có Ngà là nguồn động viên, để nàng thức tỉnh và tiếp tục cuộc sống.

  

  Thời gian qua đi, mọi thứ đã dần như nguội lạnh, bao kỷ niệm cũng từ từ vùi lấp, nàng không muốn nghe những lời hứa ảo huyền, dối trá và nhất là «  Anh xem em như một người em, một người bạn « 

 

  Tưởng rằng tất cả đã yên, không ngờ ! Hôm nay, một tờ báo rách vô tình ngoài ngõ đã bay lạc vào trong căn nhà bất hạnh nầy, khơi lại cái quá khứ, dỉ vãng rùng rợn của một thời hai kẻ yêu nhau.

 

Thủy Điền

 

 

 

 

 

85-Tuyệt Vọng

 

   Từ lộ nhựa liên xã Tân Lý Đông – Phú Mỹ, rẽ trái, rồi đi tiếp theo một đoạn đường được trải bằng nửa đá, nửa đất lõm chõm khoảng ba cây số, qua cây cầu ván, có một con đường nhỏ khác được trải bằng đất đỏ. Con đường nầy dài hơn mười cây số, chiều cao ba mét và chiều ngang một mét. Nó vừa là đường giao thông và là con Đê ngăn phèn giữa cánh đồng Tháp mười thuộc hai Huyện Tân Phước và Châu thành. Qua ba năm xây dựng nó bị sạt lỡ,  teo dần bởi những cơn mưa lớn và bây giờ chỉ còn nửa mét bề ngang. Con đường nầy xe gắn máy hai bánh và xe đạp chỉ chạy được vào mùa khô, còn mùa mưa hoàn toàn là đi bộ.

   

   Cách đây năm năm, vào tháng bảy, nhân dịp các con nghỉ hè. Cả gia đình cùng nhau về Việt Nam thăm quê. Tình cờ có một Nông dân sống cạnh con đường nầy bị hư cái tủ lạnh. Ông gọi điện thoại cho thằng Tý cháu tôi vào sửa, vì nó là thợ sửa tủ lạnh và có tiệm ngoài xã.

Tý thấy tôi về Việt Nam du lịch, ngoài những lúc đi đây, đi đó, số thời gian còn lại chỉ nằm nhà, buồn. Nên rủ tôi đi cùng cho vui. Hồi đầu thấy mưa gió, sình lầy tôi ngại, nên từ chối. Nó cứ kèo nèo, Cậu đi chơi cho vui, hơn nữa Cậu sẽ thấy cánh đồng trồng Khốm trong nầy rất lớn và đẹp vô cùng. Nghe nó quảng cáo cảnh thiên nhiên hữu tình xứ mình quá tuyệt, nên thay đồ đi theo. Bởi trước những năm còn ở quê nhà chỉ nghe thoang thoáng đồng Tháp mười, chớ chẳng biết nó xuất phát từ đâu và nghe đồn đại chỉ có Tràm, Bàng, Le le, Vịt nước, cá Lia thia nhưng chưa bao giờ nghe tiếng Khốm.

   

    Hai Cậu cháu đèo nhau trên chiếc xe Hon-da qua hai ba đoạn đường, cầu ván rồi đến con đường đất đỏ để dẫn đến nhà ông Nông dân cần sửa tủ lạnh. Nhà ông nằm giữa đoạn đường, tính ra từ đầu cầu đến đó khoảng bảy, tám cây số. Thằng Tý lái hay thật, không bị ngã xe, tôi ngồi ôm nó thật chặt và run. Miệng lập bập !

-          Khéo khéo một chút nha Tý, bằng không hay Cậu cháu mình rơi xuống đây là khổ lắm. Nó bảo.

-          Cậu an tâm đi, không có sao đâu, nó nói thêm, ở đây vào mùa nầy nhà nước khuyên đừng đi xe gắn máy vào đây dễ gây nguy hiểm, cháu đi đại, chẳng lẽ từ chợ vào đây mười lăm cây số đi bộ sửa tủ lạnh sao, hơn nữa ông ta là khách quen, lúc trước ông ta mua tủ lạnh của tiệm cháu nên cháu dị bụng và muốn giữ khách hàng.

     Nghe nó nói « Cháu đi đại « Cộng nhìn thấy con đường, trời đang mưa, trơn trợt mà nghe ớn lạnh. Nó còn đùa.

-          Có rơi, chẳng lẽ rơi mình Cậu, còn con được tha sao.

-          Để trấn an, tôi cũng đùa, ngày mai cháu có rủ Cậu đi chắc Cậu phải nói Mợ cháu soạn thêm cho Cậu cái quần phòng hờ thì mới an tâm hơn. Nó hỏi ?

-          Chi vậy? Cậu sợ mưa ướt, rồi thay à, đi một chút lỡ có mưa cháu có sẵn áo mưa đây.

-          Không phải vậy, Cậu sợ té đái đó cháu.

  

    Hai Cậu cháu vừa chạy, vừa run, vừa ôm bụng cười. Nhờ tiếu lâm mấy câu qua lại, Vậy mà hai Cậu cháu mò đến nhà ông khách hàng hồi nào không hay.

   

   Nó thì cậm cụi sửa, tôi uống ly nước và đi vòng quanh khu vườn ngắm nghía, tò mò một chút. Ôi ! Thật tuyệt, cả một vùng trồng toàn là Khốm, vàng có, nửa vàng, nửa xanh, xanh và mới trồng cây con cũng có. Tất cả hiện lên như một tấm thảm xanh, dầy, mướt rượt. Trong lúc chờ đợi, tôi hỏi ?

-Thưa bác, bác là người quê quán ở đây hay từ nơi khác đến lập nghiệp. Ông trả lời,

- Một dãy nhà mấy trăm cái từ đầu cầu ván trở vào đây là những người tứ xứ đến lập nghiệp, trước đây mười năm, vùng nầy chẳng có ngoe nào mà là một khoảnh đất hoang, toàn Năng mọc và nước phèn.

-Các bác tự phát hoang làm nên hay Chính phủ phụ giúp ?

-Tự hết chú ơi, nhà nước chỉ giúp gạo ăn đúng một năm.

-Các bác tài thật, biến đồng hoang trở thành đồng Khốm rợp trời.

-Nghèo quá, phải ráng chớ biết làm sao.

-Bây giờ tất cả thành hình, giờ chỉ còn bán lấy tiền phải không ?

- Bác Nông dân cười cười, coi vậy chớ không phải vậy đâu chú ơi.

-Tại sao ?

-Chú thấy đó, trên đoạn đường chú vào đây, trước nhà nào cũng có một đống Khốm vừa thu hoạch to tát gần ba trăm trái, đang chờ Ghe ngoài chợ Tân Phước vào mua. Nếu Ghe đi từ đầu chợ vào, đoạn nhà phía trên không có Khốm, Ghe sẽ lần tới đây thì chúng tôi bán được. Còn đoạn nhà phía trên có Khốm, Ghe chở đầy, quây ngược trở về chợ, ngày hôm ấy chúng tôi coi như đổ xuống sông, có mang cho, cũng chẳng ai thèm lấy, vì ai đều cũng như mình.

 

    Tôi vừa nghe xong, hơi phân vân, ông Nông dân nầy nói thế nào. Hay là ông ta thấy mình lạ rồi muốn nói sau thì nói.

 

    Đúng gần một tiếng, Thằng Tý sửa xong cái tủ lạnh, khách hàng trả tiền và hai Cậu cháu lên xe đi về. Giữa đường tình cờ  tôi gặp bà Mợ, tôi hỏi ?

-          Sao? Nhà Mợ ở gần đây. Mợ bảo,

-           Mợ ở xã khác, nhưng cũng gần đây. Mợ sang nhà con gái Mợ cách đây hai nhà, hai cháu vào chơi một lát rồi về.

-          Da, chúng cháu vào cùng Mợ.

  

    Trước khi bước vào nhà, tôi cũng thấy nhà con Thủy con Mợ ba cũng có một đống Khốm to lớn. Vào nhà uống nước, tâm sự một lúc, tôi hỏi ?

-Thủy, Khốm trước nhà là Khốm của em bán hay em mua vậy ? Thủy trả lời.

-Khốm của em vừa thu hoạch, đang chờ Ghe trên chợ Tân Phước tới mua, mà chờ từ sáng tới giờ sau chẳng thấy. Bây giờ là mười hai giờ trưa họ không đến, coi như lỗ rồi anh ơi. Anh thấy mấy nhà phía trên còn đống Khốm nào trước cổng không ?

-Anh thấy nhà nào cũng có cả.

-Vậy là họ cùng số phận như em.

-Nếu bán không được em phải làm sao ?

-Thì bưng qua con Đê có con Sông rồi đổ xuống đó.

-Uổng vậy ?

-Biết làm sao bây giờ hỡi anh. Miệng Thủy vừa nói, tay vừa bỏ Khốm vào bao Ny-lon tặng tôi và Tý mười trái.

-Thủy nầy, sao em không tìm cách khác, cứ đổ hoài như vậy rồi vốn đâu trồng nữa ?

-Anh nói đúng, em định hết mùa mưa nầy, em không trồng nữa và sẽ lên Thành phố tìm việc làm, chứ đeo đuổi cái nghề nầy khó sống quá anh ơi.

 

    Trên đoạn đường về nhà, tôi nói với Tý. Nếu sự thật như mọi người đã kể thì thật là đáng tiếc. Tý nói, Họ nói thật đó Cậu hai, con ở đây con biết. Tội nghiệp họ lắm, họ là những người, cực khổ, chịu đựng, chờ đợi- chờ những chiếc Ghe đến mua, chờ hết ngày nầy, sang ngày khác và có người chờ đến tuyệt vọng đấy Cậu.

   

 Thủy Điền

 

 

 84-Những Cơn Gió Chiều

 

Thường thì khi chiều về, những cơn gió từ ngoài đồng xa thổi vào thôn, xuyên qua từng cành cây, kẻ lá, từng nhà, qua từng cánh cửa, đua nhau xào xạt, kẽo kẹt, lúc đóng, lúc mỡ như có ai đang thập thò muốn nhìn vào phía bên trong căn nhà. Hồi còn bé Tâm hay chạy ra, chạy vào xem coi có ai, nhưng rồi cũng chẳng thấy ai cả, toàn là những cơn gió vô tình từ xa thổi đến và kể từ đó Tâm không thèm quan tâm nữa, mặc cho gió ngoài sân tha hồ đong đưa.

 

     Gần một năm nay, hai đứa quen nhau, mỗi lần muốn hò hẹn đều liên lạc qua hệ thống điện thoại. Kiểu nầy vừa nhanh, vừa kín đáo. Nhưng không may, mấy ngày nay điện thoại di động của Lan bị hỏng, nên nàng không thể liên lạc được với Tâm. Cả một tuần dài không gặp nhau, cả hai đều buồn, không an tâm, ai cũng lo ngại cho ai có điều gì.

 

     Một hôm chờ mãi, chẳng thấy chàng đến thăm, nàng sang nhà chàng vừa thăm, vừa nhờ mấy việc. Khi đến cửa nhà trước, sau đều khép cả. Nàng gỏ cửa bao lần mà chẳng thấy ai ra mở, nàng bậm gan thọc tay mỡ cửa sổ, nhưng cũng chẳng thấy ai ra đón chào và đành buồn bã ra về trong tiếc nuối. Trong khi chàng đang ngồi phía sau nhà đang nhăm nhi cùng người bạn bên tách trà mà chẳng thèm ngó ngàng vì đến những cánh cửa quanh nhà.

 

     Hôm sau đến bận chàng, vì lâu quá nhớ nàng nên chàng ghé sang thăm. Chưa đến nhà thì chàng đã gặp nàng dọc đường. Chàng tỏ ra mừng rỡ sau những ngày xa cách, còn nàng lại khác, quây mặt đi nơi khác trong có vẻ giận dỗi lạnh lùng vô cùng. Chàng rất ngạc nhiên sau hôm nay nàng lại có thái độ kỳ hoặc như thế. Cả năm nay mỗi lần gặp nhau dù bất cứ nơi đâu nàng cũng đều tỏ ra thân thiện và vui vẻ cùng chàng.

 

     Sự giận dỗi đã đi qua, nàng kể rõ hết sự việc ngày hôm qua. Chàng mới bật ra tất cả là tại mình. Chàng nhẹ nhàng xin lỗi nàng và thú thật là hôm qua chàng có ở nhà, nhưng vì không quan tâm đến những cánh cửa nên không hề hay biết khi nàng đến thăm và chàng cũng tình thật hết nguyên nhân là tại sao như thế. Nghe qua nàng cười và thông cảm người mình yêu vì vô tình chớ không hề hờ hững.

 

     Sau những ngày ấy, tuy Lan có cái điện thoại mới trong tay. Nhưng chàng vẫn luôn quan tâm đến những cánh cửa nhà mình hơn.

 

Thủy Điền

29-01-2017

 

 

83-Con Chó Và Tiếng Pháo

 

 

    Nó le lưỡi, hã họng, khò khè, đôi mắt đỏ ngầu dường như sắp khóc. Gương mặt trông có vẻ sợ hãi vô cùng. Cứ lui chui tìm chỗ kín và u tối để ẩn nấp.

  

    Mỗi độ còn khoảng nửa ngày nữa là đến giao thừa. Xa xa, gần gần nghe rải rác tiếng lụp bụp là nó xem như mất ăn, mất ngủ. Thậm chí bỏ luôn những cử tiêu tiện hàng ngày thật là khủng khiếp.

  

    Ngày thường thì oai vệ lắm, thấy người đi ngang qua ngõ là hã miệng sủa, thấy bóng người phớt qua đường là nhào tới tấn công, người trong nhà đi đâu về là nhẩy ra mừng, hôn chầm chập, thật dễ thương và đáng mến.

   

    Nhưng mỗi khi Tết đến, nó dường như bất động, mọi thái độ cũng như cử chỉ hằng ngày thay đổi khác hẳn ra. Cứ lui chui chạy trốn, sợ sệt, mất hồn, ai phá rào, leo cổng mặc kệ, bóng dáng kẻ qua, người lại nó chẳng thèm để tâm, để ý. Bởi thế, những tên trộm thường hay lợi dụng những cơ hội nầy mà lẽn vào cắp giặc, hốt sạch mấy ổ trứng gà phía sau nhà mà chẳng ai hề hay biết.

  

    Có những nhà quý phái hay những người thương yêu thú vật, họ xem con Chó lúc nào cũng như là một thành viên trong nhà, nên mỗi khi Tết đến, nghe tiếng pháo, là họ tìm mọi cách để che chở, trấn an cho nó bớt sợ. Còn những gia đình và những người cứ phế mặc xem nó là một con vật bình thường, không để ý đến, thật tội nghiệp vô cùng, bởi khi nghe tiếng nổ, xảy ra chuyện là hoãng hốt, loạn trí chạy tứ tung ra ngoài đường, rồi bổng chốc biến mất dạng luôn. Sáng hôm sau, khi tỉnh giấc người chủ nhà hỏi nó đâu rồi, thì mới hay và chạy tìm kiếm khắp nơi mà chẳng thấy. Mấy đứa trẻ đứng khóc mếu máo như mất đi người thân. Tất cả là tại không để ý, xem thường và không quan tâm đến nó mà thôi.

  

    Trong một năm, ngày đau khổ nhất của đời nó là ngày giao thừa, và những ngày sợ sệt là những ngày trước Tết và sau Tết.

    

    Cuộc đời của con người, người ta chỉ nhận đau khổ một lần hoặc vài lần trong cuộc sống là cũng đủ và thấm thía lắm rồi. Còn nó thì khác, tuổi thọ cao nhất là mười, mười lăm năm. Trong thời gian nầy nó phải nhận bấy nhiêu lần đau khổ như nhau.

    

 

   Thật cũng khó nói. Con người, sống, ai ai cũng mong chờ đến ngày Tết, để vui say, cùng nhau chúc tụng, họp mặt đông đủ, đón xuân hớn hở. Ngược lại riêng nó chỉ biết âm thầm, u buồn, sợ hãi và có khi phải đứng cả tim.

 

Thủy Điền

 

 

 

 

82- Thôn Ma

 

    Sáng sớm, đúng 5 giờ 30. Một quả pháo từ xa bay đến, nổ cái « Ầm «  Giữa nóc căn nhà ba gian của ông Sáu Nguyệt, rung rinh trời đất, vang dậy cả thôn. Sau tiếng nổ ấy, căn nhà chỉ còn lại vài cây cột cháy và cái nền gạch tàu màu đỏ nhiều lỗ thủng. May mà gia đình ông Sáu đã tản cư sang làng khác cách mấy hôm.

  

    Tình hình giữa năm 1974 kéo dài đến tháng tư, năm 1975 nói chung cả nước thật bất ổn, riêng các xã, quận hẻo lánh cũng chẳng thua gì. Mọi sự đi lại dường như thưa dần trước những sự việc có thể xảy ra bất ngờ từng giờ, từng phút.    

   

    Nhà ông Sáu nằm cạnh Trung tâm huấn luyện Điạ phương quân và Nghĩa quân chừng ba trăm mét. Kể từ đầu tháng giêng năm 1975 là nơi hứng chịu nhiều quả pháo nhất trong quận. Đủ các thứ như Cối 60, 61, 82 và 122 li. Những quả pháo nầy mục đích theo hướng vào Trung tâm huấn luyện, Đại đội Pháo binh, và Dinh Quận trưởng, nhưng không biết gì lý do gì cứ rớt loanh quanh trước Trung tâm khoảng vài ba trăm mét. Bởi thế các hộ dân lân cận hoàn toàn lãnh đủ.

  

     Một hôm trời yên, đất lặng, trong thôn chỉ còn vài ba căn nhà bám trụ, trong lúc mọi người có kẻ thức, có người đang say ngủ, còn bao nhiêu thì đùm túm tản cư đi nơi xứ khác lâu rồi. Thường thì những trận pháo hay bắt đầu vào bảy tám giờ chiều. Vì thói quen mọi người cứ nghĩ năm, sáu giờ sáng trời bình minh bắt đầu lố dạng, không khí bình yên được trả lại. Nên kẻ xách giỏ đi mua, người mang hàng ra chợ bán, cảnh sinh hoạt nhộn nhịp bình thường. Nhưng không ngờ ! Quả pháo hôm nay không xuất phát vào bảy giờ chiều để mọi người tránh né, mà nó lại đến một cách bất chợt, bỗng dưng. Không thể trở bàn tay. Một quả pháo vô tình từ xa, vỡ tan giấc ngủ và làm đảo lộn cả một Thị trấn đang tưng bừng náo nhiệt. Quả pháo 122 li do Liên xô chế tạo đã phá banh ngôi nhà ông Sáu, trong phút chốc chỉ còn lại đống tro tàn mà ông Sáu không hề hay biết. Các nhà lân cận cũng thế, tuy không tan nát, nhưng cũng chịu ảnh hưởng hư hại rất lớn. Những cửa sổ lá sách đong đưa, nằm nghiêng ngữa, bật bản lề rơi tung xuống đất. Những cái Lu, cái Hủ, cái Nồi, cái Ơ nứt vỡ ra từng mảnh nhỏ. Và, tệ hại hơn những đứa trẻ, mẹ còn đang mua bán ngoài chợ, ở nhà một mình, chẳng biết gì, cứ chạy tung ra ngõ tìm mẹ, hoảng hốt, khóc mếu máo « Mẹ ơi, mẹ ơi «  Trong thật thê thảm.

 

    Tuy, không có điện thoại, dây thép, Di động tân tiến như ngày nay, nhưng miệng chuyền miệng, ông Sáu đã hay tin ngay sau vài tiếng đồng hồ và trở về căn nhà mà mình đã cách xa nó gần hai tuần nay đi lánh nạn. Đứng trước ngôi nhà, ông chỉ biết ôm đầu khóc ngất. Khóc cho số phận quê hương, khóc thương một đời công cốc. Bao nhiêu của cải, vật chất ông bà đã gầy dựng hơn bốn chục năm qua đã giây phút tan tành theo mây khói.

 

    Cũng may là sáng hôm ấy chỉ duy nhất có một quả mà thôi, chỉ hư hại căn nhà ông Sáu và mấy nhà lân cận. Riêng ông Sáu cùng gia đình được thoát nạn, thật quả là phước đức. Nếu sáng hôm ấy cứ tới tấp hết quả nầy đến quả khác. Có lẽ đàn trẻ nhỏ chạy tung tìm mẹ tan xác hết rồi và cả thôn đã biến thành một bình địa và một đám tang tập thể không hơn, không kém.

 

    Trong tiếng khóc nứt nở, ông Sáu cố gượng người, hai tay xoa xoa, miệng lăm băm « Cám ơn Trời, Phật, cảm ơn những vị Thần linh » Đã cứu sống gia đình chúng con và cả một thôn nghèo. « Cảm ơn Trời, Phật. »

 

     Sau cơn đau, mất mác ấy. Cả thôn lần lượt từ già đến trẻ, thậm chí cả những con vật không còn ai bám trụ nữa. Bởi, một cảnh tượng hãi hùng còn đó, một nỗi ám ảnh bi thương của quả pháo 122 li giáng xuống căn nhà ông Sáu vào một buổi sáng sớm đầu năm.

 

     Ngoài đường cảnh người qua lại vắng vẻ, những ngôi nhà vắng chủ. Tất cả hiện lên như một thôn ma u ám, lạnh lùng.

 

Thủy Điền

Cuối tháng 12, năm 2015.

 

 

 

 

 

81- Chiếc Bóng Bên Cầu

 

      Hoàng đang đợi người yêu nơi cầu tàu, bỗng dưng có hai chàng thanh niên trạc tuổi Hoàng đi ngang qua, hất vào người Hoàng một cái, Hoàng xiểng niểng, té nhào. Hoàng hỏi ? Các anh đi đứng thế nào đấy. Hai thằng quây ngang qua. Ê ! kiếm chuyện hã mậy, rồi đập cho Hoàng một trận, xong nhìn quanh không thấy ai và vọt mất.

        Mai vừa kịp đến, thấy Hoàng gặp nạn, bèn gọi người đến cứu. Chở đến nhà thương Bác sĩ bảo cũng may, bị đánh nhiều chỉ ngất, nhưng không trúng vào chỗ độc. Chàng nằm viện được ba ngày thì Bác sĩ cho về. Mai hỏi Hoàng vì sao ra sự thể ? Hoàng trả lời.

-Chỉ một lời nói thôi, mà Họ đánh anh như thế.

*Mà anh nói cái gì ? Nên họ mới đánh anh.

-Có gì đâu! Họ đụng anh, anh bảo họ đi đứng thế nào, chỉ vậy thôi.

*Vô lý, thật vô lý, nếu như thế em sẽ đến Công an làm cho ra lẽ.

-Thôi đi Mai, xem như mình xui thôi, đừng làm ầm lên không ích lợi gì.

*Anh thì lúc nào cũng xui, cũng xui, thôi tùy anh.

   Trước khi là người yêu của Hoàng, Mai đã yêu Lân, hai người quen nhau và yêu nhau, trong quãng thời gian hai người cùng đi Thanh niên xung phong. Sau ba năm trở về, Mai theo học ngành Sư phạm dạy trẻ, còn Lân thì chẳng có nghề nghiệp gì, cứ lỏng ngỏng rượu chè hết ngày nầy, sang ngày khác. Mai nhiều lần khuyên bảo Lân hãy tìm cái gì đó cho cuộc sống đàng hoàng hơn, nhưng Lân ừ ừ, rồi cứ chứng nào, tật nấy. Mai vô cùng thất vọng. Ngày qua ngày đi dạy học, Mai quen được Hoàng. Vì Hoàng là đại diện của hãng cung cấp đồ nhựa của Thành phố. Hãng nầy nhận đài thọ và bảo trợ cho trường học của Mai, vì là Đại diện nên Hoàng thường hay đến đây để cung cấp những vật dụng mà nhà trường yêu cầu.

    Hai người quen và yêu nhau hơn nửa năm nay, ngày nào khi tan sở chàng hay hẹn nàng đến cầu tàu gần đó, rồi hai đứa cùng đi dạo một vòng. Lân biết Mai yêu người khác lâu lắm rồi, nên không còn đến với chàng nữa. Cơn tức giận bị người yêu phản bội. Chàng cứ để trong lòng và hẹn một ngày trả thù cho thỏa giận. Mặc dầu chàng biết tình yêu của chàng và Mai chẳng còn thắm thiết gì nữa cả.

    Một hôm Lân ngồi quán Cà-phê cùng mấy thằng bạn cũ thời Thanh niên xung phong, chàng kể hết cho mọi người nghe câu chuyện trên. Thế là, có hai thằng bạn thân ra tay nghĩa hiệp. Lân chỉ rõ lịch trình Mai và Hoàng thường hay hò hẹn và ấn định ngày giờ, rồi cho thằng bồ mới của Mai một trận bỏ ghét.

    Sau thời gian Hoàng gặp nạn, Mai mằn mò và nghe những người bạn cũ kể lại rằng Lân đã nhờ người hãm hại Hoàng. Nàng bực tức và nhất định tìm cho được Lân để hỏi rõ chuyện nầy, nhưng chàng biến mất và để lại cho nàng bức thư nội dung: Mai nầy, vì anh quá yêu em, xin em đừng giận và hãy xem đó là kỷ niệm. Có lẽ hai đứa mình không bao giờ quên nhau em nhỉ, ký tên Trần thế Lân.

    Cầm bức thư ra về, nàng bật khóc. Hôm sau đi dạo cùng Hoàng nàng bỗng dưng khóc. Hoàng hỏi ?

-Tại sao?  Hôm nay em lại khóc, anh có làm điều gì em buồn không ?

-Không! Anh chẳng làm gì để em buồn cả và nàng thuật lại hết câu chuyện cho Hoàng nghe.

-Hoàng ngồi trầm ngâm không nói một lời.

-Mai bảo, nói gì đi anh.

-Thế là Lân vẫn còn yêu em nhiều lắm, vô tình anh đã làm tổn thương đến tình yêu hai người. Anh thật sự có lỗi, khi nào gặp lại Lân em cho anh xin lỗi, còn sự việc đã xảy ra, anh không bao giờ buồn giận gì Lân cả.

-Mai nghe xong nàng ôm đầu khóc ngất.

   Trời đã nhá nhem tối, Hoàng bảo Mai, thôi mình về đi em và từ đó nàng chẳng còn nghe tiếng hẹn hò, ngày mai đúng năm giờ anh chờ em nơi Cầu tàu nữa.

 

 

Bến dừng ấy, em mơ…..

Có người tình đưa, đón

Đi dạo quanh một vòng

Rồi tựa bên ghế đá

 

Chờ sương lạnh làn da

Lần về qua xóm nhỏ

Bến dừng ấy, em mơ…..

Giờ, chẳng thấy con đò.

 

Thủy Điền

 

 

 

 

80- Mùa Xuân Hạnh Phúc

 

  Quang vừa bước vào nhà, tay vừa tháo cái túi xách trên vai xuống, mặt mày còn đỏ ké.

Miệng hỏi ?

-          Chào Ba, mẹ. Ba mẹ có khỏe không ?

+    Khỏe, con mới về, đi đường xa chắc mệt nhiều phải không con ?

-     Dạ, cũng mệt vì kẹt xe lâu quá.

+    Ba mẹ cũng đoán thế, vì hôm nay con về trễ hơn một tiếng so với những lần trước. Nhưng không sao, miễn có về sum hợp cùng gia đình là vui lắm rồi.

Quang vừa rửa mặt xong, rồi ngồi bịch trên bộ Salon, ngã lưng lấy lại sức, nhìn xung quanh căn nhà và bảo, nhà mình dường như thấy khác lạ nhiều hã mẹ. Bà Lan vừa ừ, vừa rót nước cho Quang.

      +    Uống nước, rồi nghỉ mệt đi con, mẹ đang dở tay nấu vài món ăn.

-          Dạ, cám ơn mẹ để đó cho con. Quang hỏi?  Ba đâu rồi mẹ, ba con vừa vào trong phòng, thay bộ đồ ra ngay bây giờ. Thực tình thì ông đang bực mình, không muốn tiếp đón một đứa nào nữa cả. Sao lần nầy về thấy Ba không vui vậy mẹ ?

+    Ừ, không có gì đâu con, chắc ba con mệt là vì mấy ngày nay ông lo sửa soạn căn nhà

cho lịch thiệp, ngăn nấp để đón xuân đó mà.

 

    Hơn sáu tháng nay ở nhà, chị Hồng và thằng Trí em út nó, xích mích, giận nhau. Sống chung trong nhà mà chẳng ai thèm nói với ai một lời. Hai đứa như mặt trời, mặt trăng vì chuyện thằng Trí vừa có con bồ Tây, nên chị Hồng nó không hài lòng. Ba nó thấy sự việc vô lý, chẳng có gì phải giận nhau cả, nên nhiều lần giải thích, khuyên bảo, hàn gắn lại với nhau, mà hai đứa vẫn không nghe lời. Thành thử ba nó buồn và nói, ngày Tết đến nơi, gia đình như thế nầy thà đừng ăn Tết, đón xuân hay hơn.

  

    Hỏi ra, tại sao chị Hồng nó không hài lòng về việc ấy, chị Hồng nó bảo, tại thằng Trí nó có bồ lâu rồi mà không nói với chị nó một lời. Còn ngược lại thì thằng Trí luôn giấu giếm vì biết chị Hồng nó khó tính, hễ có người lạ xuất hiện trong căn nhà là hơi khó chịu. Bởi thế, thằng Trí nó biết trước nên để im luôn, khi nào ai biết thì biết, còn không thì thôi. Thời gian rồi thời gian, cái gì mà giấu mãi được, nên chị nó giận cho đến bây giờ. Riêng ba mẹ, thì Trí  có kể sơ sơ. Khi kể ra ông bà đồng ý và còn ủng hộ, nhưng không dám kể lại cho Hồng nghe. Chỉ bao nhiêu đó mà hai đứa giận nhau hơn sáu tháng nay, vả lại còn kéo thêm cả ba nó vào cuộc nữa. Mẹ nó thì vô tư và cho rằng tất cả đều lớn, trưởng thành, phải biết xử sự với nhau, bà không quan tâm.

 

    Ngồi vừa uống nước, vừa trầm ngâm và hỏi ? Giờ ba mẹ tính chuyện nầy thế nào. Mẹ nó bảo, Tết nầy mạnh ai nấy tìm chỗ riêng cho mình thế là xong. Riêng ba nó chẳng nói một lời, sự gận dỗi Hồng và Trí lại văng miểng sang Quang. Mẹ nó hỏi ? Còn Quang có cách nào hòa giải được không.

 

    Thưa ba mẹ, con bó tay. Thú thật, con về đây là để sum hợp gia đình. Ai ngờ ! Xẩy ra chuyện nầy chắc có lẽ con phải quây về nhà trước Tết. Chuyện nầy ba mẹ có giận con, con đành chấp nhận bất hiếu. Bởi, con không còn cách nào lựa chọn.

   

     Hồng vừa đi chợ mua thêm mấy món hàng lặt vặt cho ngày Tết còn thiếu về. Thấy Quang vừa về, nhẩy vào mừng, như không có chuyện gì xảy ra cách sáu tháng nay. Quang ừ ừ không chút gì vui vẻ như xưa và nói, sáng sớm ngày mai em sẽ về và không ăn Tết ở đây. Hồng hỏi tại sao? Quang bảo hết vui rồi chị ạ. Hồng biết được chuyện gì vừa xảy ra nên bỏ vào phòng một nước và đóng cửa lại.

   

     Tiếng xe hơi ngừng trước cổng, Trí vừa đi làm về, thấy Quang. Kìa anh Quang, hai anh em mừng, ôm nhau chầm chập. Trí hỏi ? Kỳ nầy anh về chơi có lâu không. Quang đáp không. Chỉ một ngày thôi, mai anh về lại nhà rồi em. Trí vô tình, sao không ở đây ăn Tết lâu được à. Ăn cái gì mà ăn, ngon lành gì mà ăn.

-          Sao anh nói gì lạ thế, anh Quang ?

  • Trí nầy, em và chị Hồng muốn kéo dài tình trạng nầy đến bao lâu nữa Trí, em và chị Hồng không thấy ba, mẹ mình đang mệt mỏi, chính em và chị Hồng cũng đang mệt mỏi và anh đang mệt mỏi khi vừa đặt chân về đến nhà. Một khi tất cả đều mệt mỏi, thử hỏi có làm hàng trăm món ăn ngon, vật lạ thì cũng trở thành vô nghĩa và ngày xuân ,ngày Tết làm sao vui được chứ. Phải không Trí ?

-          Trí buông Quang ra và khóc, em xin lỗi anh. Anh Quang !

  • Và, rồi Quang cũng bật khóc.

 

    Hồng ngồi trong phòng nghe hai anh em khóc, chịu không nổi, chạy ra cũng khóc, ba anh em ôm nhau, xin lỗi nhau và hứa sẽ không còn giận dỗi nữa.

 

    Ba mẹ nó vui vẻ bước đến, vò đầu từng đứa, gương mặt ông hiện lên trong sáng như vừa đón nhận được cái gì quí giá đến với mình. Bà Lan nói, ông vừa nhận được cái Hạnh phúc to lớn đấy ông à.

  

    Căn nhà tuy đã được sắm sửa đầy đủ, ba anh em vẫn kéo nhau ra xe và đi mua tiếp như ngày nào, nhưng chẳng biết mua thứ gì.

 

    Ông bà đóng cửa lại, kệ chúng nó. Thế là tôi yên tâm lắm rồi đấy bà. Tôi hy vọng chúng nó sẽ mãi mãi …………………............................................................................................. !

 

Thủy Điền

 

  

79- Chợ Cầu Kè

 

 

     Mỗi ngày, bắt đầu khoảng ba giờ sáng là họp chợ. Đông đúc người qua, kẻ lại. Tiếng kèn xe lẫn tiếng người lao xao, vang dậy dưới ánh đèn.

     Chợ Cầu kè là một cái chợ nhỏ, dã chiến, nằm trên một đoạn đường được trải đá ong đỏ. Bề ngang khoảng hai mét rưởi, đủ lọt cho một chiếc xe hơi chạy một chiều và vài ba chiếc Hon-da qua lại. Con đường nầy liên kết giữa hai xã Tân Hiệp – Thân Cửu Nghĩa thuộc quận Bến Tranh, tỉnh Định Tường cũ. Nay là thị trấn Tân Hiệp – xã Thân Cửu Nghĩa thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền giang. Trước ngày giải phóng nơi đây rất vắng vẻ và buồn thảm, lác đác xa xa dăm căn nhà lá, lụp xụp, mấy cây rơm, đôi ba ngôi Mộ cổ, còn lại bao nhiêu là ruộng, vườn, cây trái xanh um. Chiều xuống, sụp tối từ mười tám giờ trở đi dường như chẳng ai dám qua lại con đường nầy. Có lẽ, vì chiến tranh hay cái gì ghê sợ lắm.

     Sau Hòa bình được một năm, người ta bắt đầu tiến lần ra mặt lộ chính tìm chỗ ở, càng lúc, càng đông, nên mọi sự đi lại nhiều hơn và dần dần không ai còn sợ sệt nữa. Mặc dầu, sự sinh hoạt hàng ngày có vẻ sôi động, nhưng tất cả vì còn nghèo quá, kinh tế địa phương chỉ võn vẹn vài quán Rượu trắng và vài quán Cà-Phê che mái ven đường. Ngoài ra những thứ khác đều là vật trao đổi. Người có Rau đổi Gạo, kẻ có Bí đổi Khoai, lắm lúc cũng được ít tiền mặt nho nhỏ, nhờ những người từ xa đến. Chỉ vậy thôi, mà ngày nào họ cũng cầu kè từ ba giờ sáng, đến mười hai giờ trưa thì hết sạch và lằn nhằn kéo dài cho đến năm 1986.

     Kể từ năm 1986 trở đi, nhà nước nới rộng tự do kinh doanh, mọi hàng hóa được thông thương. Chợ chồm hổm Cầu kè cũng được mở rộng thêm với những hàng hóa tương đối phong phú. Nhưng họ không tụ thành cái chợ hẳn hoi và cứ để theo vệ đường trước nhà mà bán. Và người mua cũng thế, họ quen thuộc tất cả, những thứ gì, bán ở đâu. Họ cần và đến đó mua là có ngay. Tài thật, con đường chợ dài không tới một cây số, hễ muốn mua thứ gì cũng đều có. Nếu không có tại chỗ, họ hẹn vài tiếng đồng hồ sau là có người mang đến nhà ngay. Bên cạnh những cửa hàng ấy, bây giờ cũng mọc lên rất nhiều quán Nhậu, Phở, Hủ tiếu, tiệm May, Hớt tóc v.v, nhưng chưa có Nhà hàng và quán Bar hay Karaoke vui vẻ. Hồi ấy không biết nhà nước họ cố tình buông thỏng cho dân thoải mái làm ăn hay quản lý thuế má còn lỏng lẻo, nên có người nhờ cơ hội nầy mà làm giàu một cách mau lẹ.

     Năm 1995 nhà nước có nhiều chuyển hướng mới, đất nước dần dần đi vào trật tự. Mọi sự buôn bán đều phải qua Ban Quản Lý chợ kiểm soát. Bởi thế, họ cho xây một cái chợ cách đó năm cây số thật lớn. Ý họ là muốn tập trung lại một chỗ và không còn cho bán lẻ tẻ theo vệ đường nữa. Lý do :  Bảo đảm an toàn giao thông.

     Khi xây cái chợ xong, nhà nước phân từng lô và mỗi lô phải đóng mười triệu đồng tiền mướn chỗ, thời gian là năm năm, ngoài ra mỗi chỗ bán còn phải đóng thêm tiền chỗ hàng tháng khác nữa. Và chợ nầy được ưu tiên cho những người từng bán ở chợ Cầu kè trước đó, khi nào còn chỗ trống, mới dành riêng cho người từ nơi khác đến kinh doanh. Mới nghe qua ưu tiên nầy, ưu tiên nọ, cũng mát lỗ tai, nhưng trong số người mua gánh, bán bưng trước đây làm gì có mười triệu mà mướn chỗ ngoài chợ. Trong số ấy chỉ có khoảng mười, mười lăm người thực hiện được. Chờ lâu quá Ban Quản Lý phải cho người nơi khác đến đầu tư. Và, số người không tiền hay không đủ tiền phải đành thất nghiệp hoặc tìm cách bán chui trước nhà như cũ để sống.

     Chợ Cầu kè từng nhộn nhịp vào mỗi buổi sáng, nay bỗng dưng lạnh tanh và chỉ còn trơ lại mấy hàng Cà-Phê, Hủ tiếu vắng khách.

     Ngoài kia, cách năm cây số đang ùng ùng người đến, như mở hội. Ai đứng bên ngoài cũng đều vọng tiếng khen, làng ta bây giờ đã có chợ, chẳng thua kém nơi nào cả. Muốn mua thứ gì ra đây là có ngay, khỏi phải tốn một hào tiền xe đi tỉnh mua về.

     Cơn vui chưa tàn, nỗi mừng chưa vơi. Tiền mướn chỗ năm năm mới « Mười triệu đồng » đã đến. Mọi người ai cũng điểm lại sau năm năm hoạt động đều toàn lỗ vốn. Lý do tiền chỗ quá cao, nên mọi người làm đơn xin trả chỗ lại cho Ban Quản Lý và kể từ sau hợp đồng mới, cái chợ to lớn đông người, giờ biến thành vắng vẻ, chỉ còn lại lác đác một vài sạp vãi cầm cự và cuối cùng cũng rút lui có trật tự, song song Ban Quản Lý cũng dẹp tiệm luôn.

     Khi chợ lớn không còn hoạt động nữa, hai bên lề chợ cầu kè ngày xưa bắt đầu lúng phúng trở lại, không ai bảo ai, mà nó như Định luật tự nhiên. Hết sống thì chết, hết chết thì sống cứ xoay tròn như quả đất.

     Thời gian hoạt động trở lại cho đến hôm nay, chợ Cầu kè đèn dầu loe loét ngày nào, bây giờ mọc lên  những nhà tường cao, nóc ngói. Hàng hóa đỗ xô từ mọi nơi về tràn đầy, người qua, kẻ lại dập dìu ăn nên, làm ra, đèn đường thắp sáng. Nhà hàng, quán Bar, Karaoke, Mỹ nhân thân mỏng, chân dài cái gì cũng có.. .………tất cả.

    Song song sự phát triển ấy, chợ Cầu kè lại còn nổi bật thêm hai mặt khác nữa. Đó là hàng trắng và giang hồ. Hai mặt nầy đã vô tình làm cho biết bao người hiền từ ngày xưa trở thành những móng vuốt của xã hội.

     Thật đáng buồn…..đáng buồn…..trong khi đất nước đang tiến xa về phía trước và đang cùng nhau xây dựng một Việt nam văn minh - tiến bộ.

 

 

Cầu kè quả Bí, quả Dưa

Trao qua, đổi lại sớm, trưa bên đường

Cầu kè ngày ấy thân thương

Tình làng, nghĩa xóm tựa nương nhau cùng

Ngày nay xe ngựa, ì đùng

Nhà cao, cửa rộng tưng bừng phố đông

Cái tình, cái nghĩa bội vong

Nhạt dần theo những thác dòng bon chen.

 

Thủy Điền

 

 

 

 

 

78- Cây Mai Vắng Chủ

 

  Năm nào cũng thế, cứ độ chừng hăm bốn, hăm lăm tháng chạp âm lịch là vợ chồng thằng Bốn về bứng cây Mai, để về trang điểm trong căn nhà vào những ngày Tết đến. Riêng năm nay chẳng thấy hai đứa nó về, bà Tư ngồi buồn, nhìn ra cổng. Sao lạ lùng vậy cà ?

   Kể từ khi con gái bà lập Gia đình với thằng Bốn, năm nào bà cũng trồng thêm một cây Mai riêng cho vợ chồng nó, trình tự như thế năm năm liên tiếp. Hễ hai vợ chồng nó bứng cây nầy, là bà trồng cây khác thế ngay và vừa đúng năm năm sau là cây Mai cao lớn, ra hoa đủ chưng diện trong căn nhà nhỏ vào những ngày lễ trọng đại. Bà chăm sóc nó rất cẩn thận và xem nó như là một vật quí giá. Mặc dù, hàng năm con bà có thể mua ở chợ bán hoa Tết chừng vài trăm ngàn hay mắc hơn một chút là có ngay.

    Cứ khoảng còn năm ngày nữa là Tết Nguyên đán, thì hai vợ chồng thằng Bốn lon ton về, vừa thăm mẹ già, vừa mang cái Xẻng ra sau vườn bứng cây Mai mang về trong niềm vui phấn khởi, sung sướng. Và, xem nó như phúc lộc đầu năm, bà Tư cũng thế, mỗi khi cho con, giúp được con cái gì, bà mừng vô hạn.

    Nhưng, gần một năm nay, bà nghe loáng thoáng hai vợ chồng nó lục đục về tình cảm, cảnh nhà không vui, bà rất buồn, nhưng không tiện hỏi. Bà nghĩ dần dần rồi cũng sẽ qua, chuyện vợ chồng cơm không lành, canh không ngọt là chuyện bình thường. Nhưng đáng buồn hơn, là mọi chuyện không như bà nghĩ. Chúng nó vừa chia tay và đang chờ ngày ra Tòa ly dị. Hiện tại con gái bà đã dọn nhà đi nơi khác ở gần cả tháng nay rồi. Căn nhà chỉ còn lại võn vẹn có mình thằng Bốn và hai đứa con nhỏ.

     Cảnh nhà thằng Bốn bây giờ vắng lặng, thiếu bóng đàn bà, bề bộn. Bởi thế, những ngày Tết, giỗ, đám đình lớn nhỏ trong thôn hay họ hàng, dòng tộc đối với Bốn bây giờ không còn ý nghĩa, hứng thú như xưa nữa. Tất cả đã nhạt nhòa. Chàng luôn ẩn mình, trầm lặng và ít giao tiếp bên ngoài.

     Tuy biết hoàn cảnh Bốn như thế, nhưng bà Tư vẫn luôn nuôi hy vọng, rằng thằng Bốn sẽ về mang cây Mai đi. Rồi bà cứ chờ, chờ đợi mãi, mà chẳng thấy bóng dáng thằng Bốn đâu.

      Tết Nguyên đán năm nay bà bứng cây Mai của bà vào chưng và bà  bùi ngùi đặt tên cho cây Mai của thằng Bốn là Cây Mai vắng chủ.

 

Xuân nầy thằng Bốn đâu rồi ?

Con Lê cũng thế, mẹ ngồi trông bây

Sao không về bứng cây Mai ?

Cho nhà thêm thắm, cho ngày thêm xinh.

 

Thủy Điền

 

 

 

77- Phải Dè……

 

     Lan ngồi kề bên chiếc xe bán nước đá đậu, trước cổng Khám Chí Hòa. Nàng vừa đọc sách, vừa cầm cây que râu quơ quơ mấy con Ruồi đang thèm ngọt. Mắt nhìn vào quyển sách, miệng cứ thì thầm “ Phải dè “…. hồi đó lấy đại Sơn cho rồi, rồi dẫn anh ta về quê, xin ba mẹ cho vài công đất, hai đứa cất cái chồi, trồng Bí, trồng Rau để sống. Có phải sướng hơn khi phải ngồi trước cổng Khám Chí Hòa nhìn toàn những cảnh đời tội lỗi. Ngày ấy sao quá ngu si, khờ dại. Cứ chọn lựa, phân vân, giàu- nghèo, xấu- đẹp, danh vọng. Để bây giờ ra nông nỗi.

    Năm học lớp 11 Trường trung học Nông Lâm súc Định tường, tình cờ Lan quen Sơn qua một người bạn cùng lớp. Sơn cũng học Nông Lâm Súc, nhưng thuộc Trường khác. Hai người làm quen, rồi yêu nhau. Sự qua lại giữa hai gia đình, Lan yêu Sơn vì chàng đẹp trai, nhưng ngặt nỗi hơi nghèo, không cung ứng, cũng như giải quyết những yêu cầu mà nàng cần đến và ngược lại. Mọi suy nghĩ bồng bột bước đầu của người con gái mới lớn, vừa mới biết yêu bỗng tan vỡ và cuộc tình ấy đã chấm dứt sau những tháng dài bên nhau.

    Sơn quá rõ vì sau nàng đã nói lời chia tay và không đến với mình nữa. Chàng chấp nhận và không hờn trách, chỉ nuối tiếc mà thôi. Lan cũng thế, dù cuộc chia tay không mấy gì suông sẻ, nhưng nàng đã quyết và tìm cho mình một hướng đi mới. Hy vọng tương lai sẽ sáng sủa hơn, hầu thỏa được ước mơ của thời con gái.

    Sau ngày giải phóng, trường Nông Lâm súc giải thể, Lan trở về quê được ít tháng, rồi thi vào trung trung học Sư phạm Tiền giang. Đậu, và học tại đó ba năm. Khi ra trường được phân công về xã Quơn Long thuộc huyện Chợ gạo làm cô giáo cấp 1. Ở đây, nàng nghĩ sẽ là cơ hội để nàng tìm được một mái ấm và tương lai mới. Ai ngờ ! Trường có bảy lớp học, từ Hiệu trưởng, Nhân viên, Thầy cô giáo. Tất cả đều là phụ nữ cả. Thời ấy các thanh niên trạc tuổi Lan, nếu lý lịch xấu thì họ phải đi Thanh niên xung phong, còn ngược lại lý lịch tốt thì phải lên đường thi hành Nghĩa vụ quân sự. Bởi thế, cả làng đều vắng bóng những chàng trai. Ngày mới về nhận công tác, nàng vô cùng thất vọng, nhưng không thể nào làm khác hơn được. Vì một khi đã nhận giấy quyết định của Ty Giáo dục Tỉnh là phải dạy nơi mình nhận Nhiệm sở tối thiểu là ba năm. Sau đó muốn xin đi đâu thì xin hoặc là xin nghỉ việc luôn. Lan thì muốn đi dạy, nên phải đành chấp nhận Quơn Long là điểm dừng chân. Nàng dạy được hai năm và chờ thêm một năm nữa, nàng sẽ làm đơn xin về trường Huyện hoặc gần nhà, hy vọng nơi ấy sẽ khá hơn nhiều, còn Quơn Long là một xã nhỏ xa xôi, đèo heo, hút gió. Bỗng “ Đùng “ một cái. Anh trai nàng làm việc ở Sài gòn về ăn giỗ, có dẫn một ông bạn thân theo cùng. Trong buổi tiệc vui, uống dăm ba ly, lời qua, tiếng lại. Ông bạn nhã ý thích Lan? Nên quây sang hỏi? Nhân. Tớ thích em gái cậu đó Nhân. Cô ta có chồng chưa? Nếu chưa, gã cho tớ đi, tớ đang tìm vợ đấy. Chỉ lời nói vui vẻ qua loa, thế mà Lan đồng ý ngay, chẳng cần suy nghĩ, do dự. Anh chàng lớn hơn Lan mười tuổi, cả nhà nói không xứng đôi, vừa lứa. Nàng bảo, từng tuổi hai lăm, hai sáu nầy có người dạm hỏi, thì ưng khuất cho rồi, chờ đến bao giờ, còn hơn ở Quơn Long chẳng có ngoe nào. Chần chừ- chần chừ để nơi mơi ế, chẳng lẽ đi làm vợ bé người ta sao. Cả nhà nghe nàng nói có lý, nên cũng ưng theo.

    Khi hai bên đã là kẻ vợ, người chồng. Nàng làm đơn gởi đến trường và xin nghỉ dạy. Và, kể từ đó, nàng theo chồng về Sài gòn sinh sống, gia đình chàng tương đối khá giả, cưới được vợ trẻ, hai năm đầu chàng rất chìu chuộng, cuộc sống vô cùng hạnh phúc, nàng sinh cho chàng được hai cậu con trai kế nhau rất là khá khỉnh, ngoài ra nàng khỏi phải đi làm chi hết, chỉ ở nhà lo cho các con, còn chuyện ngoài xã hội riêng một mình chàng lo tất. Mỗi lần về quê thăm nhà hay đám đình, nàng khoe đủ thứ, cả nhà ai cũng nói. “Con nhỏ Lan nầy thật là có phước vô cùng”  Có chồng già, ông ấy rất cưng. Bước sang năm thứ ba công việc làm ăn càng ngày càng suy thoái, xã hội càng ngày càng siết chặt, bất ổn, thua lỗ trăm bề. Chàng buồn, túng quẩn và sanh ra rượu chè bê tha, đi sớm, về tối, nợ nần chồng chất, chuyện nhà phế mặc, bất cần, chẳng thèm ngó trước, nhìn sau. Cuối cùng mẹ con nàng phải lâm vào cảnh bần hàn, cơ cực và nghiệt ngã hơn, chàng bắt đầu ngã bệnh và từ đó không còn làm được việc gì cả, chỉ biết rượu và mắng nhiếc vợ con một cách vô lý.

    Trong cơn hoạn nạn, một mình chạy đôn, chạy đáo lo bảy, lo ba. Nàng phải trở về quê vay mượn một ít tiền và xin được một chỗ bán nước đá đậu trước khám Chí hòa để nuôi chồng và hai con thơ.

    Nhìn cảnh nhà bần bạc, nhìn xã hội ngày nào cũng có những chiếc xe thùng của Công an chở những người tội phạm ra vào, nhìn những người thăm nuôi uống ly nước đá đậu nửa chừng, không ngon miệng. Nàng muốn nổi bưng những sợ tóc gáy bạc màu ra từng mảnh nhỏ.

    Hai năm nuôi chồng trên giường bệnh, ngày ngày từ sáng sớm đến chiều ngồi trước khám Chí Hoà như anh Công an gác cổng là hai năm nàng đã thấm thía được cuộc đời cũng như số phận con người. Tất cả là do duyên phận và duyên phận ấy không ai tự dưng chọn cho mình được cả và chính mình cũng thế.

     Sau khi chàng mất, nàng chỉ còn lại hai con thơ và chiếc xe nước đá đậu hàng ngày trước cổng khám Chí Hòa Thành phố. Và, tự hỏi?  Phải dè, hồi ấy………. chắc có lẽ số phần sẽ khác hơn không.

    Rồi nàng nhẹ tay, từ từ úp quyển sách lại, nhìn ra phía trước và hai giọt nước mắt cứ theo hai đôi má nhạt nhòa chảy dài không ngừng nghỉ…………!

 

Trội « Hai mươi «

 

Ta trội hơn mi nửa vạn ngày

Làm chồng, làm bố chẳng gì sai

Mi kém hơn ta quãng đời dài

Làm thê, làm mẹ quá tầm tay

 

Son, lão duyên phần « « Đâu số phận «

Ta, Mi nào mãi, cứ phân vân

Sánh bước, chung lòng cùng góp sức

Trăm năm dài, ngắn « Có là chăng « .

 

Thủy Điền

 

 

 

76- Giọt Cuối

    

 

 

     Ông Sáu mấy ngày nay cứ trăn trở, nghĩ suy mãi. Tại sao thằng bé Toàn nầy giống thằng Thắng nhà mình thế? Thật không hiểu nổi, chuyện trên đời nầy.

     Sau khi lấy vợ cho Thắng được năm năm, thì bà sáu bắt đầu ngã bệnh và mất cùng năm đó. Ngôi nhà chỉ còn lại ông Sáu và hai vợ chồng Thắng.

     Thắng lập gia đình đến nay gần năm năm rồi, mà chẳng thấy có con con cái gì cả. Hai vợ chồng tình cảm bắt đầu nhạt nhẽo dần. Chàng không biết tại mình hay tại vợ, nhiều lúc chàng suy nghĩ cũng muốn đến Bác sĩ để tìm ra lẽ, nhưng chàng cứ ngại ngùng rồi bỏ qua. Chính vì nguyên nhân ấy, mà hai vợ chồng cứ mãi lục đục và đưa đến chia tay. Cuối cùng nàng và Thắng làm đơn ly dị.

     Nàng bỏ Thắng và theo người đàn ông khác, sống cách đó cũng không xa. Thắng buồn bã, về nhà thường hay gay gắt với cha mình. Công việc, nhà cửa rất bề bộn, lẽ ra chàng phải gánh vác thế cha mình trong lúc tuổi già. Đàng nầy chàng phế mặc và cứ rong chơi đây đó. Thời gian - nối tiếp thời gian, dòng đời đưa đẩy, chàng phiêu bạt ra tận Khánh hòa và chàng đã quen được một người con gái tên Lam. Lam là một cô gái Giang hồ, nhưng khi gặp Thắng không biết sao cô quyết định gác kiếm, không còn đi làm nữa và hai người đã thề non, hẹn biển ăn ở với nhau được một đứa con trai rất khá khỉnh. Đó lá bé Toàn. Khi sanh Toàn xong, hai người tới Ủy ban gần đó chính thức kết hôn. Vừa kết hôn được một tuần, Thắng quây trở lại quê nhà một mình và bảo Lam, khi nào anh điện thoại báo, thì em hãy vào với anh.

     Sau những ngày tháng tha hương, lưu lạc. Thắng về lại quê nhà phụ giúp cha già, như ăn năn, hối cải và mộng ước sẽ đem Lam về sống với mái ấm gia đình. Ngỡ về cha mình sẽ tha thứ chuyện cũ. Ai ngờ! Ông sáu cứ tính tình không thay đổi, gay gắt như xưa. Đối với ông dù có Thắng ở nhà hay không ở nhà, ông lúc nào cũng đều như thế. Hai cha con hễ khi gặp nhau là như trâu trợn. Biết tính cha, Thắng luôn nhường nhịn và bỏ qua mọi chuyện. Chàng luôn suy nghĩ, mình về quê đến nay đã ba tháng rồi mà không điện thoại cho Lam vào, thật là quá đáng và Lam sẽ nghĩ mình như thế nào, chàng ray rứt trong tâm, ăn ngủ không yên. Thời gian chờ đợi quá lâu là gì chàng muốn nghe ngóng thái độ của cha mình như thế nào, rồi hãy tính. Nhưng vô vọng, muôn vàn vô vọng, sự việc có chờ mãi thì cũng vậy thôi, nên chàng quyết định gọi Lam vào và mọi chuyện tới đâu, thì tới. Chàng coi đây như là một cuộc đánh liều.

     Một ngày đẹp nắng, chàng đang làm việc ngoài đồng, thì Lam từ Khánh hòa lò mò vào. Qua năm đường, bảy lối nàng hỏi thăm hết người nầy, đến người khác và cuối cùng cũng tìm đến cổng nhà. Ông Sáu đang tập trung những đống khoai vừa mới thu hoạch mấy ngày qua và cũng đang chờ người đến bán. Ông nhìn thấy Lam và hỏi?

-Cô đi tìm ai thế?

*Dạ, Cháu tìm anh Thắng. Xin lỗi bác, ở đây có phải nhà anh Thắng không bác?

-Đúng, nhà nó đây, cô là gì của nó và tìm nó có chuyện chi?

*Dạ, Cháu là vợ của Thắng, Thắng gọi cháu vào đây.

    Nghe nói đến câu “Cháu là vợ Thắng” Ông Sáu nổi điên lên và bảo. Cô làm ơn, làm phước đi khỏi đây ngay giùm tôi đi, ở đây không có vợ con nào của Thắng cả. Đi mau! Đi mau! Nhanh lên!

    Lam bực mình cái lão già, chưa biết ất giáp vì hết là lo xua đuổi khách. Cô ta ù lì chẳng thèm đi đâu hết. Cứ đứng miết một chỗ. Con Chó nhà thấy người lạ, chạy quanh khịt khà làm Lam chết nửa thân người. Nhưng cố gượng, đứng gồng lưng chịu trận. Thắng từ ngoài đồng về, trên vai vác cái Cuốc, nhìn thấy cha mình đang xua đuổi người nên chạy lại cản ngăn. Thì té ra là Lam. Cuộc hội ngộ, hai người ôm nhau chầm chập. Ông Sáu bỏ vào nhà trong và Thắng đưa nàng về phòng riêng phía sau.

    Kể từ đó mạnh ai nấy sống, ông Sáu ở nhà bên, còn Thắng và Lam ở phòng bên cạnh phía sau nhà và ngày ngày hai người vẫn làm việc bình thường, xem như không có kẻ thứ ba. Nói thì nói thế, ông Sáu đâu có để yên, làm dữ nhất quyết không nhìn nhận Lam là con Dâu. Mặc dù hai người đã đính hôn có giấy tờ hẳn hoi.

    Mỗi ngày, thường thì Thắng hay nấu và ăn chung với cha mình, nhưng từ ngày có Lam về ông Sáu không ăn chung nữa và tự nấu ăn một mình. Thắng thấy vậy nên bảo Lam, thôi mỗi ngày em chịu khó nấu rồi bưng sang cho ba ăn, chớ cảnh nầy mãi anh khó chịu lắm. Và,  Lam làm theo ý chồng, mỗi ngày nấu ăn và mang sang cho ông. Ngỡ ông ăn, ai dè! Mỗi lần mang sang là ông bưng nguyên tộ cơm và đồ ăn cho con Chó nhà ăn hết, riêng ông thì nhịn. Nàng bực bội và không thèm mang sang nữa. Mặc ông, muốn làm gì thì làm.

    Cuộc sống trong gia đình hiện tại như Mặt trời, mặt trăng, cứ dội nhau mà không thấy chán, kéo dài hơn một năm nay chẳng khá lên tí nào cả. Lam nhiều đêm thủ thỉ với chồng, nàng hết chịu nổi cảnh sống như thế nầy và nàng muốn trở về lại Khánh hòa ngay, vì nàng cũng đang nhớ con và mẹ nàng nhiều quá. Thắng biết, nếu nàng về lại Khánh hòa, nàng sẽ không bao giờ trở lại với chàng nữa, nên nhỏ giọt năn nỉ, cản ngăn và hứa sẽ đem mẹ nàng cùng con vào ở chung một ngày gần nhất và cuối cùng nàng xuôi lòng, rồi ở lại.

    Không ngờ! Sau một đêm ân ái, sáng thức dậy, Lam phát hiện Thắng đã qua đời trên giường ngủ. Nàng tá hỏa và chạy sang gọi ông Sáu. Ông Sáu rất thản nhiên và gọi báo Chánh quyền đến. Chính quyền cho mở cuộc điều tra, thì rõ ra Thắng bị nghẹt Tim mà chết, ngoài ra không có lý do gì khác. Chính quyền nói một đường, còn ông Sáu thì cãi một nẻo “Nhất quyết là Lam đã hãm hại con mình”  Kết cuộc, giấy trắng, mực đen Lam là người vô tội.

    Khi chôn cất Thắng xong, ông Sáu chẳng một lời an ủi Lam, mà ngược lại càng hằn học thêm và bảo, sao Lam không rời khỏi chốn nầy. Lam giận quá, ôm mặt khóc và trả lời với ông Sáu rằng. Vì Thắng là chồng nàng, có hôn thú đàng hoàng, Thắng vừa qua đời, nàng không muốn bỏ Thắng trong lúc nầy, nàng cần phải ở lại đây để khói nhang cho chồng một thời gian rồi đi cũng chẳng muộn.

    Ngày ngày ra vào trong xóm, trong làng, đi chợ, phục vụ cho cuộc sống như bao người khác. Vì còn trẻ hơn nữa chồng vừa mới chết, nên không ít một số thanh niên đầu đường, xó chợ theo trêu ghẹo, đẩy đưa. Vốn có ít tay nghề ngày xưa cha nàng truyền lại, nhiều lúc những con Dê xồm mất dại ấy phải đành hối hận.

    Được tin Thắng qua đời, mẹ nàng dẫn bé Toàn vào thăm và chịu tang cha. Vừa đến cổng, ông Sáu cũng hỏi với giọng y trang như nàng ngày đầu vừa mới đến. Nàng giận quá và ngoe ngoãy đưa mẹ và con về ngay phòng mình ở, mà chẳng thèm xin phép ông Sáu một lời nào. Hai người bây giờ như hai kẻ thù, không đội trời chung. Ông Sáu cứ mắng nhiếc hàng ngày, còn nàng cứ giả câm và phế mặc.

    Với một tài sản đồ sộ, nhà cửa, ruộng đất hơn nữa Thắng là con một, ông Sáu thì già. Vợ cũ của Thắng là người đàn bà mưu mẹo, nàng đâu có để cho Lam yên. Nàng sợ Lam sau nầy sẽ hưởng hết gia tài, nên nàng tìm mọi cách như: Mướn Luật sư, Thừa phát lại đến để chia của. Vì nàng đã từng làm Dâu trong căn nhà nầy năm năm chớ có ít đâu. Nhưng ông Sáu đâu có chịu và bảo, ông đang còn sống, ông không chia cho ai hết. Khi nào ông chết thì hãy hay. Luật sư của vợ cũ Thắng cũng khuyên nàng nên bỏ cuộc, vì nàng đã ly dị lâu rồi và chẳng có con cái gì với Thắng cả và hiện tại ông Sáu vẫn còn sống sờ sờ đó. Cuộc chia chát gia tài bất thành, nỗi hờn tức vẫn còn sôi sục trong lòng và nàng tìm mọi cách hãm hại Lam.

    Một hôm Lam trên đường đi chợ về, nàng mướn mấy tay Giang hồ chận đường mạ nhục, nàng cố chóng cự, nhưng gì đông quá nên nàng đành bó tay và cũng may, ông Sáu trên đường đi ruộng về, tình cờ bắt gặp và đập cho bọn chúng một trận. Bọn chúng bỏ chạy, thế là Lam được thoát nạn.

     Về đến nhà, ông Sáu chẳng thèm hỏi một câu, là tại sao và có mệnh hệ gì không? Cứ lẵng lờ như người xa lạ qua đường. Hai mẹ con Lam thì ngược lại, lo nấu món ngon, vật lạ rồi mời ông Sáu sang ăn để đền ơn cứu mạng. Hồi đầu ông Sáu sỹ diện không sang, nhưng nhờ bé Toàn cứ sang năn nỉ mãi, nên ông đành sang và ăn cho có lệ.

    Và, kể từ đó, những sự căng thẳng trong gia đình càng ngày, càng giảm đi và bé Toàn cứ quấn quýt bên chân ông, mỗi khi ông đang làm việc. Càng gần nhau, ông càng để ý và nhận thấy, sao thằng Toàn có nhiều nét giống thằng Thắng như đúc. Rồi ông tự hỏi? Chẳng lẽ nó là con thằng Thắng nhà mình hay sao. Kỳ lạ thật. Và dần… dà ông tỏ thái độ thương thằng Toàn nhiều hơn, làm việc gì ông cũng gọi nó, ăn cái gì ông cũng cho nó và đi đâu ông cũng dẫn nó đi theo như cháu ruột.

    Nhiều lúc ông muốn hỏi Lam về thằng Toàn, nhưng thôi !

Trong bữa cơm thân mật, ngày giỗ đầu của Thắng, tình cờ Lam nói “ Toàn con rót nước cho ông Nội uống đi con” Thằng Toàn nghe lời mẹ rót nước, khi rót xong, ông Sáu nhìn thằng Toàn chầm chập, bật khóc và ôm thằng Toàn vào lồng mà chẳng nói lời nào. Buổi tiệc tàn, ông đứng dậy ra về và nói. “Toàn tối nay cháu sang ngủ với ông nha cháu “ Thằng Toàn ngoan ngoãn trả lời. Dạ tối cháu sang ngủ với ông cho vui, ông chờ cháu nhé.

    Như đã hứa trong lòng, dù hoàn cảnh thế nào đi nữa, nàng cũng phải ở lại đúng một năm, để lo nhang khói cho Thắng, rồi mới về quê. Thời gian đã hết, nàng bảo mẹ nàng nấu bữa cơm thịnh soạn, mời ông Sáu sang ăn để từ giã trước khi trở về Khánh hòa. Ông sáu đâu có biết, cứ ngỡ như những lần ăn trước, vẫn vui vẽ, đàm đạo. Không ngờ! Khi ăn xong, Lam đứng dậy, khoanh tay thưa ba. Ngày mai gia đình con sẽ trở về Khánh hòa, không ở đây nữa. Mỗi ngày nhang khói cho anh Thắng, con nhờ ba lo giúp hộ và cảm ơn ba đã cho gia đình con tá túc trong những ngày sóng gió vừa qua. Ông Sáu nghe xong chẳng cản ngăn, chẳng níu kéo,  ngồi lặng thinh và ôm mặt khóc.

    Ngày trở lại Khánh hòa gia đình Lam che tạm cái quán cốc bán Tạp hóa lây lất qua ngày. Riêng thằng Toàn cứ hỏi mẹ chừng nào về thăm ông Nội?  Lam bảo từ… từ hãy con, mẹ làm có tiền, mẹ sẽ đưa con về thăm Nội ngay, mẹ cũng nhớ mộ cha con và nhớ ông Nội nhiều lắm.

    Một năm sau, ông sáu âm thầm gọi người đến bán hết gia sản, rồi mang trọn số tiền ra tận Khánh hòa tìm Lam và thằng Toàn. cuộc hội ngộ mừng như mưa đỗ. Lam nghĩ, ông Nội thằng Toàn sẽ gọi hai mẹ con nàng trở lại. Ai ngờ! Ông đưa hết số tiền cho Lam và bảo, đây là tài sản của con và thằng Toàn, con hãy tìm mua căn nhà khác mà ở, lo cho thằng Toàn ăn học và ba cũng sẽ ở lại đây với nó cho đến cuối đời.

    Thằng Toàn ôm chân ông Nội không rời tay, mếu máo và hỏi? Sao mình không về quê ở ông Nội. Ông nói, nơi đó không còn gì luyến tiếc nữa con à. Ông cháu mình sẽ ở đây và ông sẽ ở mãi mãi bên con. Vì con là giọt máu cuối cùng của ông. Con hiểu không ?

Dạ, con hiểu !

 

 

Thủy Điền

 

75-Chết Tươi………!

 

     Trời tháng năm, vào xuân, thời tiết ấm dần. Hai ông bà người Tây đang vỡ đất trước sân nhà, chuẩn bị vài hôm nữa sẽ trồng một ít hoa. Bỗng nhìn thấy năm ông Tướng Việt nam trong trại tị nạn gần đó đi chợ về, mỗi ông đều vác trên vai hai, ba lố đồ hộp thức ăn dành riêng cho Chó, thật mệt nhọc và cồng kềnh. Ngoài ra chẳng thấy ông nào xách Khoai lang tây, Cà-rốt hay Dưa leo gì cả.

Ông hỏi bà? Bà nhìn ông.

   Không lẽ tụi Việt nam nầy nuôi Chó nhiều thế, mà trong trại tị nạn không đủ chỗ cho người ở, ai mà cho nuôi Chó và tôi cũng chưa bao giờ thấy ở đó có con Chó nào. Kỳ lạ thật?

   À há, bà nói đúng. Kỳ lạ thật.

Ngày hôm sau, hai ông bà tò mò , mon men đến trại tị nạn hỏi ông Quản lý trại?

   Ông Quản lý trại trả lời. Ở đây làm gì có ai nuôi Chó và ông bà thấy có con Chó nào lởn vởn ở đây đâu.

   Hai ông bà nói, chúng tôi tưởng…..rồi cáo biệt ra về.

Khi khách về, ông Quản lý suy nghĩ. Tại sao hai vợ chồng ông bà láng giềng lại sang hỏi mình những lời vớ vẫn như thế?

   Thật tình thì một số anh em vì sống ở Đảo quá lâu, cuộc sống rất khổ cực, sự thèm khát lúc nào cũng kè kè bên cuộc sống. Hơn nữa khi mới sang xứ người, tiếng tâm thì không biết, có muốn hỏi ai điều gì thì cũng ngại ngùng. Bởi thế, mỗi khi đi chợ thì nhìn đại khái bề ngoài mà mua, không cần biết cái ấy sẽ dùng vào trường hợp nào. Bản tính người mình thì thích những thứ quý hiếm, nên khi vô tình gặp những thứ ấy, vừa túi tiền là mua ngay. Ngỡ người tây họ cũng ăn giống như mình, vì họ văn minh, hiện đại hơn nên tất cả đều cho vào hộp. Ban đầu một vài người ăn, thấy ngon, rồi đồn đại lan dần ra, sau đó ùng ùng kéo nhau đi mua về nhà, nào xào củ hành, nào chiên, mua rượu mạnh cùng nhau quây quần để bù đấp lại những ngày khổ cực nơi xứ đảo. Và cứ ngỡ đó là cuộc sống bình thường như bao người khác.

Không ngờ!

   Một hôm ông Quản lý đi thâu gôm mấy bao rác, để tập trung lại và chờ xe đến chở đi dụt. Tình cờ ông nhìn thấy trong mấy bịch rác bị rách, lòi ra toàn là lon đựng thịt cho Chó ăn. Mấy lần trước vì bịch còn nguyên vẹn, nên ông chỉ nghĩ đó là rác thường mà thôi, cộng với câu hỏi của vợ chồng ông láng giềng mấy ngày trước. Từ đó, ông bắt đầu sanh nghi ngờ và mở cuộc điều tra, xem ai đã ăn những thứ nầy. Nói thì nói, ai mà chịu cha ăn cướp. Tất cả đều lặng im và trả lời là không hề biết. Ông Quản lý giận dữ và biết chắc chắn là những người trong trại nầy, chứ không còn ai khác hơn. Nhưng vì không bắt được quả tang, nên ông cũng đành chịu. Và kể từ đó tiệm bán thực phẩm dành cho Chó ăn ngoài phố bị ế, các ông Tướng cũng hết dám ăn luôn, có ông muốn cho ra khỏi Dạ dầy. Nhưng rất tiếc, bộ Tiêu hoá đã xay nát và theo cơ thể đi về nhiều ngõ mất rồi.

   Thật, chết tươi……khi một lần lầm lẫn.

 

Thủy Điền 

 

 

 

 74- Vỡ Mộng

 

   

 

   Bà năm tay vừa quét, vừa dọn dẹp cái bàn Trà nhỏ, mà hằng ngày ông năm Hô cùng mấy ông bạn già láng giềng dùng nó để đàm đạo sự đời. Rồi lấy tấm mũ bọc lại và dựng vào bên hông nhà. Miệng bà cứ cằn nhằn “ Tại con quỷ Nga nên ổng mới trở bệnh lại “ Cơn bệnh nầy ổng đã hết cách đây hơn hai chục năm rồi.

    Ông Năm trước ngày giải phóng là Hạ sĩ quan Hải quân, sau ngày rã ngũ, ông về sống bên vợ cho đến nay. Ông rất hiền từ, chưa bao giờ to tiếng hay giận dữ với một ai. Năm 1990 có một lần ông bị bệnh Tim nặng, tưởng đâu qua đời rồi. Nhưng may, phát hiện kịp thời và ông đã được cứu chữa và mãi cho đến nay người ông rất mạnh khỏe, bình thường. Bởi, ông lúc nào cũng tập thể dục đều đặn, giữ gìn sức khỏe tối đa và chỉ uống nước Trà ma thôi. Ngoài ra không uống rượu, không hút thuốc.

    Gia đình ông sống kề vách cùng gia đình người chị vợ. Gia đình nầy có bốn đứa con, Năm 1996 hai ông bà cùng ba đứa con nhỏ đi định cư tại Hoa kỳ theo diện HO và còn chừa lại một đứa lớn là Nga, vì Nga đã lập gia đình nên không muốn sang Mỹ. Khi đi hai ông bà giao lại tất cả tài sản cố định cho vợ chồng Nga.

    Qua Mỹ khoảng ba năm, gia đình bà chị vợ dành dụm gởi về cho Nga số tiền khá lớn và Nga đã mua miếng đất cách nền nhà cũ gần ba trăm mét, cất một căn nhà to lớn, đầy đủ tiện nghi. Rồi cùng chồng và các con dọn về căn nhà mới ở. Sau khi dọn xong, Nga nhường căn nhà cũ lại cho con gái lớn ông Năm, vì cô ta vừa lập gia đình, hiện còn đang ở chung với vợ chồng ông. Chồng cô ta chẳng ai xa lạ, anh ấy là em ruột của chồng Nga. “ Hai chị em bạn dì, lấy hai anh em ruột “.

    Vừa đặt chân đến Mỹ vài tháng, là chị vợ ông nhờ người hướng dẫn làm đơn xin bảo lãnh gia đình Nga ngay, theo diện di dân. Bà biết làm đơn theo diện nầy thì rất lâu, thời gian chờ đợi lẹ nhất là mười năm. Bà làm với tính cách cầu may, bao giờ được đi sang Mỹ thì đi, còn không thì cũng chẳng sao. Vì hiện tại Nga đang sống ở Việt nam rất thoải mái với cái nghề nhàn nhã đó là “Cho vay ăn lãi “ Và thỉnh thoảng còn nhận được tiền trợ cấp từ Mỹ gởi về.

    Sau mười năm sang Mỹ, bà chị vợ hay thường về Việt nam thăm quê. Trong những lúc ngồi quây quần bên nhau, vô tình hay cố ý. Bà bảo, bà sẽ lấy căn nhà con gái ông Năm đang ở, đập phá và cất một căn nhà mới để thỉnh thoảng bà về bà ở, mà không phải làm phiền đến vợ chồng con Nga. Trong thân mật, bỗng dưng trở thành khó chịu, ông Năm lòng sôi sùng sục vì nghĩ đến số phận con gái mình.

    Thời gian gần hai mươi năm, kẻ sống ở Việt nam, người sống ở Mỹ, mọi chuyện cứ ngỡ đều êm đẹp, con gái ông cũng ngỡ căn nhà nầy thuộc về mình, nên không cần phải đi mua hay cất nhà khác nữa, mà chỉ cậm cụi vào công việc hàng ngày.

     Năm 2013, lời nói của bà chị vợ ngày ấy không còn là vô tình nữa, mà trở thành cố ý. Bà từ Mỹ trở về Việt nam ở sáu tháng và quyết định đập phá căn nhà cũ và cất lên căn nhà mới. Sau sáu tháng thi công, căn nhà được thành hình và đóng cửa không cho ai ở hết. Thế là, gia đình con gái ông Năm chới với và dọn sang ở tạm gia đình ông tiếp tục.

    Vật giá bất động sản ở Việt nam càng ngày càng lên vùn vụt, gia đình con gái ông lâm vào cảnh khó khăn. Phải ngày xưa Nga không nhường căn nhà cũ lại, thì con gái ông còn lo liệu nổi, vì hồi ấy cái gì cũng rẻ, còn bây giờ sau hai mươi năm, mọi thứ đều tăng gấp ngàn lần.

     Trong cái rủi, cũng có cái may. Chỉ vất vả khoảng ba tháng, bỗng dưng Toà Đại sứ Mỹ từ Hà nội gởi thư đến báo, là gia đình Nga được định cư tại Mỹ. Thật, cái gì rồi cũng đến, mừng quá Nga thâu xếp gia đình để chuẩn bị sang Mỹ, trước khi đi Nga cũng gọi con gái ông đến để bàn giao căn nhà. Hai vợ chồng như trúng độc đắc lần thứ hai và  lập tức dọn về nhà mới ở ngay. Ông Năm cũng mừng theo, thế là con mình đỡ vất vả hơn.

     Nga sang Mỹ được sáu tháng, ở Việt nam ai cũng ngỡ Nga sẽ ở luôn bên ấy. Nhưng mọi người đâu biết, Nga mỗi ngày đang đứng nhìn ra cửa sổ và muốn quây về Việt nam ngay tức khắc. Vì hiện tại Nga không biết một tiếng Anh, ngoài trời thì mùa đông giá lạnh. Chẳng làm ra một xu nào, trong khi ở Việt nam, Nga mỗi ngày kiếm tệ lắm là năm trăm ngàn tiền cho vay ăn lãi. Những ngày tháng ở Mỹ, là những ngày tháng tạm bợ bên mẹ, bên em. Nga không chịu nổi và đúng sáu tháng sau gia đình Nga quyết định về lại Việt Nam sinh sống. Mặc dù trong sự quyết định nầy mẹ và các em Nga rất bất bình, nhưng Nga đành chấp nhận.

     Sau khi nghe cú Phôn từ Mỹ gọi về, rằng gia đình Nga sẽ trở về Việt nam ở luôn mà không ở Mỹ nữa và nhờ gia đình ông bà Năm lên Phi trường đón giùm. Ông Năm đang uống nước trà cùng mấy ông bạn láng giềng, bỗng dưng bị nghẹn và té ngã xuống nền đất rồi bất tỉnh.

 

Của cha, của mẹ thì ham

Của dì, của dượng đừng tham làm gì

Ai mà mang của vứt đi

Nhỡ mai khốn, khó, lấy chi mà dùng.

 

Thủy Điền

 

 

 

 

73-Như Kẻ Qua Đường

 

Chuyến xe chở hành khách du lịch từ Thành phố Hồ chí Minh đi tham quan trại Rắn Đồng tâm- Mỹ tho và các cảnh quan của bốn cồn nổi tiếng của tỉnh Tiền giang, trên đoạn đường đi xe vừa qua Thị trấn Tân hiệp, bỗng dưng ai cũng nhìn hắn, vì thấy hắn đang khóc. Và, ngược lại chiều về cũng thế. Mọi người tự hỏi? Cái anh chàng Đạo diễn và Quây phim nầy kỳ lạ thế.

 

     Sau khi học trường Cao đẳng Điện ảnh với tấm bằng Đạo diễn và Nhà làm Phim 4 năm tại Đức xong. Hắn xin vào làm việc cho hãng Du lịch TUI tại Hamburg và người ta phân hắn làm việc  trên chiếc tàu du lịch xuyên quốc gia mang tên “ Mein Schiff 1 “ Với công việc khá nặng nề. Đó là vừa làm Đạo diễn vừa chỉ đạo quây phim và cắt phim cho mỗi lần khách đi tham quan bất cứ nơi đâu.

 

     Hôm tháng 7 vừa qua tàu của hắn từ Đức lên đường đi Châu á (Thời gian là một năm) Nhưng hắn chỉ đi trong 6 tháng theo hợp đồng làm việc mà thôi. Tàu khởi điểm từ cảng Hamburg dần qua các quốc gia như: Tây ban nha- Ý- Thổ Nhĩ kỳ- Trung đông- Ấn độ- Tích lan- Thái Lan- Singapore - Mã lai á - Việt nam và sau đó quây ngược lại về Châu âu.

 

     Trong chuyến đi nầy hắn có dịp ghé lại Việt nam 2 lần.

1-    Mỹ tho và Bến tre

2-    Thành phố Hồ Chí Minh.

 

     Mỹ tho nói chung và Tân hiệp nói riêng là quê hương của bố hắn thì đúng hơn vì hắn được sinh ra và lớn lên ở Đức. Xứ sở nầy hắn đã có về  du lịch cùng gia đình 3 lần rồi. Nơi đây hắn còn cả một dòng họ rất lớn và mồ mã ông bà. Nhà Nội hắn nằm cạnh quốc lộ 4 (cũ) chừng 300 mét.

 

     Khi chiếc xe gần đến Tân hiệp, hắn nghĩ. Giá mà xe chỉ đậu lại, cho hắn xuống, chạy ù vào khoảng 10 phút, đốt ông bà Nội cây nhang, hỏi thăm sức khỏe cô, dì rồi đi thì sung sướng biết dường nào. Thế mà hắn không làm được. Bởi, trách nhiệm của hắn là phải hoàn thành mỗi chuyến du lịch ngoài trời theo đúng thời gian quy định. Nên khi chuyến xe vừa qua khỏi quê hương của hắn là tự dưng nước mắt tuôn tràn.

 

     Bao người trên xe ngạc nhiên và hỏi? Nhưng hắn chỉ trả lời ngắn gọn “Về đến quê hương mà không ghé được nhà, không thăm, không hỏi được ai lời nào, thử hỏi làm sao mà không đau xót, không rơi lệ được chứ ”

 

     Trên chiếc xe chiều hôm ấy cùng mọi người ngược về Thành phố để kịp chuyến tàu đi nơi khác. Hắn vừa khóc vừa lầm bầm “ Xin lỗi mọi người, dù lòng rất muốn, nhưng gì công việc nên đành như kẻ qua đường, nên đành như kẻ vô tâm.

 

Thủy Điền

19-01-2017

 

 

 

72-TÌNH CỜ



BÀI THƠ: NỖI NIỀM NGƯỜI XA XỨ

 

Tác giả: Đặng Minh Mai

 

Mây lặng lẽ xứ người trôi khuất

Lòng con buồn nhớ đất quê ta

Quê hương có mẹ có cha

Cô dì chú bác có bà có ông

 

Bởi cuộc sống dứt lòng con bước

Xa mẹ cha thầm ước ngày về

Bây giờ xa cách sơn khê

Mỗi chiều con vẫn nhớ về quê hương!

 

Đêm thao thức canh trường khó ngủ

Thương mẹ cha chốn cũ nhớ mình

Một đời chiu chắt ân tình

Cho con có được dáng hình hôm nay

 

Ơn cha mẹ cao dày chưa trả

Đạo làm con thong thả sao đành?

Hẹn ngày nắng ấm trời xanh

Con về bên mẹ ngọt lành lời cha!

 

Mặc chiếc áo bà ba quê mẹ

Duyên dáng cười nhè nhẹ nón nghiêng

Tình quê ấm áp thiêng liêng

Cơm chiều sum họp mẹ hiền cha yêu!

 

Sáng nay chúa nhật, ngoài trời tuyết rơi như mưa đỗ, chỉ trong vòng 15 phút mà ngập trắng cả sân. Buốt, chẳng biết làm gì sau ly Cà-phê sáng, tôi bật máy tìm vài trang thơ, văn đọc chơi cho đỡ buồn. Tình cờ tôi đọc được bài thơ khá hay tựa đề “Nỗi niềm người xa xứ “ Chưa đi sâu vào bài thơ, chỉ thấy cái tựa thôi là cũng thấy khoái rồi. Vì nó giống hệt tâm trạng của mình, những người đang xa xứ và đang nhớ nhà, nhất là thời điểm quê nhà đang tưng bừng đón tết.

 

     Về phần Tác giả, tôi tự đoán có lẽ người viết là một phụ nữ đứng tuổi hay nàng con gái nào đó, chớ không phải là đàn ông, hay thanh niên. Vì giọng điệu bài thơ nghe rất nhẹ nhàng, trìu mến, ấm cúng, không mạnh bạo. Tôi nghĩ có thể gì hoàn cảnh nghèo mà phải từ quê lên thành làm việc để kiếm sống hay sang một quốc gia nào làm việc theo chương trình hợp tác lao động. Theo tôi phương án thứ hai thì đúng hơn. Bởi, nơi làm việc và quê nhà cách xa nhau xa quá, hơn nữa kinh phí, phương tiện cũng là điều cần phải cân nhắc. Nên sau những giờ làm việc và những lúc nghỉ ngơi cô thường hay trăn trở nơi chôn nhau, cắt rốn của mình. Cứ ra, vào than thở, nhớ quê, nhớ cha , nhớ mẹ, nhớ họ hàng muốn về thăm rột lần rồi đi, nhưng về không được. Càng lưu luyến bao nhiêu thì những hình ảnh ấy lại càng xa dần bấy nhiêu. Qua đoạn thơ dưới đây thấy lòng cô vọng lên mà nghe sao xao xuyến tâm hồn.

 

Mây lặng lẽ xứ người trôi khuất

Lòng con buồn nhớ đất quê ta

Quê hương có mẹ có cha

Cô dì chú bác có bà có ông

 

     Thường thường thì việc gì cũng qua đi và dần quen với cuộc sống mới. Nhưng riêng cô thì khác, lúc nào cũng miên man nghĩ về  quê cũ và hy vọng một ngày gần nhất sẽ trở lại chốn bài. Đó là niềm thiết tha duy nhất của người xa xứ nào cũng thế. Như tôi đây cũng vậy thôi, ngần mấy chục năm trời làm thân viễn xứ, sống xứ người nhiều hơn quê nhà mà lòng mãi luôn luôn vọng quốc. Dù biết rằng ngày ấy sẽ không bao giờ hiện thực, nhưng vẫn luôn mang hy vọng trong lòng. Đoạn thơ

 

Bởi cuộc sống dứt lòng con bước

Xa mẹ cha thầm ước ngày về

Bây giờ xa cách sơn khê

Mỗi chiều con vẫn nhớ về quê hương!

 

     Là một động lực giúp người ta vượt qua những thế giới lạ và luôn mãi giữ những gì mình từng có. Nó như là tiềm thức ăn sâu vào lòng của mỗi con người Việt nam.

  

     Chuyện nhớ quê, nhớ cha, nhớ mẹ là đương nhiên, ai cũng thế. Riêng cô lại có phần đặc biệt hơn, cô nhớ từ li, từ tí những công lao sanh thành, dưỡng dục để cô có được ngày hôm nay. Chính vì thế, đêm nào cô cũng thức giấc trăn trở và hứa hẹn một ngày nào đó sẽ làm một cái gì dù ít hay nhiều để bù đấp lại tấm lòng cao cả ấy. Làm một con người như cô thì quả là hiếm và đáng được kính trọng, có lòng như cô dù thực hiện được hay không thực hiện được, nơi quê nhà phận làm cha mẹ mà nghe được lời con nói. Hỏi ai mà không mát dạ, mát lòng và không cần phải mang lụa, vàng, vật báu thì mới thương con. Trong những giây phút thao thức cô vẫn luôn tự tin rằng cha mẹ mình nơi quê nhà chắc cũng thế, rồi mắt cô tự dưng tuôn tràn trên đôi má.

 

Đêm thao thức canh trường khó ngủ

Thương mẹ cha chốn cũ nhớ mình

Một đời chiu chắt ân tình

Cho con có được dáng hình hôm nay

 

Ơn cha mẹ cao dày chưa trả

Đạo làm con thong thả sao đành?

Hẹn ngày nắng ấm trời xanh

Con về bên mẹ ngọt lành lời cha!

 

     Đọc qua hết bài thơ, tôi có cảm nhận rằng với một con người như cô dù hoàn cảnh nào hay khó khăn nào đi nữa ngày về sum hợp gia đình chắc chắn sẽ không xa và tôi cũng cầu chúc cho cô được toại nguyện những mơ ước của mình sớm thành hiện thực

 

 

Mặc chiếc áo bà ba quê mẹ

Duyên dáng cười nhè nhẹ nón nghiêng

Tình quê ấm áp thiêng liêng

Cơm chiều sum họp mẹ hiền cha yêu!

 

 

Thủy Điền

15-01-2017

  

71-Nhớ Xuân Xưa

 

Lâu rồi, khoảng ba chục năm hơn tôi mới được nhìn lại cái chồi bán dưa hấu mà ngày xưa mẹ tôi và những người bán hàng khác hay thường dựng cái chồi để bán dưa hấu vào những ngày cận tết trước Đình thần Tân Hiệp.

  

   Cách đây ít năm, vào đầu tháng 9, tôi có về thăm quê một lần. Trên đoạn đường từ phi trường Tân sơn nhất về nhà, phải chạy ngang qua tỉnh Long an. Khi xe vừa tới ngã ba Thủ thừa bỗng dưng tôi thấy hai bên dọc theo lộ chính có lố nhố mấy chồi bán dưa hấu giống hệt như chồi dưa của mẹ tôi ngày xưa. Nhưng gì ngày thường nên ít khách, chủ yếu họ bán cho những người vãng lai qua đường, còn mẹ tôi ngày xưa vì thời điểm tết nên rất đông khách.

  

   Vừa nhìn thấy thoáng qua những chồi ấy, tự nhiên đầu tôi nghĩ ngay những ngày sắp tết. Vì xưa nay là như vậy, chỉ có tết mới có dưa hấu, ngày thường làm sao có. Lòng thấy rất vui như mùa xuân đang đến, nhưng tiếc thay, bây giờ mới chỉ là tháng chín thôi, trời thì lúc nắng, lúc mưa nên tôi bắt đầu trầm lại và tự hỏi? Dưa hấu có thể trồng được bốn mùa, có cái là ngon hay không ngon mà thôi, mà tại sao ngày xưa người ta chỉ trồng vào những tháng gần tết, để khi tết đến là có dưa hấu bán, chưng , ăn ngay.

  

   Thật sự giờ nầy 57 tuổi đầu tôi cũng không có hỏi và rõ tại sao là như vậy. Nói thì nói, nhưng nhiều đêm tôi cũng suy nghĩ, có lẽ là Văn hóa của dân tộc ta là như thế nên bỏ qua luôn.

  

    Nhớ hồi ấy cũng khá vui, cứ mỗi lần tết đến khoảng 20 tháng chạp là ai ai cũng mướn chủ chợ một chỗ để dựng cái chồi lớn, nhỏ tùy theo sức kinh doanh của mình và dưới nền chồi trải đầy rơm, khi dựng xong, người ta bắt đầu bồ hàng từ tỉnh về và bán lẻ lại cho bà con trong rất vui và ngoạn mục. Vì xứ tôi xưa nay chẳng có ai trồng dưa hấu cả. Thuở ấy tôi thì còn nhỏ chẳng bán buôn gì, chỉ đứng sớ rớ coi chừng hàng và chờ mẹ sai vặt, khuân cho bà nầy, ông nọ năm quả, ba quả lên xe đi về xa. Thật sự mà nói, sao mà họ mua rất đông và mẹ tôi bán là rất đắc. Một ngày bà bán 1/3 túi xách đệm tiền, trong thật ham.

  

    Có một năm gần giải phóng, giặc giả rầm rầm, thế mà họ vẫn bán. Năm ấy vì ảnh hưởng chiến tranh, sự đi lại người dân rất dè dặt, các chồi dưa hấu bị ế rất nặng, mở cửa từ ngày 20 tháng chạp cho đến 28 tháng chạp mà hàng vẫn còn y. Mọi người thất vọng, buồn bã, sự lổ lả sắp đến nơi, năm mới chắc không mấy gì vui vẻ. Riêng mẹ tôi thì khác, bà vẫn hy vọng đến ngày ba mươi, bà bảo chẳng lẻ tết ai mà để bàn thờ trống không, thiếu vắng. Thật đúng, ngày 30 là ngày cuối cùng của năm không riêng gì mẹ tôi và những người khác cũng thế, bán sạch sành sanh, đến nổi những quả dưa bọng ruột tưởng vất đi, thế mà người ta đều mua tất và hết hàng sớm hơn mọi năm. Mẹ tôi bảo nếu còn một chồi nữa chắc họ cũng mua luôn vì hôm nay là ngày chót.

  

     Qua bao nhiêu điều kể trên, ta cũng đủ chứng minh rằng quả dưa hấu luôn đóng một vai trò quan trọng trong ngày tết. Tuy không rõ hết ý nghĩa của nó như thế nào, nhưng nhà nào cũng đều cần đến nó đề chưng lên bàn thờ cúng tổ tiên và thậm chí có người mua nhiều hơn dùng vào việc tặng biếu mang sự may mắn đến cho cha mẹ và người thân nữa.

 

     Và, bây giờ thì lại khác, vì nhu cầu cuộc sống, dù ngày tết vẫn còn giữa nguyên những phong tục ấy. nhưng vì ngày thường, ngày nào ta cũng thấy và cũng được thưởng thức quả dưa hấu, bởi thế khi xuân về, tết đến ý nghĩa và giá trị của quả dưa hấu bị giảm dần ngang hàng bằng quả Quýt, quả Xoài, qủa Cam thật tiếc vô cùng.

 

Thủy Điền

14-01-2017

 

70-Ăn Tết Hai Lần

 

     Vừa đi làm về, bước vào nhà. Quang đang ngồi trước máy vi tính, đứng dậy ôm hôn nàng và bảo:

-         Hélene nầy ! Bố anh vừa điện thoại khoảng 15 phút. Rằng 28 tháng giêng tới, ông muốn anh về ăn tết và có Hélene theo cùng. Hélene đi cùng anh chứ?

-         Hélene ngỡ ngàng, Quang có nghe nhầm không ? Mới ăn tết cách đây hai tuần, mà tết nhất cái gì nữa. Rồi nàng bỏ đi một hơi lên lầu, chẳng thèm nói tiếng thứ hai.

 

     Quang quê quá, ngồi xuống vò đầu, sao mình vội thế. Nàng mới đi làm về còn đang mệt, sao mình không để vài ngày nữa nói cũng chẳng muộn và lúc ấy nàng còn chịu khó ngồi nghe mình giải thích thêm về ngày tết Việt nam. Dốt thật.

 

     Quang quen Hélene cũng khá lâu và mới dọn về ở chung gần tám tháng nay. Thời gian quen nhau cho đến nay, mỗi khi đến ngày tết Nguyên đán là chàng về nhà một mình cùng gia đình ăn tết mà không bao giờ dẫn Hélene theo. Bởi, việc ăn uống của nàng rất khó khăn. Mang tiếng là người yêu một thanh niên Việt nam, nhưng chưa bao giờ nàng ăn một món gì của Việt nam cả. Mặc dù Phở, Hủ tiếu, Chả giò, Bánh xèo mẹ chàng hàng ngày hoặc các cửa tiệm nấu rất ngon. Một điều đặc biệt là mỗi khi ăn không được hay không vừa ý, nàng tỏ thái độ ra mặt nên Quang rất cẩn thận trước gia đình.

 

     Chiều nay cũng vừa đi làm về, trước Hélene một tiếng. Bố chàng gọi điện thoại bảo: Hai đứa 28 tháng giêng nầy phải về nhà ăn tết Việt nam cùng gia đình, vì ông thấy Quang và Hélene rất gắn bó, ông xem Hélene như con trong nhà, đồng thời ông cũng muốn nàng tập làm quen, hội nhập với cuộc sống của người Việt nam một ít. Khi ông nói xong, Quang cũng dè dặt trả lời những đặt tính riêng của nàng. Nhưng ông nhất quyết và chấp nhận tất cả mọi sự việc xảy ra. Ông bảo: Có thế người ta mới hội nhập với mình được chứ. Còn sợ…sợ, tránh né…tránh né mãi, biết bao giờ người ta mới gần mình được. Quang nghe ông nói, thấy có lý và hứa sẽ đưa Hélene về vào dịp tết Nguyên đán nầy.

 

     Khi buổi ăn tối vừa xong, cả hai rất thoải mái, vui vẻ. Quang hỏi Hélene? Chàng có thể lập lại câu chuyện hồi chiều không. Nàng bảo: Quang cứ tự nhiên. Quang thuật lại đại khái ý nghĩa ngày tết Nguyên đán mà chàng thường nghe bố, mẹ chàng kể trong những ngày đầu xuân và tại sao thời gian chênh lệch giữa ngày tết tây và tết ta một tháng và có khi nhuần là hai tháng. Nàng tay cầm ly nước cam, đầu gật gật và bảo:

-         Vậy là 28 nầy em sẽ đi cùng anh thử một lần.

-         Quang mừng quá, nhẩy ôm hôn nàng mấy phát.

 

     Qua cơn mừng ấy, bổng dưng chàng bắt đầu lo sợ. Tuy nàng nói thế, nhưng biết đâu đến nơi, giữa ngày tết đông người, nàng có những thái độ khó chịu thì trở tay không kịp.

 

     Cái gì rồi cũng đến, sáng 28 hai đứa dậy thật sớm và lái xe hơn 600 cây số để về đến nhà bố mẹ. Bước vào nhà mọi người mừng vui hớn hở, chào đón nhiệt liệt. Nhất là bố mẹ Quang rất quý Hélene, tuy chưa thành vợ chồng, nhưng ông bà cứ xem là con dâu út của mình. Người Việt nam nói riêng, người tây cũng thế hể quý, thương ai thì mời ăn, mời uống túi bụi, mời đến khi nào bụng khách đầy và ngại ngùng thì thôi. Trong lúc mọi người cúng vái, Hélene đi vòng vòng nhà, nàng nhìn cách trang trí ngày tết của người Việt nam, nàng bảo Quang nàng rất thích, nơi đâu cũng hiện lên những màu đỏ, vàng sặc sở tượng trưng cho sự may mắn và hạnh phúc rõ nét.

 

     Khi đã cúng ông bà xong là trời bắt đầu đứng bóng, ai ai cũng đều đói bụng. Nhất là Hélene. Bởi khi vừa bắt đầu vào tiệc, cái nào nàng cũng thử và thấy ngon miệng (Không biết ngon thật hay vì đói bụng mà thành ngon ) Nàng ăn thoải mái. Mọi người rất vui và ngạc nhiên những gì mà Quang đã từng kể trước đây.

 

     Ngày tết đã qua, trên đường về lại nhà. Nàng bảo Quang năm sau nàng sẽ về nhà bố mẹ ăn tết tiếp mà khỏi cần biểu, bảo vì cả. Nàng thật sự không ngờ ngày tết Việt nam thật là đúng nghĩa vô cùng và kể từ đó tuần nào nàng cũng bắt Quang đến cửa hàng thực phẩm Á-Đông để mua cho được những thứ mà nàng thích như: Chả giò làm sẵn, Vịt quây cùng các thứ khác về chỉ để tan đá là chiên, nướng lại là dùng ngay.

 

     Sau ngày ấy chàng ngẫm ra câu nói của bố thật đúng và chí lý vô cùng,

   “ Có thử thì mới biết trắng, đen còn mập mờ làm sao biết đen hay trắng “.

 

Thủy Điền

12-01-2017

 

69-Câu Chuyện Của Ngày   

 

Tôi xin kể một câu chuyện nhỏ ngày hôm qua 10-01-2016 khá thú vị. Có một nhà thơ ở Canada gởi bài đến trang thơ tôi và nhờ tôi đăng, sau khi đọc xong, tôi cho đăng ngay. Thật tình thì tôi cũng đã có đăng bài của ông nhà thơ nầy nhiều lần lắm rồi và mỗi lần tôi đều ghi ông ta ở Canada. Nhưng hôm qua các Thi, văn hữu khắp nơi gởi đến khá nhiều bài vì làm việc bằng máy tính, mắt kém, nên tôi sơ suất và ghi lộn là ông ta ở Hoa kỳ. Sau khi lên mạng xong tôi đọc lại tất cả lần chót những gì mình đã làm, tôi thấy tôi đã ghi sai nơi ở của ông ta và định ăn cơm chiều xong sẽ sửa lại. Nhưng chưa kịp sửa thì ông ta Mail sang với Nội dung nguyên văn như sau:

 

Đạt lắm! Tôi ở Canada 39 năm bạn bè khắp nơi đều biết. Nhưng ở Thủy Điền lại ghi USA. Dù rằng trước 75 tôi làm việc cho đế quốc Mỹ. Vậy anh xem sửa Canada cho thuận buồm xuôi gió được không?. Cảm ơn anh Màu. Chúc vui khoẻ. Tình thân.

 

(Xin phép để tránh phiền lòng, tôi xin giấu tên Tác giả.)

 

1-Từ Đạt lắm: Là ông ta bằng lòng lối phối trí hình ảnh và bài thơ lên mạng.

2- Nhưng ở Thủy Điền lại ghi USA. Dù rằng trước năm 75 tôi làm việc cho đế quốc Mỹ: Theo tôi câu nói nầy đối với một nhà thơ kỳ cựu, lão thành thì quá dư thừa và vận dụng không đúng chỗ trong một đoản khúc đàm thoại. Bởi, nó đâu có liên quan gì đến một sự việc nhỏ như vậy. Tôi cũng chẳng hiểu hàm ý của ông ta cho tôi là hạng người nào. Đỏ hay vàng. Nếu ý của ông có đúng như thế và tôi là người theo phe phái thì những bài thơ của ông ta xưa nay gởi đến tôi, nhờ tôi đăng lên mạng là tôi đã loại mất lâu lắm rồi, chứ không chờ đến hôm nay đâu. Mặc khác tự dưng ông ta khoe khoang, ca ngợi từng làm việc cho đế quốc Mỹ. Xin thưa, việc nầy tôi cũng chưa hỏi đến hay đá động đến đời tư của ông ta gì cả. Như ai cũng biết ở Việt nam trước 75 đã từng có hàng triệu người lính và chánh quyền làm việc dưới người Mỹ chớ không riêng mình ông ta đâu và họ đang đứng cận kề bên ông ta ở Canada, Úc, Châu âu và ỡ Mỹ nhiều lắm.

   Tình thật mà nói, có lẽ tôi ít học hơn ông ta, nhưng khi một nhà báo đã in sai nơi ở của tôi, thì tôi sẽ nói ngắn gọn với họ thế nầy :

 

Anh Thủy Điền mến

Tôi vừa đọc bài anh mới đăng, thấy có sai phần nơi tôi ở, anh sửa lại giùm nhé tránh người độc hiểu nhầm.

Chào anh.

 

   Thế thì quá đầy đủ ý nghĩa và nghe rất nhẹ nhàng, tình cảm. Những bậc tiền nhân ta thường nói: Thi, văn sỹ là những người trí thức và những người trí thức nầy hơn những loại người trí thức khác mà tại sao ta không tự hào và vận dụng vào văn chương. Thật đáng tiếc vô cùng.

   Trở lại vấn đề cũ một tí về việc “Tôi từng làm việc cho đế quốc Mỹ “ Tôi nghĩ ông ta chỉ làm việc với người Mỹ, nhưng ông ta chưa hiểu hết về Mỹ đâu mà phô trương. Nếu ông ta cần tôi xin tặng ông ta bài thơ như sau:

 

Đừng Ảo Tưởng

 

Bao giờ tài phiệt không còn

Thì ta hãy nói hết, còn chiến tranh

Bao giờ Dầu hỏa hết giành

Bao giờ vũ khí hết anh nào thèm

Bấy giờ mới thật ấm êm

Bấy giờ số kiếp dân đen thôi nghèo

Bao giờ đi giữa đêm heo….

Lòng không phải sợ tiếng veo…trên đầu

Bấy giờ mới thật sự giàu

Nếu không, vẫn mãi lao đao suốt đời

Đừng mang ảo tưởng nhìn trời

Đừng xem cường quốc là nơi thiên đường

 

Thủy Điền

11-01-2017

 

Thưa ông Nhà Thơ

Thưa ông bạn đồng nghiệp

Qua bài viết nầy, ý tôi là muốn ông hãy thực tế một chút, đừng quan trọng quá vấn đề mà dễ làm người khác khó chịu với lời văn của mình. Dù gì đi nữa ông cũng là một nhà thơ có tiếng xưa nay.

Chào ông.

 

Thủy Điền

 

 

 

68-Ngày Hạnh Phúc

 

     Tôi đã yêu Hoa thắm thoát đến nay là đã hơn một năm rồi. Nhưng hôm nay sau ngày về quê mừng giỗ, ngày mà tôi cảm nhận nàng yêu tôi nhiều và đậm đà nhất trong suốt thời gian qua.

 

     Trong quảng thời gian quen- rồi yêu nhau, tôi thường hay đưa nàng đi nơi nầy, nơi nọ thăm quang cảnh, thăm nội, ngoại và nhiều nhất là thăm gia đình tôi. Không biết mức độ nàng yêu tôi như thế nào, còn tôi thì rất là chân thành và tha thiết. Trong cuộc tình nầy tôi có linh cảm không có gì là chắc chắn cả, nó cứ lờ mờ, nghĩa là nàng chưa tỏ ra những hành động thân thiết lắm, ngược lại cũng không lơ đãng lắm. Nhiều lúc tôi cũng khó chịu mà không dám nói ra. Bởi, nàng đâu có làm gì sai trái đâu mà hỏi. Nàng dường như có bản tình tự nhiên là chuyện gì đến sẽ đến. Nhưng người đàn ông nào cũng thế, không riêng gì tôi đều luôn muốn người yêu mình có những cử chỉ đáng được thích thú và nhớ mãi.

 

      Đã biết bao lần đi chơi xa hay vào những quán ăn hoặc gặp gỡ bạn bè trong những buổi họp mặt, nàng cũng đều tạo một khỏang cách nho nhỏ. Trong khi bạn bè mọi người ngồi san sát vào nhau thật là tình tứ và ấm cúng. Những lần tôi chỡ nàng trên chiếc Hon- da về quê, tôi bảo nàng ngồi sát vào để ngã, thế mà nàng vẫn ngồi cách xa như không muốn chạm vào thể xác của tôi. Khi đến nhà cũng thế, tôi lo cho nàng mọi thứ như gàu mút nước, khăn lau rữa mặt thì nàng từ chối và bảo để nàng tự lấy và tự làm cũng được. Tóm lại là nàng chẳng muốn nhờ vả đến ai.

  

     Một hôm gia đình tôi có làm ngày giỗ ba tôi, tôi mời nàng về cùng cho vui. Nàng đồng ý và sáng sớm chúng tôi lên đường. Biết tính nàng thế nên tôi cũng chẳng cần nhắc nhở gì thêm. Miển có đi cùng tôi là được rồi. Dọc Đường nàng bảo tôi ngừng xe lại và ghé vào quán vệ đường mua đủ thứ món để về cúng đám giỗ. Chiếc xe lúc nầy khá bề bộn lẫn người và vật. Lẽ ra tôi phải nhắc nhở nàng nên ghỳ chặt tôi cho khỏi ngã hay nàng cũng tự biết điều đó. Nhưng cả hai chẳng ai hành động cả. Đường thì xa, lục cục, lòn hòn thật khó điều khiển chiếc xe vô cùng.

  

     Vừa đến ngã ba, quẹo trái, vào khoảng năm cây số nữa là đến nhà. Không may, nhà nước chận lại không cho vào vì đường đang sửa chữa phải mất hơn một tuần nữa mới xong, nên buộc tất cả ai vào đó đều phải chạy vòng đường khác.

  

     Không còn cách nào hơn, tôi cũng như mọi người muốn vào đó phải đành chạy vòng sang xã khác trên, dưới chục cây số. Ở đây toàn là những con đường lồi lõm, cong queo, hơn nữa mùa nầy là mùa mưa nên đường rất trơn trợt. Sợ nàng ngã tôi muốn nhắc nhở vô cùng, nhưng biết lời nói của mình cũng chẳng ai nghe và đành câm nín mà chạy. Vào đường làng khoảng 500 mét, tôi thấy nàng bắt đầu ôm eo Ếch tôi dần dần vì sợ ngã, chạy càng xa nàng ôm càng thật chặt. Thấy thế, vừa cố gắng chạy vừa tếu cho vui “ Em ôm eo Ếch anh vừa vừa thôi, để anh còn thở nữa bằng không là nghẹt mất “ Nàng mắc cở gỏ vào nón tôi và nói: Eo anh là eo Voi chứ eo Ếch đâu mà làm giá, rồi hai đứa ôm bụng cười. Tôi hỏi tiếp? Em ôm eo Ếch anh thấy có gì khác lạ không. Nàng chẳng trả lời tiếng nào và ôm tôi miết, không buông suốt 10 cây số dài.

 

     Khi đến nơi, tôi cười, nàng cũng cười. Nàng bảo: Tại nàng sợ ngã nên nàng ôm thật chặt chớ không ngoài ý gì đâu đừng vội mừng hụt. Và, tôi trả lời với nàng rằng: Sao cả năm nay tôi ngu quá, không lựa đường nầy mà đi, cứ đăm đăm vào con đường chánh mà chạy để khi về lại trách móc sao nàng hờ hững. Nhưng cũng vui, dù thế nào đi nữa, dù yêu nhiều hay yêu tôi ít cũng không sao. Miển là hôm nay tôi được người mình yêu ôm chặt vòng tay vào eo Ếch hơn 10 cây số, thật quả là hạnh phúc vô cùng.

 

Thủy Điền

10-01-2017

 

67-Đừng Đùa Với Chữ

 

     Mỗi năm đến ngày giao thừa, sau khi cùng gia đình ngồi ăn buổi tiệc mừng năm mới, xong, mọi người đều đi ngủ, riêng tôi cố ngồi lại mở máy ra làm một bài thơ chúc xuân gần, xa cho vui. Mặc dù đầu óc bấy giờ cũng bần thần lắm, vì đã uống hết mấy chai bia và vài ba ly rượu đỏ. Nhưng không sao, tâm trí vẫn còn minh mẩn. Bài thơ năm nay 2017, tôi viết nội dung như sau:

                                               

                                     Mừng Xuân Mới

 

Đêm giao thừa pháo rền vang khắp nẽo

Xanh, đỏ, vàng sáng rực cả không gian

Rượu đầy chai, thịt, cá trải một bàn

Ta cùng thưởng…. chúc mừng xuân Đinh Dậu

 

Rót rượu ra, nâng ly ta cùng nhậu

Xoá tan hồi khốn khổ của năm qua

Cảm ơn đời ta vẫn mãi còn ta

Nào cùng uống, vui lên nào bạn nhé

 

Lỡ có say, ngày mai ta lại khỏe

Bước đi lên nhìn thẳng hướng tương lai

Năm mới về hạnh phúc đến bên tay

Xuân Đinh Dậu một mùa xuân chiến thắng.

 

Thủy Điền

 

31-12-2016

 

     Và, bài thơ nầy tôi có đính kèm thêm phần nhỏ, ngắn gọn chúc riêng từng người bạn mà tôi thích. Nom na rất đơn giản, tôi chỉ tả lại quang cảnh đêm giao thừa như: Nào pháo nổ khắp nơi, trên bầu trời tõa nhiều màu sắc và cạnh đó là những chai rượu, thịt cá để thưởng thức sau buổi giao thừa ấy.

 

 

Đêm giao thừa pháo rền vang khắp nẽo

Xanh, đỏ, vàng sáng rực cả không gian

Rượu đầy chai, thịt, cá trải một bàn

Ta cùng thưởng…. chúc mừng xuân Đinh Dậu

 

     Khi buổi tiệc bắt đầu, rót rượu ra, câu chúc đầu tiên của mọi  người là tất cả những cái gì không hên của năm qua đều cho qua cả và năm mới hy vọng sẽ khấm khá hơn, giàu sang hơn. Đồng thời cũng cảm ơn trời phật chúng ta hiện vẫn còn sống và mạnh khỏe đễ tiến bước về tương lai. Sau những câu chúc ấy mọi người đều trút cạn ly rượu mừng của mình.

 

Rót rượu ra, nâng ly ta cùng nhậu

Xoá tan hồi khốn khổ của năm qua

Cảm ơn đời ta vẫn mãi còn ta

Nào cùng uống, vui lên nào bạn nhé

 

     Chúc qua, chúc lại chỉ vài giờ đồng sau thì ai ai cũng đều xỉn trất, chưa chịu tan, nằm gật gựa một tí rồi ngồi dậy uống nữa. Có một vài người vừa say, vừa phát biểu cũng khá hay như: Hôm nay say ngày mai ta lại tỉnh (Chẳng lẽ say hoài) Nhưng không quên những công việc sắp đến và những công việc ấy như là một mặt trận và mặt trận nầy ta phải chiến thắng dù khó khăn là bao.

 

Lỡ có say, ngày mai ta lại khỏe

Bước đi lên nhìn thẳng hướng tương lai

Năm mới về hạnh phúc đến bên tay

Xuân Đinh Dậu một mùa xuân chiến thắng.

 

     Trong câu chót tôi có dùng chữ chiến thắng, lẽ ra phải dùng thắng lợi thì hay hơn. Bởi chữ chiến thắng đã im đậm cũng như có ác cảm với một số người, nên khi tôi gởi bài thơ trên và bài thơ của tôi được đăng lên báo đúng ngay ngày đầu năm. Lập tức ngay ngày hôm ấy có một nhà thơ (Giấu tên) Đã phản hồi bằng một bài “Thơ Điêu “ Như sau:

 

Thơ Điêu

 

Thi sĩ Thủy Điền gửi bài thơ ngộ quá: 
Mừng Giao Thừa Việt Nam trên thế gian: 
Rượu, thịt, thức ngon ê hề một bàn 
Đảng, Nhà Nước Việt Nam mừng Xuân Đinh Dậu! 

Đảng, Nhà Nước Việt Nam thống nhất thành bộ sậu 
Từng chặng đường lịch sử đã thông qua 
Triệu triệu Đảng Viên bảo vệ Đảng Ta 
Lòng hồ hởi, nâng ly đều nhé! 

Say, không sao, say chiến thắng nhờ thừa sức khỏe 
Say rách quần còn để lại cái lai 
Còn hai bàn tay ta cứ vỗ tay 
Còn cặp giò ta đi tiếp đường chiến thắng! 

 

     Biết rằng đây là bài thơ điêu thật. Nhưng tôi có linh tính không tốt. Bởi bài thơ của tôi chẳng đá động gì đến ai cả mà vô tình có ý ẩn đụng chạm với người khác và nhất là chính trị. Như tôi đã có viết Thông báo ở trang chính rằng: Tôi chỉ làm thơ, viết văn, viết sách trên tinh thần Văn học nghệ thut thôi còn ngoài ra tôi không muốn liên quan đến vấn đề khác vì bản thân tôi là người không thích chính trị, đồng thời tôi làm việc không dưới một áp lực nào khác. Viết những lời nầy không phải là phân minh. Nhưng tôi muốn mọi người hiểu rằng một người Văn, Thi sỹ thì phải sống thực với lòng mình (Có nghĩa là thấy sao nói vậy) Không xuyên tạc, nịnh bợ ai hết thì Văn, Thơ của mình càng có ý nghĩa hơn.

 

     Khi đọc bài Thơ điêu xong tôi phải mất mấy ngày suy nghĩ và cuối cùng tôi quyết định hỏi Tác giả ấy bằng bài thơ như sau:

 

Tình Nào Tình Đã Cho Tôi

 

Tình đang cho tôi mùa xuân nắng ấm

Lẫn cành đào hồng, đỏ nở trên sân

Hay đang cho tôi mùa đông giá lạnh

Đang bao trùm tuyết phủ trắng vây quanh

 

Mà thốt vội những lời đau đớn quá

Tôi chỉ mơ chỉ ước giống người ta

Rất đơn giản mà người thường hay có

Tôi chỉ mơ dưới mùa thu lộng gió

Nắm tay nàng đi dạo dưới rừng thưa

Để đếm từng chiếc lá, những giọt mưa

Là cũng đủ sướng sung niềm hạnh phúc

Tôi không cần tặng khen hay sỹ nhục

Mà tình đang phô diễn một bài vè

Tôi chưa hề theo phái lẫn theo phe

Chỉ thích thật và thốt lời chân thật

 

Tôi tự hỏi? Tình đang dâng ngọt mật

Như con Ong được biếu nhụy hương nồng

Hay tình đã quăng tôi ra khoảng rộng

Giữa tiết trời đang cóng lạnh như vôi

Hãy nói đi. “Tình nào tình đã cho tôi “

 

Thủy Điền

09-01-2117

 

 

Và, tôi cũng đang chờ sự phản hồi sớm nhất.

 

Thủy Điền

09-01-2017

 

 

 

 

67-Con Đường Rơm

 

Vừa xuống phi trường nội địa Trà nóc- Cần thơ, lấy hành lý ra ngoài, Linh gọi ngay chiếc Taxi.

-Thưa bác, Taxi có về Sóc Trăng không bác?

-Có, cô về Sóc trăng à?

-Dạ.

-Mời cô lên xe.

-Bác giúp giùm cháu ít Vali lên xe nhé.

-Cô cứ lên đi, tôi khuân và cho vào xe ngay.

   Trời nhá nhem tối, nàng quên hỏi từ Cần thơ về Sóc trăng bao nhiêu tiền và bác Tài xế cũng quên hỏi cô về đâu ở Sóc trăng mà chỗ nào mới được . Xe chạy gần đến cổng thị xã thì cả hai mới bật ra, Ồ ! Quên mất, rồi áp nhau cười. Linh bảo:

-Bác cho cháu về xã Tân Thạnh- Long Phú nhé và đến đó cháu sẽ chỉ bác thêm sẽ về đâu.

-Vâng.

   Mười phút sau, Linh hỏi, từ đấy về đến đây bao nhiêu tiền vậy bác?

-Thường thì 400 ngàn, nhưng trời tối cô cho tôi thêm 100 ngàn nữa là 500 ngàn được không ?

-Dạ, không có chi đâu bác.

   Vừa đến xã và cũng gần đến nhà, Linh bảo tiếp:

-Bác làm ơn ghé vào con đường cây rơm cho cháu xuống nhé, cháu sẽ đi bộ vô một đỗi là tới nhà ngay.

-Ừ.

   Mọi lần xe đến xã chỉ chạy thêm năm phút nữa là tới, thế mà hôm nay bác Tài xế chạy gần nửa tiếng đồng hồ mà chẳng chịu ngừng. Thấy Lâu quá Linh Hỏi? Sau lâu quá vậy bác.

-Cô bảo tìm con đường rơm mà tôi chẳng thấy đâu cả, bây giờ toàn là phố, nhà không, bít chịt khó tìm quá.

-À, đổi thay nhanh thật.

-Cô còn nhớ có điểm nào khác nữa không để dễ tìm ? Còn không sẽ hỏi dân làng ở đây thì mới tìm được.

-Dạ cây Đa lớn bác ạ.

  

     Chạy quanh khoảng năm phút bác Tài xế đã tìm ra cây Đa, nhưng không tìm được con đường rơm. Linh cho ngừng và trả tiền rồi tự đi tìm về nhà lần. Vì thấy bác Tài cực khổ quá nên nàng cho thêm 100 ngàn nữa. Tổng cộng là 600 ngàn.

 

      Mấy lần trước về quê, nàng hay cho gia đình hay trước và mướn xe lên tận Tân Sơn Nhất để đón nàng. Nhưng những năm về sau có phi trường nội địa Trà nóc cách nhà 6o cây số nên nàng không cần báo trước và về một cách đột ngột cho cả nhà ngạc nhiên một lần.

  

     Trước đây năm năm nàng có về hai lần, con đường dẫn từ lộ cái vào nhà nàng có tên là con đường rơm. Vì mỗi khi mùa gặt về ai ai cũng mang lúa lên lộ đập, rồi phơi cả lúa lẫn rơm nên cả con đường mang một sắc vàng óng ánh. Kể từ ba năm nay nhà nước đã dẹp con đường nầy và phóng con lộ lớn xuyên qua huyện khác. Khi làm lộ xong bà con tứ xứ ùng đến mua đất, thành lập quán xá hai bên đường thật là đông đúc và dần dần biến thành khu kinh tế đồ sộ, chỉ riêng cây Đa già nằm cách con đường hơi xa nên được giữ y. Chính nhờ nó mà nàng tìm được ngôi nhà cũ lẹ hơn, còn bằng không phải chạy hỏi rất nhiều người.

 

      Linh vừa vào đến cổng thì trời đã tối hẵn, mọi người ai củng ngạc nhiên tại sao nàng tìm về nhà một cách dễ dàng, trong khi trời tối đen như mực và trách móc sao không báo trước để gia đình đi rước như mọi lần. Ôm nhau, mừng nhau sau những ngày xa cách, kể lể đủ thứ chuyện trên đời.

   

     Sáng thức dậy, nàng lang thang theo ngõ, để nhận diện lại những nét cũ, nhưng không cách nào và nàng không thể tưởng, chỉ trong vòng có mấy năm xa quê mà sự đổi khác thật khủng khiếp, từ một đường quê hẻo lánh,  không bao giờ có một người lạ đến mà nay bỗng dưng trở thành một phố xá sầm uất. Trong khi nàng sống hơn hai mươi năm tại Cộng hoà liên bang Đức, một đất nước giàu có nhất, nhì Châu Âu củng có phát triển, nhưng đâu vùng vụt như xứ sở nầy.

 

Thủy Điền

08-01-2017

 

 

66-Cô Hàng Hoa

 

Đứng bên đây, nhìn qua khu Nghĩa địa chừng 80 mét, không gian cách nhau bằng một đường xe điện. Phía bên kia lố nhố những ngôi mộ cao, thấp hoà cùng một vườn hoa lắm sắc nằm cạnh một tiệm bán hoa có tên là „Hoa Chúa Nhật „ Nơi đây có người con gái, 26 tuổi tên là Nga đang bán hoa tại cửa hàng nầy.

  

   Tôi quen Nga vào dịp bố người bạn qua đời, vì cửa hàng hoa gần nhà nên tôi sang mua một đóa hoa hồng trắng để đi viếng tiễn đưa ông cụ về nước chúa. Hôm ấy trời mây xám, buồn lắm. Cửa hàng lúc tôi vào hơi vắng vẻ, người chỡ hoa bỏ mối đến trễ, cô bảo tôi chờ và tôi ngồi chờ khoảng 20 phút thì anh ta đến.

   Trong thời gian chờ đợi cô hỏi tôi ?

-         Anh ở gần đây sao?

-         Vâng tôi ở cách đây không xa cửa hàng cô lắm, phía bên kia đường.

-         Anh mua hộ hay ………..mà sao lại mua hoa trắng.

-         Tôi đi viếng và tiễn ông cụ bạn tôi vừa mới qua đời cách đây ít hôm.

-         À ra là thế.

-         Còn cô?

-         Tôi cũng ở gần đây.

-         Lâu chưa?

-         Cũng gần năm rồi đó anh.

-         Chắc làm nghề nầy khá lâu chứ?

-         Thưa, cũng gần một năm kể từ ngày về đây ở.

-         Còn lúc trước ở đâu và làm nghề gì?

-         Chuyện dài lắm, hôm nào có dịp em sẽ kể cho anh nghe.

Khách hàng càng lúc càng vào đông, tôi trả tiền và mang đóa hoa ra về.

 

Ba ngày sau, tôi gặp lại Nga tại một quán Cà Phê nơi gần chúng tôi ở. Nga kể:

   Sở dĩ nàng dọn về đây ở và chọn nghề bán hoa nầy là gì ngày nào nàng cũng muốn cận kề bên người nàng yêu đang nằm ngoài Nghĩa địa ấy và hàng vạn người ôm hoa đi ngang qua ngôi mộ của chàng. Mặc dù họ không ghé lại, nhưng cũng là niềm diễm phúc của một người quá cố và những đóa hoa ấy do chính tay người yêu chàng làm nên.

 

   Vừa nghe nàng kể xong, tôi giật mình và rợn người. Y như là câu chuyện ma không hơn, không kém. Tôi bình tỉnh và hỏi ?

-         Lại chó chuyện nầy nữa sao Nga.

-         Buồn lắm anh ơi và không biết bao giờ vơi đi được.

 

   Thấy nàng trầm xuống, tôi không hỏi nữa và chuyển sang vấn đề khác, uống Cà phê và nói chuyện trời trăng , mây nước. Cốt ý để tạo lại cái không khí vui tươi, bình thường. Nhưng khoảnh khắc ấy không lâu. Nàng trở về câu chuyện cũ và buộc tôi phải ngồi nghe hay nói khác hơn là tôi cũng đang tò mò muốn nghe (Chớ chẳng tốt lành gì) Để xem câu chuyện đi đến kết cuộc như thế nào.

         Nàng kể tiếp:

   Anh ấy người quê xứ nầy, chúng em yêu nhau được hai năm và sắp tính đến chuyện hôn nhân. Một ngày cuối tuần anh đưa em về thăm gia đình. Nhưng không may, vừa vào đến cổng thị xã thì một chiếc xe tải từ phía trái lao đến cuốn hút trọn chiếc Hon da. Văng cả hai ra ngoài, chiếc Hon da tan nát, em bất tỉnh được chỡ vào nhà thương cứu cấp còn anh ấy chết tại chỗ. Ngày chôn cất anh ấy em vẫn còn nằm bệnh viện đến một tháng sau mới trở về nhà. Sau ngày ấy, tuần nào em cũng đi xe đò xuống thăm anh và ở lại tại Ngĩa địa với anh gần cả ngày rồi mới về. Sự đi lại càng ngày càng mỏi mệt, nên em quyết định về đây ở  luôn và xin vào cửa hàng bán hoa nầy để được gần anh ấy hơn và chăm sóc ngôi mộ từng ngày.

 

   Nghe Nga kể, dù mới biết nhau tôi thành thật chia buồn cùng Nga, đồng thời kính trọng một tấm lòng. Và, thật sự không ngờ trên cõi đời nầy lại có những cuộc tình và con người chung thủy đến thế.

 

Thủy Điền

07-01-2016

 

 

65-Bức Tường Vẫn Mở

 

     Sau mười năm xa quê, trở về. Quyến nhìn bức tường ngăn cách giữa hai căn nhà vẫn còn bỏ trống. Nàng hỏi Kiên ?

-         Cậu à ! Sao bức tường vẫn còn thế nầy? Đã mấy lần tôi gởi tiền về, tôi đề nghị cậu hãy xây kín nó lại. Cậu ừ ừ, mà chẳng chịu làm, đến nay đã mười năm có ít đâu.

-         Thưa chị !

-         Thưa, thưa cái gì, chuyện bằng ngón tay mà không làm được, thử hỏi chuyn lớn một chút nữa sẽ ra sao. Đàn ông như cậu „Quên đi „.

-         Bây giờ chị có mắng em, thì em xin nhận, ngoài ra em không biết giải thích thế nào để cho chị hiểu. Chị Quyến à.

 

Cậu nhà có tội chi đâu

Sao em mắng lắm, cho đau lòng người

Tội là do tội ở tôi

Nếu em có mắng tôi ngồi đây nghe

Em đi xa mấy mùa hè

Xa em tôi nhớ, đêm về tôi than

Hai nhà cách cục gạch vàng

Sao em không để tôi sang ngắm nhìn

 

     Thú thật thì em định khóa kín nó lâu rồi. Nhưng mỗi lần xách hồ, xách gạch ra xây thì anh Quang lại cãn ngăn, anh bảo anh nhớ chị, anh muốn mỗi ngày sang nhà mình để ngắm lại những hình ảnh cũ mà anh với chị đã từng bên nhau, còn khóa lại có nghĩa là “Đoạn tuyệt “ sao. Nên em không đành lòng và vẫn để y đến ngày nay và có lẽ là mãi mãi.

 

     Quyến vừa nghe Kiên nói xong, nàng bật khóc.

-Thôi được, tùy cậu.

 

Cây Cau kỷ niệm chúng mình

Nơi ta từng ngắm, lung linh Sao trời

 

Và bây giờ anh ấy ra sao? Mà thấy nhà then cài, của đóng có vẻ hoang tàn thế.

-Thưa chị……!

- Nói đi…….!

-Từ từ thì chị rõ.

 

Tiếc rằng ngày ấy hết rồi

Khi em về đến, anh nơi Suối vàng

 

-Vậy là anh Quang mất rồi, bao lâu?

-Dạ, gần năm nay.

-Anh có vợ con gì không?

-Thưa không, vẫn một mình như ngày nào. Nhưng sao nầy không biết thế nào mà trông anh có vẻ tàn tạ lắm và đêm về hay thường rủ em ra sân uống trà nhìn mây, ngắm gió.

 

Lẽ ra anh đứng cổng làng

Vai mang, tay xách đón nàng về Dinh

Ai ngờ ! Đời đã vô tình

Để em cô lẻ một mình nặng vai.

 

     Khi nghe Kiên kể hết bao sự việc của những ngày qua, nàng không còn khóc nữa và cùng Kiên đi thẳng ra mộ Quang. Hai tay nàng chấp vái, miệng lầm bầm „Em sẽ không bao giờ dán lại bức tường xưa „.

 

Thủy Điền

03-01-2016

  

     64-Áng Mây Mờ

 

     Thời gian sáu năm qua, khi còn là Sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm và trở thành Thầy giáo, năm nào hắn cũng được nhà trường ngợi khen là một Sinh viên và Thầy giáo giỏi nhất, nhì trường. Nhưng kể từ lúc hắn lập gia đình rồi sanh con nhỏ những hình ảnh cao đẹp ấy bị mờ dần đi. Bởi, hắn hay đến trường trễ muộn và không còn xông xáo trong công việc giảng dạy như ngày nào.

  

     Không phải hắn là người được khen thưởng khi bắt đầu là Sinh viên hay lúc làm Thầy giáo, mà trước đó hắn đã từng được mọi người chú ý. Vì hắn là một con người đàng hoàng, quy tính và học rất giỏi. Hắn học ra học, chơi ra chơi, dạy ra dạy. Hồi còn trai trẻ hắn học điểm rất cao và năm nào cũng thi đậu cả. Khi chuyển sang làm Thầy giáo cũng thế hắn dạy Học sinh đều thi đỗ đạt cả lớp và trội hơn các Thầy, Cô khác nên năm nào nhà trường cũng tuyên dương cử hắn về Sở Giáo dục tỉnh để nhận ban khen cá nhân và cho cả nhà trường.

  

     Khi hắn đi dạy được hai năm, thì cha mẹ ở nhà đi dò dèm tìm cho hắn một cô vợ và cuối cùng hắn đồng ý lấy cô láng giềng, xinh, giỏi giắn, hiền hậu. Sau một năm chung sống, vợ hắn đã tặng cho hắn một cô Công chúa thật tuyệt vời. Và, ngược lại hắn rất buồn vì ở đời thường hay được cái nầy thì mất các khác. Thời gian một năm cưới vợ về, vợ hắn là một người rất bình thường. Nhưng kể từ ngày sanh em bé, đêm nào trong lúc ngủ vợ hắn có cái bệnh ngáy rất lớn và kéo dài suốt cả đêm, hắn nằm cạnh bên mà không cách nào ngủ được. Cứ thức giấc nằm trăn trở, không dám đánh thức vợ dậy, cũng như không dám nói lời nào sợ vợ giận và phải đành thức trắng chờ đến khi trời sáng xách cặp đi dạy. Giai đoạn đầu thì hắn chưa đi trễ, nhưng trong giảng dạy có vẻ lơ là bởi người hắn luôn mất ngủ và mệt mỏi. Qua mấy lần kiểm tra, nhà trường thấy sự giảng dạy của hắn bị sút giảm nên đặt vấn đề với hắn. Ở nhà cũng thế, sau khi đi dạy xong, về nhà hắn chẳng thèm làm gì cả, cũng như chẳng thèm ngó ngàng đến vợ, mà tìm chỗ ngủ để lấy lại sức. Vợ hắn đâu có biết, cứ ngỡ hắn thức khuya để soạn giáo án, nên hay thường khuyên hắn đi ngủ sớm và gìn giữ sức khỏe. Hắn cứ ừ, ừ cho qua chuyện.

    

     Chuyện vợ chưa xong, bây giờ đến lượt con gái hắn, đêm nào củng thế cứ độ 3-4 giờ sáng khi hắn vừa thíp ngủ thì nàng công chúa bật khóc cho đến sáng. Hắn cũng chẳng biết như thế nào, bệnh thì không bệnh, đói thì có mẹ gần bên. Hắn đoán có lẽ nhỏng nhẻo, mà một khi mang bệnh nhỏng nhẻo thì thật là khó trị.

  

     Mất ngủ vì bị vợ ngáy, lại càng mất ngủ thêm khi đêm về con khóc. Bởi thế, ngày nào hắn cũng đến trường trễ. Nhà trường nhiều lần vặn hỏi? Lý do, tại sao. Nhưng vì thương vợ, con hắn đành im lặng và nhận khuyết điểm. Chính vì sự im lặng ấy, vô tình thành tích của hắn dần dần bị áng mây mờ che phủ, mọi người xung quanh ai ai cũng đều ngạc nhiên. Và, chính hắn cũng tự thấy mình nên đi tìm cái nghề khác thì hay hơn còn làm Thầy giáo mà đến trường trễ muộn, thiếu trách nhiệm trên bụt giảng thì quả thật là xấu hổ vô cùng.

 

Thủy Điền

02-01-2016

 

 

63-Phép Vua Thua Lệ Làng

 

   Năm nào cũng thế, độ khoảng còn 5-6 giờ đồng nữa mới đến giao thừa mừng xuân mới. Thường thì đúng 0 giờ đêm ngày mồng một, thì nhà nước mới cho phép đốt pháo. Đàng nầy lại khác, tiếng lụp bụp cứ vang rền khắp chốn, bất chấp những luật lệ ban hành.

 

   Khi những tiếng pháo ngoại lệ ấy bắt đầu chấm dứt trước nửa tiếng để bước sang năm mới. Ai ai cũng nghĩ khi đến giao thừa tiếng pháo chính có thể giảm và lắng dịu đi. Nhưng không ! Khi đồng hồ vừa tín ton 0 giờ, thời khắc đã đến, tiếng pháo bắt đầu vang lên cả mấy chục lần. Ta thử tưởng tượng như một cuộc giao tranh dữ dội giữa hai phe hồi mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc không hơn, không kém.

 

    Nhìn một cách khái quát qua trận pháo ấy, người ta tạm nghĩ rằng năm vừa qua dân lành làm ăn chắc khá giả lắm, nên mới có tiền nhiều mà mua pháo đốt ăn mừng lớn như thế. Thật sự không phải như vậy, mọi người đều lầm lẫn. Năm vừa qua là một năm đầy gian khó, khổ cực cứ còng cọc làm mãi mà kết quả thì không như ý muốn. Bởi thế, dù có tốn kém bao nhiêu người ta cũng cố gắng mua cho được một số lượng pháo nhất định để đốt chào mừng một năm mới. Một năm hy vọng sẽ sáng lạng hơn, khấm khá hơn. Đồng thời tẩy đi những tàn tích khổ đau của năm cũ.

 

    Nói chung, qua những hành động trên không phải là ai ai cũng thế, nó chỉ là một phần duy tâm mà thôi. Nhưng trong cuộc sống mà có chút duy tâm thì cũng tốt. Và, đặc biệt nó cũng giống như ta tin tưởng vào Chúa, Phật hay những vị thần linh mà ta đang tôn kính. Để ta mới có hướng đi theo và làm việc một cách tích cực hơn.

 

    Chính vì thế, dù những luật định đã được ban hành như: Ngày 29 mới được bán pháo, tối 0 giờ ngày mồng một mới được phép đốt pháo. Nhưng người ta vẫn bán trước đó vài ngày và đốt trước 5-6 giờ mà nhà chức trách vẫn phải nhắm mắt làm ngơ.

 

Thủy Điền

01-01-2017

 

 

 

62-Tuổi Học Trò

 

     Nói chung, thời tuổi trẻ, không ai không chút kỷ niệm tuổi học trò. Cái tuổi ăn chưa no, lo chưa tới còn bám chân gia đình. Và, đáng nhớ nhất là giai đoạn 16, 17, 18 đang ngồi bậc đệ nhị cấp ở nhà trường, luôn nhiều mơ, lắm mộng, yêu đương thầm kín, bộc lộ. Rồi có những cuộc tình được thành tựu và những cuộc tình dở dang. Nhưng đa số là dở dang. Bởi những rẽ ngã của cuộc đời mà dường như không ai muốn. Chính vì thế mà các nhà thơ, nhà văn hay mượn mùa Hè, mùa Phượng vĩ, mùa chia tay, con Ve sầu để diễn đạt lại những nỗi buồn ấy. Nhìn khách quan thì thấy rất đẹp, tình cảm, nhưng trong tâm đang ray rứt lòng người. Không ray rứt sao được? Khi kẻ ở, người đi và biết bao giờ trở lại.

 

Hai Nỗi Thương Đau

 

Giờ chỉ còn ngồi nhìn cánh phượng

Cùng ghế buồn ngắm xác hồng rơi

Ngày sắp tàn, mỗi kẻ, mỗi nơi

Nghe buồn lắm. Phải không chim nhỏ?

 

Sao không hót? Đứng yên một chỗ

Chẳng một lời, chẳng chút xôn xao

Sẻ chia cùng ta chút nỗi đau

Ta là bạn ngày ngày đến lớp

 

Anh, anh hỡi biết bao giờ họp

Con chim trời chắc sẽ bay xa

Chỉ còn em sáng sớm, chiều tà

Nhìn phượng vĩ rưng rưng nước mắt

 

Ngày yêu anh, em thường hay nhắc

Sẽ một ngày ta phải xa nhau

Mà vẫn yêu, yêu cuốn, yêu nhào

Để giờ phải một mình ghế đá

 

Thương anh quá, thương em nhiều quá

Hai mối sầu, hai nỗi thương đau.

 

Qua bài thơ “Hai nỗi thương đau “ Là bằng chứng cho ta thấy cả hai đều cùng mang một tâm sự buồn giống nhau. Tuy biết trước mọi sự việc sẽ đến mà vẫn cứ chạy đuỗi theo những ước mơ kỳ vọng của mình. để rồi giờ phút chót chỉ một mình ngồi than thở và sợ sệt đủ điều. Đến cả con chim bạn hằng ngày bên trường lớp mà cũng sợ nó bay xa.

 

   Trong tiếc nhớ hay thường ngồi ngơ ngẩn và tự thấy mình dại dột, khi mới biết yêu cứ ngỡ tất cả những gì mình đang có trong tay sẽ lệ thuộc tất cả về mình, rồi đăm ra ỷ lại, hờ hợt, đòi hỏi hơi qúa đáng và luôn cứ cho mình là con gái bắt tội người tình thế nọ, thế kia. Dĩ nhiên trong sự quá đáng ấy nó hiện lên cái duyên dáng, dễ thương, đẹp đẻ của người con gái, nhưng ngược lại nó cũng làm cho người ta bị schock trong khoảnh khắc nhất định nào đó.

 

 

Bởi, Em Là Con Gái

 

Mùa trăng nào anh cũng bên em

Cùng tựa ghế đếm từng Sao nhỏ

Thế mà em vội quên, không nhớ

Bảo anh là lạnh nhạt, vô tâm

 

Để em yêu khắc khoải đêm nằm

Nhìn xuyên cửa thấy lòng cô lẻ

Nơi gác vắng đêm về lạnh tẻ

Bốn bức tường hoang vắng, lặng câm

 

 

Em còn nhớ rằm về tay nắm

Đi lên chùa cúng phật, ngắm hoa

Thế mà em vẫn bảo, cho là

Tình hờ hửng chẳng thèm đưa đón

 

Để em phải mỏi mòn trông ngóng

Đợi chờ người, đêm đứng tựa song

Đếm thời gian nước mắt lưng tròng

Rồi tự trách “Em là con gái “.

 

     Trong văn chương người ta thường nói „Tình chỉ đẹp, khi tình dang dở „ Theo tôi tình dang dở mà bảo là đẹp, đẹp cái nỗi gì. Sở dĩ người ta thấy người khác đau khổ thì người ta an ủi vậy thôi. Tôi vốn người được rèn luyện và xuất thân từ một trường trung học Nông Lâm súc cũng là học sinh, cũng từng trải những giây phút vui buồn nơi gốc phượng. Nhưng tôi nghĩ chắc nó cũng không đến độ như những người bạn trung học phổ thông đâu, vì họ có nhiều thời giờ hơn chúng tôi. Một ngày họ chỉ học một buổi, còn lại một buổi tha hồ mà yêu đương, lãng mạn, tha hồ mà khóc lóc cho những cuộc tình chia xa. Riêng chúng tôi phải học cả ngày sáng phổ thông, chiều chuyên nghiệp. Họa chăng ! Vài ba câu qua lại trong lúc giải lao mà có thấm gì, nên cái lãng mạn ấy cũng giới hạn và những băng ghế dọc theo những hàng phượng vĩ cũng ít kẻ thẩn thờ.

 

Tôi viết là gì tôi từng đã

Một thời tuổi trẻ, dáng thư sinh

Nhưng không áo trắng như người khác

Màu áo tôi nâu, lấm tấm sình.

 

Có yêu, nhưng chỉ là câm nín

Nên người đâu biết để làm duyên

Nên người đâu sợ con chim Quyển

Vỗ cánh bay xa bỏ bạn hiền.

 

Thủy Điền

28-12-2016

 

 

61-Lời Trăn Trối Sau Cùng

 

Lampung- Indonesia 9 giò 30

 

    Thái cùng các nhân viên y tá đang đi thăm các giường bệnh nhân thường nhật. Bỗng, có cô nhân viên từ phòng hành chính chạy xuống phòng bệnh nhân và nói nhỏ với Bác sỹ:

-Thưa Bác sỹ, Bác sỹ vừa có cú điện thoại từ Amsterdam gọi đến.

-Ai vậy ?

-Dạ giọng một cô bé gái nói bằng tiếng anh. Cần gặp Bác Sỹ gắp.

-Cô nói với họ, để số điện thoại lại, tôi sẽ gọi sau một tiếng. Vì hiện tại tôi phải làm việc cho bệnh nhân không thể tiếp được ngay lúc nầy.

-Dạ. Tôi hiểu.

 

    Năm 2000 Thái và Yến Lan quen nhau ở trường Đại học Y Khoa Amterdam và sau bảy năm theo học cả hai đều đỗ bằng Bác Sỹ và mỗi người đều có một công việc ở mỗi bệnh viện khác nhau.

  

    Yến Lang là con gái độc nhất của một gia đình qúy phái. Cha cô là một cựu Thứ trưởng của thời Đệ nhị cộng hòa, mẹ cô là một nữ Giáo sư trường Đại học Sư phạm Sài gòn. Gia đình cô vượt biên cuối năm 1979 và sang Hòa Lan định cư tại một thành phố nhỏ cách Amterdam 80 km, lúc ấy mẹ cô đang mang thai và sắp sanh. Qua Hòa lan được mười năm thì cha cô qua đời sau một cơn bệnh nặng. Năm 1999 cô đổ tú tài và thi vào trường Đại học Y khoa Amterdam rồi kết bạn cùng Thái từ đó. Sau khi học xong hai người thành hôn và sinh được hai cô con gái sinh đôi khá ngộ nghĩnh và dễ thương. Hàng ngày hai người đi làm bình thường và về nhà ở chung với mẹ vợ. Nhiệm vụ của bà là chỉ chăm sóc hai cháu và lo việc nhà. Cuộc sống của hai người hạnh phúc được năm năm thì bắt đầu xảy ra những mâu thuẩn và cuối cùng đi đến ly dị. Ra toà, Yến Lang giữ con và vẫn sống với mẹ như ngày nào. Riêng thái thì xin nghỉ việc ở bệnh viện và vào làm hội Chữ thập đỏ Hoà Lan, chuyên đi công tác nước ngoài. Thái được biệt phái về vùng Châu á và được phân công phục vụ tại một nhà thương lớn ở tỉnh Lampung- Indonesia (Ngày xưa là thuộc địa của Hòa Lan).

 

    Kể từ thời gian ly dị cho đến nay là gần ba năm, cả hai vẫn chưa ai có vợ hoặc chồng khác. Thái cứ miệt mài nơi xứ lạ, thỉnh thoảng một tháng gọi về thăm các con nơi quê nhà. Ngoài việc ly dị với vợ, Thái là người luôn tôn trọng bà mẹ vợ của mình. Bà là bậc trí thức và là vợ của một quan chức cao cấp ngày xưa, nhưng bà sống rất tình cảm, chân thành, đơn giản, nếu không ai nói ra,  người ta cứ nghĩ bà là người mẹ Việt nam bình thường mà thôi và không nghĩ bà có cái quá khứ to tướng ấy.. Bà rất mến Thái, tuy không còn là mẹ vợ nữa, nhưng mỗi lần Thái gọi về thăm con, gặp bà, bà vẫn đối xử tốt với Thái như ngày nào. Đặc biệt bà luôn chăm sóc hai đứa con của Thái thật chu đáo mà không một tiếng phiền hà.

 

   Tháng 7 năm 2016 bà đột ngột qua đời cũng sau cơn bệnh nặng. Trước khi chết bà khuyên hai đứa cháu nên hàn gắn vết thương của ba mẹ lại. Vì xứ lạ quê người, bà mất, các cháu của bà sẽ cô đơn lắm. Và, sau khi nhắm mắt, cô con gái của Thái tức tốc gọi cho Thái ngay và Thái đã trở về dự đám tang của bà. Nhìn xác mẹ, Thái khóc nức nở, Thái còn nợ bà rất nhiều, Thái chưa kịp bù đấp lại công lao của bà đã từng lo cho con Thái trong những ngày xa xứ mà bà đã vội vả ra đi.

 

   Sau khi chôn cất bà xong, căn nhà chỉ còn lại Thái, Yến Lan và Yến Linh, Yến Lam thật là buồn tẻ. Vợ thì lúc nào cũng ở trên lầu, giận không muốn nhìn mặt chồng. Chồng thì cũng giận mà không bỏ đi được khi tang gia còn bối rối, con đeo theo cằng, theo chân, quấn quýt. Cảnh căn nhà đang lạnh lại càng lạnh thêm, giữa mùa hè nắng cháy mà ngỡ như trời đã vào đông.

 

    Buỗi chiều lạnh nhạt, không ai muốn đụng đạ gì đến nhà bếp, Yến Linh và Yến Lam ra tay nghĩa hiệp, nấu một món mà xưa nay chưa ai từng nấu. Ở Nhà còn những gì thừa thải trong tủ lạnh hai cô cho hết vào chảo và xào thập cẩm, rồi mời cha mẹ cùng ăn. Trong lúc ngồi ăn, mọi người đều yên lặng, Yến Linh bật kể lại lời bà ngoại trăn trối và khóc. Tất cả mọi người trong bàn ăn đều bỏ đủa và cũng khóc ùa theo. Thấy các con nói thế Thái và Yến Lan không cầm nỗi sự xúc động và đành đoạn bỏ hai đứa con của mình và tất cả đứng dậy ôm choàng nhau như xin lỗi, như hứa hẹn sẽ cùng bên nhau đi suốt cuộc đời nầy.

 

Thũy Điền

 

27-12-2016

     60-Con Sâu Làm Sầu Nồi Canh

 

   Sau giờ giải lao, khán giả trở lại vị trí cũ để tiếp tục thưởng thức phần hai của buỗi Đại nhạc hội “Đêm Giáng sinh 2014” Phía ngoài rạp hát lớn chỉ còn lại mấy hàng thức ăn truyền thống như: Cháo lòng, Bánh mì thịt, bánh Bao, bánh Tét, Gỏi cuốn, Bún chả, thức uống và những Ca sỹ  tên tuổi từ Hoa Kỳ sang với gương mặt bí xị đứng bên hàng DVD và CD ế ẩm trong rất thương hại vô cùng. Và, có lẽ màn hai nầy họ chẳng còn hứng thú để hát hết mình phục vụ khán giả như hồi đầu anh chàng MC đã hứa trước mặt mọi người.

  

     Giáng sinh năm 2014 tại một thành phố lớn cách tôi ở khoảng 120 cây số, người ta có tổ chức một đêm Đại nhạc hội với chủ đề mừng” Giáng sinh 2014 “ Buổi văn nghệ nầy được quy tụ với đội ngũ Ca sỹ có tiếng tại Hoa kỳ sang. Thấy họ quảng cáo hơn tháng nay tại mấy của tiệm thực phẩm Á- Đông, tôi lấy một tờ và về rủ người bạn thân đi xem cho vui.

  

     Phải nói đêm Đại nhạc hội được tổ chức rất hoành tráng, có những bàn tròn bao vải trắng dành riêng cho loại khách hạng sang đặt ở phía trước sát bên khán đài, loại nầy có người phục vụ tại chỗ, khỏi phải chạy tới, chạy lui mua ly nước, cái bánh, như những người ngồi hàng ghế phía sau. Vì giá vé loại sang cả 100 Euro đắc quá nên anh em tôi đành mua vé hàng sau 45 Euro, tính ra hai thằng mất gần 90 Euro còn gì.

  

     Nói 7 giờ bắt đầu, nhưng lằng nhằng tới 8 giờ mới nghe được bản nhạc đầu tiên. Các Ca sỹ lần lượt thay nhau với những bản nhạc trữ tình, quê hương và kích động. Qua vài bản chúng tôi thấy bà con bắt đầu nhớm ghế và lần lên khoảng trống giữa khán đài và hàng ghế loại sang lắc qua, lắc lại. Nói chung toàn là những người lớn tuổi còn những người trẻ thì không thấy, chắc có lẽ họ dành vào màn Disco tự do về khuya.

  

     Qua khung cảnh nhẩy theo tiếng nhạc, lời ca chúng tôi có cảm nghĩ như mình đang ngồi tại quê nhà vào những đêm văn nghệ. Bởi, xung quanh mình cả 500 người Việt mà chẳng có thằng tây nào. Vả lại phía trước bày bán toàn là những món ăn mà mình từng ăn ở nhà vợ nấu. Thật là thú vị vô cùng, tôi nói với anh bạn, xem xong anh em mình ra làm một bụng rồi về, đừng bỏ lỡ, uổng lắm. Vì một năm người ta mới tổ chức một lần thôi.

 

      Khi hát xong bản nhạc thứ sáu, anh chàng MC giới thiệu cô ca sỹ Thu Thủy sẽ trình bày một bản vọng cổ để thay đổi bầu không khí. Không biết vì rạp hát quá lớn, tiếng nhạc quá to hay tiếng người ồn ào mà lời giới thiệu của anh MC chẳng ai nghe, nên khi Ca sỹ Thu thủy hát vọng cổ mà họ vẫn còn nhẩy mãi mà không chịu ngưng như đang say sưa thà hồn với bản nhạc trữ tình không hơn, không kém. Cô ca tới câu thứ tư, tự dưng cô ra dấu với anh đàn ngừng lại và nói : Xin phép khán giả cho tôi tạm ngưng một chút rồi hát tiếp và có đôi lời cùng khán giả như sau: Thú thật, hôm nay tôi thấy rất lạ và rất nể phục khán giả tại Đức. Vì rằng, tôi đi hát nhiều năm nay, tại nhiều nơi như: Mỹ, Úc, Châu âu nói chung tôi chưa thấy ai khi nghe vọng cổ mà nhẩy đầm. Mà hôm nay chính mắt tôi thấy thật là kinh ngạc và nể phục người Việt tại Đức vô cùng. Quí vị biết nhẩy với những bản vọng cổ thật tài tình. Rồi cô Cám ơn, vỗ tay và hát tiếp hai câu nữa.

 

     Mọi người khi nghe cô nói  xong, quê quá,  không thèm nhẩy nữa và trở về chỗ cũ ngồi với gương mặt không vui, nhất là hàng ghế loại sang đang từ chỗ sôi động bỗng trở thành lặng tẻ.

 

     Màn một đêm văn nghệ được kết thúc, anh MC cầm máy, quảng cáo lia lịa, các Ca Sỹ chạy nhanh ra phía trước mở Vali ra, nào DVD, CD để trưng bày bán. Thường thì khi vừa giải lao các Ca Sỹ không rảnh tay, rảnh miệng. Họ phải làm việc tối đa, nào bán, nào giải thích, nào chụp ảnh với khán giả, nào ký tên làm kỷ niệm v…v. Nhưng hôm nay lại khác, chẳng thấy ma nào sáp lại mua, hỏi hang, chụp ảnh lưu niệm gì cả. Cả một dãy hàng bán DVD, CD ế ẩm, mọi người cứ đổ xô sang những gian hàng thực phẩm truyền thống mà thôi.

  

     Trong thời gian chờ khách đến mua hàng, cô Ca sỹ nầy nói với anh Ca sỹ kia năm sau bọn mình có hát Chèo hay hát Ca trù, ở dưới họ nhẩy cứ để họ nhẩy, thì may ra còn bán được những Vali DVD và CD nầy, còn bằng không bọn mình phải mướn máy bay chở ngược về Mỹ lần nữa.

 

Thủy Điền

21-12-2016

 

 

 

 

     59-Xuống Núi

 

     Trong buổi tiệc đám giỗ ông già vợ. Vô tình mấy lời nói chơi bỗng trở thành lời thấu cấy, lão tự dưng cầm đủa gắp cục chả thịt bỏ vào chén và thêm vào vài miếng đồ chua rồi ngồi ăn ngon lành. Khiến cả bàn trơ mắt nhìn lão, sao hôm nay lão trở ton một cách dễ dàng thế. Đang vui vẻ, tự dưng cả bàn trầm xuống. Lão bảo:

-Mọi người sao không ăn đi? Mà nhìn tôi gớm thế.

Hai thằng em vợ đứng dậy cản.

-Anh hai nầy, tụi em mới nói chơi thế mà anh đã tự ái rồi, thôi đi anh, đừng ăn thịt nữa. Lỡ có chuyện gì không tốt đâu anh.

-Mặc tôi, hai cậu cứ tự nhiên đi, chuyện của tôi, tôi biết, khỏi cản ngăn.

-Em lo cho anh thôi, tùy anh.

-Cám ơn hai cậu.

 

     Lão là người làng Hòa Hảo- quận Tân Châu- Châu Đốc nay là thị trấn Phú Mỹ- huyện Phú Tân- tỉnh An Giang. Đạo Hòa hảo, đã ăn chay trường từ thuở nhỏ và cả gia đình lão cũng thế. Trước đây lão đã có một đời vợ và được hai đứa con. Không may, năm Mậu thân 1968 giặc tràn về làng đốt nhà, bắn phá và vợ lão qua đời từ đó. Sau những năm ấy lão sống bằng nghề mua bán sỉ cá đồng, mỗi tuần lão đi thu gom rồi từ Châu đốc chở bằng ghe xuống Mỹ tho bỏ mối. Qua nhiều năm buôn bán, bà con thấy lão góa vợ, giỏi giang nên làm may cho lão một người phụ nữ đứng tuổi và lão đã lập gia đình lần thứ hai với người ấy.

 

     Tuy gọi là lão, nhưng lão còn trẻ, tuổi đời chỉ mới ba lăm. Đi đâu, làm gì lão cũng chỉ mặc bộ đồ nâu như thầy Sải ở chùa và búi tóc như đàn bà nên người ta quen miệng thường hay gọi là lão cho dễ và lão cũng chấp nhận lời gọi ấy.

 

     Năm nào cũng thế, mỗi lần có đám tiệc trong nhà hay dòng họ mọi người cũng đều nấu riêng cho lão vài món chay nho nhỏ để lão ăn, còn việc ăn uống hàng ngày là lão đều có vợ lo lấy, vì lão là người ăn chay trường. Bỗng dưng hôm nay lại khác, đang vào tiệc nhậu, ngon miệng ly ra, ly vào tự nhiên hai thằng em vợ lão hứng chí thốt lên mấy câu không hiểu vô tình hay cố ý “ Hôm nay đám giỗ ba lần thứ tư có mặt anh tham dự, nếu anh mà dám ăn cái đầu gà nầy em anh sẽ uống thế anh một xị ngay “. Lão vừa nghe xong, ngồi cười cười, rồi tự động gắp cục chả thịt và mấy miếng đồ chua bỏ vào chén ngồi ăn ngon lành, chẳng thèm đá động gì đến ai. Hai thằng em vợ trố mắt nhìn lão và cản ngăn. Lão bảo: Cứ để anh tự nhiên, lẽ ra anh phải ăn cái đầu gà mà hai cậu vừa tặng anh, nhưng anh không ăn vì sợ hai cậu phải gồng gánh hết một xị cùa anh thì mệt lắm, nên anh đành ăn tạm miếng chả thế thôi. Hai thằng em xanh mặt mà cũng chẳng có cách nào ngăn cản và cho rằng tất cả mọi chuyện xảy ra là do mình. Và, đặc biệt hơn là sau bữa đám giỗ nầy phải ăn nói thế nào để người chị cả của mình hiểu và thông cảm đây.

 

     Ngày hôm sau, hai thằng em vợ đích thân tới nhà lão xin lỗi về câu chuyện hôm qua, bước vào nhà hai thằng cứ thụt thò, thụt thò như ăn trộm, không biết lão và chị mình có phản ứng gì không. Nhưng không ngờ ! Lão ra mời vào, uống nước, nói ba điều, bốn chuyện. Hai thằng em xin lỗi lão lia lịa, nhưng lão gạt ngang và nói: Thú thật, từ ngày anh lấy chị của hai cậu làm vợ là anh đã có ý định xuống núi rồi. Nhưng không có cơ hội. Sẵn hôm qua hai cậu đã cho anh cơ hội ấy và anh phải cám ơn hai cậu nữa là khác.

-Rồi ba anh em đứng dậy, ôm nhau cười hì “Thế là anh hai đã xuống núi rồi phải không?

Vâng !

 

Thủy Điền

20-12-2016

 

    58-Quán Cà- Phê “Lạnh Lùng “

 

    Hôm nay, thứ sáu ngày 16 tháng 12 năm 2016 là ngày đánh dấu 36 năm tôi sang định cư tại đất Đức (Hồi ấy còn là Tây Đức). 36 năm trôi qua là một khoảng thời gian không phải ngắn, giữa thế kỷ 20 đổ về trước người ta cho là nửa đời người, còn bây giờ thì chưa tới. Con người bây giờ sống dai lắm. Bởi, những thức ăn đã được nghiên cứu, biến chế rất kỷ lưởng và nền y học càng ngày càng văn minh hiện đại. Tóm lại những ai sanh ra giữa thế kỷ 20 trở về sau thật là may mắn vô cùng. Có nghĩa là được tận hưởng kiếp người dài hơn.

  

   Xét lại thời gian qua với cá nhân tôi công bằng mà nói thì cũng chẳng được gì ngoài hai chữ “Tự do nho nhỏ “ Còn riêng người khác thì tôi không biết.

 

   Lắm lúc tôi suy nghĩ vì hoàn cảnh mà đi, ngoài ra ở xứ nầy nó cũng chẳng có hơn gì cái xứ sở nhược tiểu Việt nam đâu. Nó được ở chỗ là người ta biết cân bằng cuộc sống như: Về y tế , xã hội và kinh tế v…v. Nhưng ngược lại họ sử dụng con người như là cái máy không hơn, không kém. Còn ở ta về những mặt ấy thì yếu kém. Nhưng con người vẫn còn có ý nghĩa hơn.

  

   Nói về tự do cũng thế, cũng chưa hẳn hoàn toàn mọi mặt. Ở đâu cũng vậy, nếu một khi ta làm những gì khi luật pháp không cho phép thì ta cũng sẽ bị nghiêm phạt ngay, còn ta cứ tôn trọng thẳng đường làm đúng mọi việc, thử hỏi ai quở phạt mình. Bởi khi nói đến hai chữ tự do ta nên suy xét kỷ rồi hãy trách, nói. Ta đừng nhìn ở một khía cạnh nhỏ hay sự thù hắn mà so sánh, lên án chung đó là điều không nên.

  

   Thỉnh thoảng tôi cũng nghe nhiều người hơi vội, ca tụng xứ người một cách mù quáng, cực đoan mà vô tình trong khoảnh khắc bôi lọ một đất nước đã sinh ra ta và ta đã lớn lên từng ngày từ nơi ấy, khi hiện tại trong tay ta có một số vật chất khá khổng lồ và những vật chất ấy toàn là những món hàng trả góp hàng tháng cho ngân hàng. Và, khi ta không còn khả năng nữa, nó sẽ quây ngược về nhà ông chủ tiệm.

  

   Theo quan niệm của tôi thì khác, tôi đến đây không phải vì những vật chất ấy, những vật chất ấy trước năm 1986 thì khác còn bây giờ ở xứ mình thì ai cũng kiếm được cả, nó vẫy đầy ngoài đường, muốn kiếm được nó cần phải có sự thông minh tối thiểu thì được ngay, không cần phải sang xứ sở khác. Mà mục đích của tôi là học hỏi, thu nhặt những tinh hoa của xã hội văn minh, khoa học kỹ thuật tiến bộ mà đất nước ta chưa có hay còn lạc hậu, hầu mai nầy nếu có dịp trở về còn góp được phần nào vào công cuộc kiến thiết và xây dựng đất nước. Còn riêng những thứ vừa kể trên là những thứ ngoài da, không cần thiết.

 

    Nói chung qua 36 năm lưu lạc, xa quê hương, mượn xứ người sống tạm tôi tự cảm thấy mình là một con người bất hạnh chưa từng có. Mặc dù hiện tại những đứa con được sanh ra, lớn lên, học thành tài và có chỗ làm việc đàng hoàng, nhưng tôi vẫn thấy mình luôn bất hạnh, khi phải sống chung độn hằng ngày giữa một rừng người muôn màu sắc, ngôn ngữ và văn hóa khác nhau và sau giờ làm việc chỉ biết co rút trong nhà với 36 năm vẫn uống Cà-phê một mình, không bạn bè, thân thuộc và chỉ uống với bà chủ quán với cái quán có tên là “Quán Cà-phê Lạnh lùng “ mà bà chủ quán chính là bà vợ yêu quí của mình. Và, một điều đáng buồn hơn trong cuộc sống nhìn thấy những cảnh đời thật là chướng tai gay mắt khi .

     -Người bản xứ va chạm người bản xứ (Dường như được giải quyết công

      bằng và nhanh lẹ)        

-Người bản xứ va chạm với ta hay Ta va chạm người bản xứ  (Phần thắng đương nhiên sẽ nghiêng về người bản xứ nhiều hơn)

-Còn ta mà lỡ hay cố tình va chạm ta (Thì nên tự xử với nhau thì hay hơn đừng nhờ đến họ, mất thì giờ).

 

·        Quán Cà- Phê “Lạnh lùng” Mùa đông đứng ngoài lang cang uống Cà- Phê, hút thuốc

·        Ngồi uống Cà- Phê với vợ vào những buổi sáng mà bảo là quán Cà- Phê “ Lạnh lùng” Thì ngày mai nhịn luôn.

 

Thủy Điền

17-12-2016

 

 

57-Nhớ Ngày Giỗ Bố

 

Mùa hè vừa qua, tại thành phố Lyon nước Pháp. Sau hơn ba mươi năm cả gia đình được ngồi chung với nhau ăn bữa giỗ của ba thật là vui và hiếm có. Bởi, nhà năm anh em mà người thì ở Úc, người thì ở Mỹ, người thì ở Đức và người thì ở Pháp xa dịu vợi. Tuy nói năm anh em, nhưng thật ra đến bảy, một người chị cả còn ở Việt Nam và một người ở Đức đã qua đời. Số năm anh em còn lại cũng chẳng vẹn toàn, hiện có người đang là góa phụ. Nói chung gặp nhau bao nhiêu đây là cũng vui lắm rồi. Còn hơn trước ba mươi năm có ai gặp ai đâu.

  

   Buổi giỗ cúng ba mặc dầu không rình rang như ở quê nhà, nhưng nhờ mùa hè ấm áp nên mọi người xúm nhau nấu nướng, cúng vái xong và bày ra sau vườn rất là xom tụ. Tiếng người lớn, con nít hoà lẫn nhau vang dội khiến mấy gia đình người tây gần bên không khỏi ngạc nhiên. Trong buỗi tiệc dường như nghe tiếng cười nhiều hơn tiếng nói. người nầy kể chuyện bên tây người kia kể chuyện bên Mỹ tứ tả thật là vui nhộn.

  

    Riêng thằng út ít cười, ít kể, nhưng lâu lâu thốt ra một câu mà cả nhà phải đành ôm bụng. Cậu ta bảo:

  

    Hồi đó ba còn sống, ba đâu có bệnh gì đâu, sở dĩ ba chết là do tai nạn. Nhưng sau khi chết thì vài ba năm sau kể từ khi anh em mình đi vượt biên thì ba bắt đầu bị bệnh đường và cả má cũng thế. Rồi tự nhiên ngồi yên và không nói nữa. Khi cậu ta nói xong, mọi người nhìn hắn chăm chăm và nói. Cái thằng nầy ngày tuổi già đổi tánh, nói điên điên, khùng khùng không chịu nổi. Khi không bảo ba, má hiện giờ đang bị bệnh đường và còn bảo mỗi người phải mua một ít Đô la âm phủ đốt, gởi xuống để ông bà có tiền mà đi chữa bệnh. Thôi đi, đừng có điên quá đi cậu út ơi.

  

    Thấy mọi người có vẻ chống đối, cậu ta mở miệng bồi thêm. Tôi nói thế ai làm theo thì được phước còn không thì mang tội bất hiếu ráng mà chịu, sao nầy đừng trách tôi nhá.

   Mấy bà chị bực mình tấn công.

-         Mầy đừng có khùng quá đi út ơi.

-         Tôi không có khùng, tôi nói có chứng cớ đàng hoàng.

-         Chứng cớ gì mầy nói nghe coi.

-         Chính mấy chị, mấy anh vừa kể là ba mươi hai năm nay, mỗi lần tới giỗ ba, má là anh chị và cả tôi nữa đều ra chợ mua đường, bột về nấu chè cúng, vì cúng mặn thì không có thì giờ, hơn nữa bày biện ra cho thật nhiều mà chẳng có ai ăn, nên cúng chè cho tiện “Đúng không “ ? Thử hỏi ? Mỗi lần giỗ, năm người đều làm chè để cúng, số lượng nầy đem nhân cho ba mươi hai năm thì làm sao ba, má dưới trần tránh căn bệnh đường được. Bởi thế ngay bây giờ tôi yêu cầu Quí vị hãy mau mau mua Đô la âm phủ gởi lẹ xuống âm phủ ngay đi, bằng không ba, má sẽ qua qua đời lần hai đấy. Tội nầy lớn lắm nha.

 

    Vừa dứt lời, mọi người ngã nghiêng ôm bụng cười. Buổi tiệc vừa lắng đọng, bỗng trở nên ồn ào trở lại. Bà nầy nói bà kia, thằng nầy tào lao thật, nhưng nghe cũng có lý, thời buổi nầy ai cũng cử đường sợ bệnh, chính mình củng thế mà ngược lại mình cứ cho ba má mình ăn đường miết thì ổng bả bệnh là chuyện đương nhiên. Thôi, sau chuyến du lịch sang pháp nầy về tôi sẽ bắt đầu cúng mặn lại, ai cúng chè thì cúng đi, nghe thằng út kể tôi sợ vô cùng. Ừ chắc chị cũng làm như em. Ừ chắc em cũng làm như chị.

Tội nghiệp quá

      Ông bà đã ăn đường ba mươi mấy năm rồi

              thế nào cũng mang chứng bệnh đường vào người

                      giờ mau mau mua Đô la âm phủ

                              gởi hỏa tốc ngay

                                     Còn không sẽ mang tội bất hiếu…….!

 

 

Thủy Điền

14-12-2016

 

 

 

56-Lưỡi Câu

 

Lão trên đường về nhà vừa đi, vừa khóc, tay che lỗ mũi đầy máu. Bước và nhà lão ngồi qụy trước hàng ba, mặt hầm hầm như muốn trở lại để trả thù. Bà hỏi?

-Ông hôm nay sao thế.

-Tôi vừa bị ngã.

-Để tôi nấu nước sôi lau vết thương, ông chờ tôi một lát nhé.

-Thôi ! Khỏi cần, để tôi nghỉ một chút là hết ngay.

-Tùy ông, mà tôi cũng chẳng hiểu ông đi đứng thế nào để ra nông nỗi.

-Thì tôi say, tôi ngã là chuyện bình thường, mà bà có êm được không. Đàn bà lu bu thật.

 

    Xưa nay, bình thường khi chưa nhậu, lão rất đàng hoàng và hiền từ, trong làng cả đứa con nít cũng đều mến lão. Lão có bản tính hay giúp người trong những lúc khó khăn, hoạn nạn. Mặc dù bản thân và gia đình lão chẳng giàu có hơn ai. Chính từ chỗ lòng tốt ấy sau khi giúp được việc gì cho người khác, người ta hay thường đãi đùng lão nhậu gọi là trả ơn, trả nghĩa. Bước đầu mới vào nhậu lão nói năng thật chỉnh tề , lịch sự, đứng đắn lắm, nhưng khi vào chừng một xị là lão chuyển sang đề tài là móc họng người khác và lần nào cũng thế. Nhưng vì nể trọng lão là người có tuổi trong làng nên thiên hạ cười rồi bỏ qua. Riêng lão thì không nghĩ thế và là một thói quen, luôn cho những câu nói của mình là đúng. Trong số nhiều người nghe , có kẻ nhịn lão, có kẻ ba phải, có kẻ tự ái. Thế mà lão chẳng rút kinh nghiệm qua những lần bị cảnh cáo trước bàn nhậu,

 

   Một hôm trong làng có cái đám cưới thật to và lão cũng được danh dự mời đến. Thường thì người lớn tuổi chỉ đến khi nhập tiệc, đàng nầy vì có bản tính giúp người nên lão đến sớm vài hôm nào dựng rạp, hạ bò, hạ heo và có những ý kiến trong ngày lễ trọng đại nầy. Bởi thế, tiệc tùng nào dù nhỏ, lớn lão cũng mất độ vài ngày là giá chót, trong những lúc chuẩn bị cho cái đám cưới rất nhiều việc vừa làm, vừa nhậu vừa ăn khi  nhậu vào ba hột xỉn xỉn lão tự nhiên phát biểu mấy câu động trời , như bêu xấu cô dâu. Mặc dầu đây là chuyện có thật trong làng mà nhiều người biết đến, lẽ ra dù biết vậy, lịch sự lão phải êm hơi, để con cháu còn làm lại cuộc đời mà tiếp tục sống. Nhưng ngược lại lão không làm thế, lão hoặch tẹt tất cả đời tư cô dâu ra trước mặt mọi người rằng: “ Con Lắm nầy lang bang thấy mẹ, trước đây cặp cả chục thằng, ai mà không biết. Thế mà thăng Nhân còn đâm đầu vào xe lửa “ Anh em đứng gần bên bụm miệng lão không kịp, nháy mắt lia lịa sợ thằng Nhân nghe được là hỏng chuyện, nhưng lão không chịu êm cứ lằng nhằng nói mãi. Xui cho lão, thằng Nhân từ nhà dưới bước lên, nghe được, tức quá nhẩy vào đập cho lão một trận tơi bời và đuổi lão ra khỏi nhà. Lão vừa xỉn vừa ôm mặt khóc, máu me chảy đầy mặt ra về và với theo mấy câu: “Tao sẽ không để cho mầy yên đâu Nhân “

 

   Sau trận ấy, lão vừa bị thương, vừa mất cử nhậu đám cưới  lớn và còn bị bà nhà mắng thêm cho một trận tơi bời. Bởi, trong bụng lão lúc nào cũng có chứa một lưỡi câu thòng lọng, chuyên môn đi móc chuyện người khác.

 

Thủy Điền

12-12-2016

 

55-Qua Đám Cỏ Lau

 

Nhớ những năm còn trẻ, tuổi 16, 17 gì đó, còn đang học lớp 11. Cứ khoảng hai ba ngày là mẹ tôi hay khều khều hỏi nhỏ?

-         Tuấn nầy ! Bộ con có tình ý gì với con Lan sao ? Mà mẹ nhìn thấy con lẻo đẻo qua nhà nó suốt vậy.

-         Đâu có gì đâu mẹ, bạn bè học cùng trường, cúng lớp gặp nhau chia sẻ việc học hành hàng ngày vậy mà.

-         Nếu không có gì thì thôi, mà có gì cũng thôi nha Tuấn, con biết đó gia đình người ta giàu còn mình nghèo, lỡ có chuyện gì họ đền, mẹ chẳng biết lấy đâu ra mà đền cho người ta nha con.

-         Dạ, mà sao mẹ lo xa quá, con đã nói là không có chuyện gì kia mà.

-         Ờ thì mẹ nhắc chừng vậy đó, không thừa đâu con.

 

   Thật tình thì mẹ tôi là một bà mẹ quê như bao bà mẹ quê khác, thấy con lớn là muốn cho chúng có đôi, có bạn dựng vợ, gã chồng để có cuộc sống riêng như mọi người. Nhưng không phải khi con lớn lên muốn là được ngay. Nó còn phải tùy thuộc vào mọi thứ và hoàn cảnh khác nhau như: Giàu-nghèo, Danh vọng, Giai cấp v…v. Bởi thế vì sợ nên bà hay thường rào đón tôi trước khi bước chân vào tình và đời. Trong sự rào đón nầy nó cũng có cái tốt và cái xấu. Tốt là để bảo vệ danh dự gia đình đừng bị kẻ khác coi thường, xấu là sự cản trở vô lý khi hai người thật sự yêu nhau.

  

    Năm học lớp 9 rồi lớp 10 chung với Lan, tôi chưa bao giờ để ý và thấy nàng có những nét gì để mình quan tâm, mặc dù hàng ngày hai đứa vẫn kè kè bên nhau trong học tập. Nhưng khi sang lớp 11 được vài tháng tôi tự thấy nàng hiện lên trước mặt tôi một nét đẹp diệu kỳ mà tôi chưa bao giờ thấy trong những năm qua. Nàng như một bông hoa hồng nở đúng mùa, một màu hồng sặc sỡ. Nét đẹp ấy đã đập vào hồn tôi và tôi thốt lời yêu em từ dạo ấy. Hai chúng tôi yêu nhau trong mối tình trong trắng qua những lần ôn bài- làm bài mà bạn bè và thầy cô giáo cứ ngỡ chúng tôi là hai bạn thân như hồi lớp 9, lớp 10. Nhưng người tinh ý và phát hiện ra đầu tiên là mẹ tôi, chắc có lẻ bà luôn quan tâm như tôi đã kể phần trên “Lòng bà mẹ quê “ Còn riêng gia đình Lan thì tôi không rõ. Họ mặc nhiên để tôi đến và lờ đi khi thấy chúng tôi gần nhau. Tóm lại họ chẳng hề phản ứng hay chống đối, ngằn cản gì cả. Có lần tôi tò mò hỏi Lan để mà còn phòng thân. Nhưng Lan cũng thật tình trả lời là nàng cũng không hề biết.

  

     Thời gian- rồi thời gian chuyện tình yêu bắt đầu sâu đậm. Chúng tôi nghĩ ngợi xa hơn và tiến dần dần từng bước, hy vọng một ngày nào đó hai đứa sẽ mãi bên nhau và trở thành chồng vợ, sanh con, đẻ cái sống hạnh phúc trăm năm.

   Một hôm tôi nói với nàng bây giờ chúng ta đã tròn hai mươi tuổi, ai cũng có công việc làm mình tự sinh sống được. Thôi mỗi đứa phải về nói gia đình để chúng ta tiến đến hôn nhân, nàng ngoan ngoản nghe lời tôi về thuật lại tất cả cho gia đình nghe và bày tỏ ý định mình như thế. Hồi đầu họ ừ ừ hử hử, nhưng ba hôm sau họ từ khước ngay: Lý do gia đình tôi kém hơn họ mọi điều và cấm cản không cho nàng quan hệ với tôi nữa. Trong sự cấm cản và không đồng ý ấy, đương nhiên phải có tiếng khóc. Nhưng biết làm sao bây giờ khi người lớn đã đành lòng quyết định.

 

    Sau cơn ấy lòng tôi đau gần mấy tháng trời, hai căn nhà cách nhau không xa mà không sang thăm nàng được. Rồi mỗi đêm cứ thao thức, trằn trọc muốn đánh liều. Nhưng thôi vì thương nàng nên tôi để cho mọi chuyện được yên và trả nàng trở lại với gia đình sống một cuộc sống cách bình thường và hy vọng nay mai nàng sẽ gặp một tấm chồng khá khỉnh hơn tôi cho thỏa nguyện của gia đình. Và kể từ đó tôi luôn cho những lời của mẹ tôi ngày ấy là một chân lý, nó vẫn luôn theo tôi suốt cả cuộc đời nầy.

 

Thủy Điền

10-12-2016

 

 

 

 

 

 

54-Ao Súng Sau Nhà

 

 

   Đêm nào trước khi đi ngủ cũng trăn trở, ngày nào sau khi đi làm việc về, ăn cơm xong, cũng ngồi vò đầu, bứt tóc và tự bảo “ Thanh niên như mình thật là vô dụng “. Chỉ có một chuyện nhỏ, bỏ ra 70.000 đồng đi xe Bus tốc hành, mất ba tiếng đồng hồ một đoạn đường khoảng 150 cây số là về lại quê  nhà. Nơi đó sẽ gặp và nhìn lại tất cả những gì của thời niên thiếu. Thế mà, mấy năm nay vẫn không thực hiện được thật đáng trách vô cùng.

  

    Cách đây tám năm, kể từ ngày Tuấn lên Thành phố Hồ Chí Minh học Đại học Kỹ thuật Công nghiệp 3, thi đậu, ra trường và xin vào được một hãng chế tạo phụ tùng xe hơi của Đại hàn, rồi lập gia đình và ở luôn nơi ấy.

   

    Thỉnh thoảng có thời gian rảnh rổi như cuối tuần, nghỉ phép vài ba ngày Tuấn muốn đưa vợ con về thăm gia đình và quê nhà một chuyến. Vì kể từ lúc cưới nhau nàng chỉ biết quê chồng Đồng tháp có một lần rồi biệt tăm luôn. Nhưng mỗi khi chàng được nghỉ thì bè bạn hết thằng nầy, đến thằng khác cứ rủ ren kéo nhau đi nhậu, chơi bời cuối cùng mất hết cả thì giờ, mà lần nào cũng như lần nấy. Có những lúc chàng dứt khoát tư tưởng là không đi đâu hết phải dành số thời gian ấy trở lại quê nhà. Nói thì nói vậy vì tình bạn lâu nay chàng không đành lòng từ chối . Rồi cứ thế và cứ thế hết tuần nầy đến tuần khác, hết năm nầy đến năm kia chỉ về lại quê nhà trong mơ màng và nỗi nhớ.

  

     Ngỡ con bận rộn với công việc hàng ngày, nào vợ, nào con về không được, nên khoảng vài ba tháng là ba mẹ chàng thay phiên nhau cổng vác ít cây nhà lá vườn lên Thành phố thăm con thăm cháu một lần. Mỗi lần thấy cha mẹ lên thăm là chàng đều bảo “ Mai mốt con về “ Khi cha mẹ thăm xong, ra xe về lại Đồng tháp thì chàng lại quên mất câu hứa vừa thốt ra khỏi lòng mình. Thật tình thì lòng chàng rất nhớ quê hương vì nơi ấy là một chuỗi kỷ niệm dài của thời niên thiếu, nào là thả câu bắt cá, hái Súng, nhìn hoa, bẻ bông Điên điển về cho mẹ nấu canh, chiều chiều cùng đám bạn bè trong xóm tắm mát dưới trăng. Ôi ! Bao thứ kiểu làm sao mà quên được. Những nỗi nhớ ấy là bằng chứng đêm nào trong giấc ngủ chàng hay thường trăn trở , mơ màng và những buổi cơm chiều xong hay ngồi trầm tư mặc tưởng một lúc lâu thì mới chịu đứng dậy đi ra khỏi bàn. Nhưng rồi không biết thế nào, thời gian- lại nối tiếp thời gian, cha mẹ đến thăm, năm nầy qua đi, năm khác lại đến mà thấm thoát đã năm năm rồi chàng chưa bước chân về lại đất quê để nhìn ngắm những người thân, dòng họ, căn nhà ngói đỏ, những ao Súng rực hồng sau nhà nở hoa vào những mùa thu lạnh sau những ngày xa cách, mà nơi đó chàng được sinh ra và lớn lên từng ngày.

   

    Trong những đêm thức giấc ấy, điều đặc biệt là chàng luôn mơ tưởng đến những ao Súng quanh nhà, dù đi đâu, làm gì nó vẫn luôn trong ký ức của chàng. Nó thơ mộng và đẹp lắm, vừa nuôi sống cho cả cánh làng và chính gia đình chàng trong những ngày gian khó.

   Mỗi khi thèm món quê, đèo vợ ra chợ mua bó bông Súng về nấu mấm kho hay nấu canh chua như ngày xưa mẹ thường hay nấu, chàng nhìn và cầm lấy nó  là tự dưng dòng lệ cứ chảy dài….chảy dài dâng tràn…dâng tràn bao nỗi nhớ.

 

Thủy Điền

04-12-2016

   

 

 

 

 

53-Một Góc Nhìn Khách Quan

 

Thường ngày thì tôi hay đọc trang “Trăng Nguyên Thủy “ Của Trúc Thanh Tâm vì lâu nay tôi rất thích lối làm thơ của anh ta và thỉnh thoảng tôi cũng đọc lan qua các Tác giả khác. Tình cờ hôm nay tôi đọc được bài viết của Tác giả Phan Nam ở Đà Nẵng đang trên báo của anh và được ghi là thơ. Thú thật bài viết thì nội dung không có gì chê trách. Vì đó là ý nghĩ riêng của người viết ta cần phải tôn trọng. Nhưng khách quan mà nói bài viết ấy mà cho là thơ là không hợp lý hay nói cách khác là không đúng tiêu chuẩn, dẫu là bài thơ tự do lại càng xa dần với Văn học hơn.

   Sỏ dĩ tôi nói không hợp lý là ở chỗ nào:

1-    Thơ thì cũng như văn, nhưng đó được gói gọn lại. Nó đòi hỏi phải có nhập đề, thân đề và kết luận.

2-    Thơ là nền tảng của lời ca tiếng hát, bởi thế mỗi bài thơ cũng phải có vần điệu rõ ràng thì người đọc mới thuộc và hứng thú

3-    Thơ tự do cũng chẳng khác chi, tuy nó không theo đúng nguyên tắc như các thể thơ khác, nhưng ta không nên quá tùy tiện, muốn viết thế nào thì viết và cho nó là thơ.

Khi đọc bài viết dưới đây theo tôi đó không phải là một bài thơ (Và dù là bài thơ tự do) Mà ta tạm cho là bài tùy bút ngắn và xin nhắc lại rằng bài tùy bút nào cũng cần những điều tôi vừa nói ở phần một thì sẽ tốt hơn và người đọc sẽ thấy thoải mái hơn.

 Với lối thơ nầy tôi cũng đã thấy qua nhiều trang bạn. Tôi thiết nghĩ ta nên suy nghĩ lại và có nên tiếp tục cho nó là thơ tự do nữa hay không.

Thưa ông bạn nhà Thơ Phan Nam và Thi Sỹ Trúc Thanh Tâm.

   Qua những lời trên là góc nhìn khách quan của tôi thôi, ngoài ra tôi cũng chẳng phê bình hay có những ý gì khác mong các bạn hiểu cho.

 

Trân trọng

Thủy Điền

28-11-2016

 

NHỮNG NGÔI MỘ XẾP HÀNG

giả sử tôi sẽ tháo dỡ tấm bia
được chạm khắc bởi những người sống
sẽ chẳng biết ai là ai
ngoài lớp mặt nạ bị thời gian chôn vùi


tôi đang mơ về sự đáng thương của loài người sau chiếc hộp sọ hóa thạch
trừng trừng nằm lại
trừng trừng đi lên
bỏ mặc ngọn lửa thiêu đốt đồng tiền

người đưa tay vuốt cơn gió trở về
hình như ngôi mộ đang xếp hàng
kể về sự sống
đầy dẫy hỗn loạn

một bài thơ đã hóa tro tàn
một cuốn thơ đã hóa tàn tro
có thể người ta sẽ nhầm lẫn
tội ác có thật sự nằm dưới đám cỏ dại thi nhau mọc lên vô tội vạ

giả sử vô số khúc ca
đánh mất trật tự vốn có 
nỗi buồn tâm sự cùng hồn ma
bởi vì mộ không còn là ngôi mộ.


 PHAN NAM
( Đà Nẵng )

 

 

 

 

 

 

52- Dòng Sông Đã Cạn

 

   Đang ngồi ăn cơm chiều, bỗng dưng bà sáu buông đủa, báo mệt, không ăn nữa và đi thẳng vào buồng. Bà vừa đi vừa với theo mấy lời : Cha con ông ăn tiếp đi và con Quỳnh coi dọn dẹp hộ mẹ.

Dạ, mẹ cứ nghỉ đi, mọi chuyển để con lo và nói tiếp.

-Ba vào xem, coi mẹ thế nào.

-Không có gì đâu con, ba biết hết rồi, ăn tiếp đi, còn dọn dẹp và chuẩn bị đi ngủ nữa.

  

   Xưa nay gia đình ông bà đang sống ấm êm, con cái đứa nào cũng ngoan ngoản, vâng dạ, thứ bậc đoàng hoàng. Kể cả thằng Lang cũng vậy từ ngày lấy vợ, rồi ở riêng vẫn luôn luôn nghe lời cha mẹ, sớm tối chạy qua, chạy lại chăm sóc lẫn nhau như một dòng sông đầy thênh thang nước chảy, cả làng xóm ai cũng đều khen ngợi và bảo, hiếm có gia đình nào hạnh phúc như ông bà sáu.

 

   Tài sản ông bà để lại chỉ hai mẩu đất, ruộng lẫn vườn, nằm trong góc mấy đời nay đủ để nuôi bốn miệng ăn, nếu có mang bán đi thì cũng chẳng ai thèm mua, mà dẫu có mua thì cũng chẳng được bao nhiêu tiền, vì nơi đây rất là bất tiện, không đường bộ, không đường thủy muốn ra đến tận chợ thì rất xa. Mỗi lần bà sáu muốn bán một quả gì hay con gà, con vịt phải thức dậy thật sớm để mang ra chợ mới kịp, chưa kể, nếu những ngày nào gặp mưa thì lại vất vả trăm bề.

  

   Mới đây khoảng ba tháng ngoài, thằng Lang đi làm, nghe phong phanh Chính phủ sẽ có dự án phóng con lộ lớn ngang nhà ba má nó và sẽ đền bù với số tiền không ít. Chuyện thực hư thì chưa biết, bỗng dưng nó nghĩ ra, nghe đến tiền, nổi lòng tham hay nghe lời người ngoài về bắt ba mẹ nó làm giấy chia đất cho nó ngay. Nghe nó nói xong, ông bà thật bở ngở vô cùng, tự dưng thằng nầy hôm nay khùng lên và nói thế, mà ba chục năm nay nó chưa bao giờ dám hỗn xược với ông bà như vậy. Bước đầu ông bà mắng ngay, nhưng càng mắng, nó càng làm dữ lên đòi ra xã thưa kiện đủ thứ, vì nó là con một và đã lập gia đình, nó cần có một tài sản riêng để sống (Trong khi hiện tại nó là công nhân phòng Giao thông vận tải Huyện cả mấy năm nay có thiếu thốn chi đâu và tài sản nầy sau khi ông bà sáu trăm tuổi già đương nhiên cũng sẽ thuộc về nó, có cần chi phải chia sớt ngay bây giờ. Thấy nó làm to chuyện, bà sáu buồn và khóc suốt đêm, rồi thỉnh thoảng cùng ông nhẹ giọng khuyên nhủ nó. Nhưng nó không nghe và quyết liệt bắt chia bằng được số đất, để khi nhà nước đền bù nó sẽ ôm một mẻ tiền to. Còn nếu không chia ngay bây giờ nó sợ ông bà sáu sau nầy không chia phần đền bù cho nó. Bởi thế, dù ông bà mắng nhiết hay nhẹ giọng bao nhiêu nó vẫn bắt buộc phải chia đất cho nó còn bằng không nó sẽ ra xã làm rõ vấn đề.

 

    Cả tháng nay ngày nào nó đi làm về, cũng đều ghé qua, nhưng khác, so với những ngày trước, bằng những lời thăm hỏi ba mẹ có khỏe không hay mua vật nầy, vật nọ làm vui cho ông bà. Mà ngược lại chỉ một chủ đề là chia đất cho nó. Lúc trước thấy nó sang bà rất mừng, thấy con đi làm việc cực nhọc, có cái gì trong nhà bà đều muốn mang cho con ăn tất, còn bây giờ bà thấy nó là rất sợ và vội chiu vào buồng đóng cửa lại, rồi ngồi khóc một mình cứ than giản một câu “ Dòng sông đã cạn rồi “

 

Thủy Điền

02-12-2016

 

 

51-Biển Mặn

 

Sau chuyến nghỉ hè tại Vũng Tàu và những gì đã trải qua tại khách sạn “Biển Mặn “ Nhan đã chợt hiểu ra Linh không bao giờ yêu mình mà chỉ xem là tình bạn cao cả mà thôi. Rồi nàng bỗng dưng không khóc  nữa và càng kính trọng Linh hơn.

   Hai người gặp nhau trong trường hợp ngẩu nhiên của buổi tiệc Sinh nhật qua trung gian một người bạn cũ. Câu chuyện qua, lại rồi đường ai nấy đi ngỡ không bao giờ gặp lại, mà dẫu có gặp thì chắc cũng lâu lắm. Nhưng không ngờ! Năm ấy sau khi tốt nghiệp Cử nhân Linh tìm được việc làm tại một thành phố lớn. Phải nói khi đến đây đi làm và tìm một chỗ ở rất là khó khăn. Tình cờ một hôm chàng lang thang dạo phố thì gặp lại Nhan. Nhan đã làm việc và ở đây gần năm năm, gần như thổ địa xứ nầy, nàng quen rất nhiều nơi . Lúc đầu tìm chưa được nhà, Nhan nhã ý mời Linh về nhà nàng nghỉ tạm ít hôm rồi hãy tính, nhưng Linh từ chối và tạm ở chung với một người đồng nghiệp. Cũng may, đúng tuần sau Nhan đã tìm được một căn gác nhỏ tạm thời cho Linh cạnh nhà nàng. Những ngày đầu Nhan thường hay đến với  Linh, giúp chàng những chuyện lặt vặt, tâm sự  và thường rủ nhau đi ăn  vào những buổi chiều sau khi tan sở.

   Thời gian- rồi thời gian tình cảm càng ngày càng gắn bó, Nhan bắt đầu để ý yêu Linh, ngoài những giờ làm việc tại Công sở, nàng luôn dành hết số thời gian còn lại cho Linh, nàng xem Linh như cái gì của riêng mình không hơn, không kém và chính Linh cũng nhận thấy điều ấy nên càng thương nàng nhiều hơn. Thỉnh thoảng Linh cũng tự hỏi? Tự nhiên mình có một người con gái quí mến và thương yêu mình như thế. Tại sao? Mình không đón lấy và đáp lại tấm chân tình ấy. Nhưng nghĩ thì nghĩ vậy, chàng vẫn luôn thận trọng vì mình mới vừa đến đây. Qua những lần giao du chàng nhận ra Nhan cũng chưa có mối tình nào cả nên chàng cũng bắt đầu ngã lòng đôi chút.

   Cứ mỗi độ vào hạ, mọi người đều có một thời gian nghỉ nhất định, Nàng luôn chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ như: Địa điểm. Hotel, vé máy bay v…v để chàng và nàng cùng thụ hưởng, nghỉ ngơi sau những ngày làm việc mệt nhọc. Nhưng rất tiếc nàng hơi quá vội, lúc nào nàng cũng ngỡ chàng là của riêng mình, nên đôi lúc có những cử chỉ và hành động không phù hợp với chàng. Bởi thế, tình cảm chàng dành cho nàng chỉ là tình bạn bè cao cả còn tình yêu thì chàng tự cãn ngăn mình trong mọi tình huống. Thoạt đầu nàng cũng chưa rõ về chàng một cách chính chắn, nên đôi khi đã xảy ra những cuộc giận dỗi khá nghiêm trọng. Tuy, dù hoàn cảnh nào chàng cũng luôn giữ bình thản tránh mọi sự việc xấu dần thêm. Qua những cơn ấy, mọi việc đều trở lại bình thường, hai người bên nhau thân thiết như đôi tình nhân thật sự.

    Sau những lần thử thách và chung đụng. Linh xét nghĩ, mình nên tỉnh táo hơn. Đối với Linh chàng lúc nào cũng cho nàng là một người bạn tốt, khó kiếm trên cõi đời nầy và riêng tình yêu thì không thể nào được vì trong cuộc sống giữa chàng và nàng đều có những thế giới khác nhau. Chàng luôn bảo mình hãy dừng lại càng sớm càng tốt tránh hậu quả ngày mai kẻo mất cả hai.

   Tuy biết thế, nhưng nàng luôn đặt hy vọng ở chàng và tìm mọi cách để hai đứa được gần nhau, nhưng cuối cùng kết quả vẫn là con số cũ. Và mới đây nàng và chàng cùng đưa nhau ra Vũng Tàu nghỉ một tuần tại Hotel “Biển Mặn “ Nàng cũng tạo mọi điều kiện và hoàn cảnh thích hợp. Nhưng chàng vẫn lặng thinh trong tình ái và cứ xem nàng như ngày nào vừa mới quen nhau.

  Sau chuyến đi lần chót ấy nàng chợt nghĩ ra là chàng không yêu mình thật mà chỉ xem như người bạn thân thiết trong cuộc sống mà thôi. Thường thì mỗi lần chàng lạnh nhạt nàng hay âm thầm khóc và khóc đến khi nào chàng xin lỗi thì thôi. Nhưng hôm nay lại khác, khi nhận diện ra sự việc nàng không còn khóc nữa và luôn thầm bảo trong lòng “Linh thật quả là  người bạn tốt, một con người cao thượng, luôn giữ đúng tình bạn chân chính và Linh “Đáng được trân trọng trong cuộc sống của nàng.

-Trong im lặng

             tình bạn vẫn chảy trôi

                      một năm sau

                              nàng báo tin cho chàng biết

                                        nàng đã tìm được một tinh yêu mới và

                                                  nàng đi lấy chồng……!

- Chúc Nhan luôn hạnh phúc và chúng ta vẫn là những người bạn tốt như thuở ban đầu.

 

Thủy Điền

27-11-2016

 

 

 

 

 

50-Cảm Nghĩ khi Đọc Bài Thơ

 

                              CÒN GẶP NHAU
                                                            Tôn Nữ Hỷ Khương

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ vui 

Chuyện đời như nước chảy hoa trôi 

Lợi danh như bóng mây chìm nổi 

Chỉ có tình thương để lại đời

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ thương 

Tình người muôn thuở vẫn còn vương 

Chắt chiu một chút tình thương ấy 

Gửi khắp muôn phương, vạn nẻo đường

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ chơi 

Bao nhiêu thú vị ở trên đời 

Vui chơi trong ý tình cao nhã 

Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ cười 

Cho tình thêm thắm, ý thêm tươi 

Cho hương thêm ngát, đời thêm vị 

Cho đẹp lòng tất cả mọi người

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ chào 

Giữa miền đất rộng với trời cao 

Vui câu nhân nghĩa tròn sau trước 

Lấy chữ chân tình gửi tặng nhau

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ say 

Say tình, say nghĩa bấy lâu này 

Say thơ, say nhạc , say bè bạn 

Quên cả không gian lẫn tháng ngày

 

Còn gặp nhau thì hãy cứ đi 

Đi tìm chân lý, lẽ huyền vi 

An nhiên tự tại lòng thanh thản 

Đời sống tâm linh thật diệu kì.

 

Tôn Nữ Hỷ Khương

Quê nhà, tháng 8/2010

 

Tình thật thì tôi cũng như các Thi, Văn sỹ thường hay viết văn, làm thơ và cũng giống như Độc giả hay đọc những bài thơ, văn hàng ngày trên mạng hoặc các báo giấy v…v.

   Bỗng dưng lần nầy tình cờ tôi đọc được bài thơ rất hay của nhà Thơ Tôn Nữ Hỷ Khương với tựa đề “ Còn Gặp Nhau “ Và, bài thơ nầy cũng có một nhà văn khá nổi tiếng bình phẩm rồi.

   Riêng cá nhân tôi khi đọc bài thơ trên chẳng có lời bình phẩm gì cả mà chỉ có vài sự suy nghĩ nhỏ mà thôi. Nếu mọi suy nghĩ nầy đồng thuận với một ai đó thì tốt, còn không đồng thuận thì xin Quí vị thông cảm vì đây là sự suy nghĩ riêng của tôi và ai ai cũng có quyền sử dụng riêng sự suy nghĩ của mình, mặc dù sự suy nghĩ ấy đúng hay sai đó là vấn đề hậu xét.

  Bài thơ phải nói rất hay, Tác giả đi thẳng vào vấn đề trong cuộc sống, không quanh co, lời thơ mộc mạc ai đọc cũng hiểu cả (Đây là một ưu điểm của người làm thơ) bài thơ nghe rất tình người, có cái tâm rất lớn. Ý muốn con người dù ở hoàn cảnh nào đi nữa hãy nên xích lại gần nhau, thương nhau và thân thiện nhau hơn để cuộc sống càng trở nên tươi đẹp hơn. Đại khái bao nhiêu đó cho ta thấy Tác giả là con người như thế nào (Thật đáng khen và nên noi gương) Bên cạnh những lời nhắn nhủ ấy thật ý nghĩa và có giá trị cho đến mai sau.

   Nhưng rất tiếc đây chỉ là một bức họa mà thôi và bức họa nầy được hàng tỷ người trên thế giới luôn luôn ao ước. Chính tôi là người cũng từng ao ước cũng như muốn thực hiện những điều trên. Nhưng không bao giờ có và không bao được hay nói cách khác là (Không thành công)  dẫu có, đó chỉ là giả tạo mà thôi . Chúng ta phải hiểu rằng và phải hiểu thật rõ hai chữ “Con người “ Đã là con người thì không ai giống ai hết, sở dĩ xã hội còn tồn tại đến ngày nay là con người biết đặt ra những luật lệ nghiêm khắc lẫn nhau hầu tránh bớt những xáo trộn, bất công trong xã hội. Còn chuyện tự nguyện thì không bao giờ (Tôi dám khẳng định là như thế) Bởi chúng ta là người Phàm, không phải là Phật, chúng ta là con Chiên, không phải là Chúa Trời.

Phật, Chúa: Là đấng cao, công minh, nhân hậu, dị tha luôn ban phúc lành cho nhân loại.

Người Phàm: Còn lợi, danh hơn thua nhau nhiều quá hơn nữa bây giờ xã hội càng văn minh, tiến bộ sự chạy đua còn hơn là máy móc thì thử hỏi còn đâu mà vui, cười, chào, thương, chơi, say như Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương họa lên bằng bài thơ “Còn Gặp Nhau “:

   Nói thì nói, con người có lòng thiện tâm nào mà không ước mơ như thế, nhưng rất tiếc, một khi ta đã quá tin tưởng vào nó mà con người không hưởng ứng và làm ngược lại, vô tình ta bị tổn hại về tinh thần rất lớn và chính Tác giả là người gầy công ao ước lại càng đau xót hơn.

 

 

Cảm nghĩ khi đọc bài thơ

“ Còn Gặp Nhau “

 

Mới đọc nghe sướng tai

Thấy hay cứ đọc hoài

Cuối cùng suy nghĩ lại

Đời chẳng dễ vậy đâu

 

Mỗi ngày đọc trên báo

Mạng, giấy. Ôi ! Lung tung

Hơn thua nhau ì đùng

Tiền, tình đâm và chém

 

Lấy đâu ra mà thèm

Cười, vui, thương, say, chào

Ai sống , chết ra sao

Mặc đời, không vướng bận

 

Thương thay người thầm mộng

Mơ ước một tương lai

Thương thay người cầm bút

Chan chứa nỗi u hoài.

 

 

Thủy Điền

21-11-2016

 

 

 

 

49-Nhạt Nhòa

 

    Chú thiếm nó đang ngồi uống trà trước hiên nhà, bỗng thấy nó đi ngang qua cửa. Nó cấm cúi đi chẳng thèm ngó ai xung quanh cả, như đang vội vả. Chú nó với theo kêu to „ Hân. Đi đâu vội thế, rảnh không? Vào đây chú bảo tí. Nó vâng, cháu rảnh. Thế thì vào đây chú cháu mình tâm sự một chút nào. Nó vừa mở cổng vào. Chú nó bảo.

-Thôi mình vào trong nhà để tôi nói chuyện với thằng Hân một lát.

-Dạ.

*  *  *

-Hân nầy, cháu ngồi xuống uống với chú tách nước và nghe chú hỏi? Chú nghe Cậu cháu từ nước ngoài điện về phiền hà cháu nhiều lắm. Có đúng vậy không?

-Vâng, đúng thế, mấy ngày ngay ông ta điện về liên tục và trách cháu đủ điều, sau cú điện thoại hôm tuần trước mẹ cháu yêu cầu ông ta gởi tiền về sửa chữa lại ngôi mộ bà ngoại cháu.

-Rồi sao nữa?

-Ông ta chẳng những không đáp lại lời yêu cầu mà còn trách mẹ cháu và cháu lắm điều.

-Tại sao?

-Ông bảo chuyện có một chút không tự làm được sao mà phải nạnh hẹ gọi sang ngoại quốc làm phiền ông ta đủ thứ.

-Theo chú cậu cháu nói đúng, chuyện tí ti thì cháu nên làm, khi nào to lớn, cháu không có khả năng thì hãy cầu cứu đến họ thì hay hơn. Còn mỗi cái đều trút lên đầu họ, chú thấy gia đình cháu không nên làm thế. Như vậy mình mới biết tự trọng mình và người khác đó cháu.

-Nhưng ông ta là con trai của bà, ông ta phải có bổn phận chứ.

-Đó là cháu nói theo lý ở xứ mình, còn đàng nầy hai người ở cách xa nhau nửa trái đất, mà đặt vấn đề như vậy, chú thấy cháu nên xét lại.

-Thưa chú, chuyện nầy chú cháu mình sẽ trò chuyện thêm sau, còn bây giờ cháu phải đi vì có chút việc.

-Thôi được, nếu có việc thì cháu hãy đi, kẻo lỡ.

 

   Ngày ba nó bỏ mặc má con nó, khi nó vừa tám tháng, má nó chẳng nghề ngỗng gì cả, nên phải bồng nó về ở với ngoại. Hàng ngày ngoại nó đút nó từng muỗng cơm, cho nó uống từng giọt sữa và thế mẹ nó một phần cho đến ngày nó lớn khôn. Đêm nó bệnh, nó khóc bà phải thức sáng đêm dỗ dành nó, để mẹ nó được ngủ yên.

 

    Cuộc đời của nó xem như mồ côi cha từ thuở nhỏ, tưởng đâu khi lớn lên nó sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống vì thiếu tình thương của cha. Nhưng may thay, năm 80 hai cậu nó đi vượt biên và hiện ở nước ngoài, dì út nó thì có chồng tương đối khá giả. Căn nhà chỉ còn lại bà ngoại, nó và mẹ nó. Bởi thế, bà xem nó vừa là cháu, vừa là con nên tất cả tình cảm và mọi thứ bà đều dành hết cho nó. Và, chính nó cũng thấy điều đó và thương bà còn hơn thương chính bản thân mình. Đến nổi năm 1985 hai cậu nó lãnh bà ngoại nó sang ngoại quốc với diện đoàn tụ gia đình (Cơ hội tốt cho bà lúc tuổi già) Mà bà không chịu đi cũng chính vì thương nó mà ở lại cùng chịu cuộc sống nghèo nàn và bệnh tật.

 

    Năm 1996 sau cơn bệnh trầm trọng, ngoại nó qua đời. Cậu nó về làm lễ an táng, xây mộ cho bà đàng hoàng, xong rồi đi. Kể từ đó những tài sản của bà như: Ngôi nhà, miếng đất là thuộc về mẹ nó và xem như của nó sau nầy. Vì hai cậu và dì nó đã ký trước pháp luật là hiến dâng cho mẹ nó. Vậy nhiệm vụ của nó còn lại là gì: Chăm sóc, và giữ gìn để tận hưởng trọn cuộc đời và nhường lại cho con cháu mai sau. Thế mà nó cũng chẳng chịu làm chứ không phải không làm được. Thật là đáng trách.

 

     Mới mấy ngày nay, mộ của ngoại nó tróc mấy miếng Xi măng ở vòng ngôi mộ, công việc chỉ mua bao Xi măng chục ký, hai chục ngàn bạc về tra trét lại là xong. Mà nó vẫn không làm, trong khi mỗi ngày nó bỏ tiền ra mua năm chục ngàn đống vé số để trở thành tỷ phú. Nhưng tỷ phú đâu không thấy, chỉ thấy năm tờ vé số nằm trong sọt rác và bên cạnh gọi điện cho cậu là gởi tiền về sửa chữa mộ cho ngoại thật khó hiểu vô cùng.

  

    Thật sự là chuyện ấy là bổn phận của hai cậu nó, nhưng xét cho cùng cũng tùy hoàn cảnh và sự việc nên chú nó nhiều lần khuyên răn, nhắc nhở. Thế mà nó không nghe. Và, ngôi mộ của bà càng ngày càng nứt nẻ thêm . Có lẽ ! Dưới mộ sâu chắc bà đang rưng rưng nước mắt……..!

 

Thủy Điền

15-11-2016

 

 

48-Vườn Trầu Nhà Ngoại

 

    Vừa mở cửa ngõ, bước vào, tay xách, vai mang, chợt nhìn thấy ngoại tôi đang mân mê chiếc lá trầu xanh trong thật là tuyệt đẹp như một bức ảnh thiên nhiên đang hiện trước mặt mình.

-Bỏ giỏ xách xuống đất, thưa ngoại cháu mới về.

-Ô ! Cái thằng Chó con, lâu dữ mới thấy mầy về thăm ngoại. Rồi choàng tay ôm chặt thân tôi, rưng rưng nước mắt.

-Ngoại khoẻ hả ngoại?

-Ờ, ngoại vẫn khỏe, thôi bà cháu mình vào nhà đi. Đi cháu, đi cháu.

-Dạ ! Nhìn bà ứa lệ mà lòng tôi không khỏi xót xa.

 

    Bước vào nhà chưa kịp hỏi câu nào, bà lăng xăng đi nấu ấm nước trước đã như đang tiếp một người khách lạ. Tôi với theo và nói.

-Thôi được rồi ngoại, con cháu trong nhà chừng nào khát thì uống, ngoại để yên cho cháu, lát nữa cháu sẽ nấu thế bà.

-Mẹ cháu và các em có khỏe không?

-Dạ, tất cả đều khỏe cả. Còn ngoại dạo nầy ra sao?

-Bà thì rề rề vậy đó, khỏe thì không khỏe, bệnh thì không bệnh, tuổi già mà cháu, thôi vậy bà cũng mừng rồi. Lâu rồi bà cũng muốn lên thăm gia đình cháu, nhưng rồi tính tới, tính lui mà có đi được đâu, ku ki một mình, vườn cau, vườn trầu cũng chiếm hết ngày rồi cháu ạ. Nay cháu về thăm bà, bà mừng và vui lắm, các cháu bây giờ lớn cả rồi, đứa nào về thăm bà được lúc nào bà mừng lúc nấy. Bà biết bây giờ ai ai cũng bận rộn cả.

-Hằng ngày ngoại thường hay làm gì ngoài việc ăn uống, nghỉ ngơi?

-Thì quanh quẩn bên liếp cau, luống trầu. Ngoài ra già yếu đâu có làm gì thêm được đâu cháu. Trầu thì bà tự hái và xếp lại thành chục bày ra trước cổng nhà để bán cho những người trong xóm. Riêng Cau thì bà mướn mấy đứa trẻ hàng xóm leo hái hộ rồi cắt gọn gàng làm sạch sẽ và mang ra chợ Huyện bán, bao nhiêu đó cũng đủ quần quật cả ngày và nó là mầm sống  hàng ngày đó cháu, đồng thời nó cũng là người bạn tri kỷ, quý mến hai buổi sáng chiều bên cạnh bà. Trầu xanh lá, cau trổ đầy quày là niềm vui sướng vô biên của bà sau những giây phút làm việc vất vả, mệt nhọc.

 

   Lâu rồi vì bận việc, không trở về quê thường để thăm ngoại. Lần nầy về thấy bà khỏe ra nhiều, nghe bà kể sự sinh hoạt hằng ngày, nhìn thực thế mới thấu hiểu được tình ngoại đối với luống cau, liếp trầu thật là cao cả. Mỗi sáng sớm bà mút từng thùng nước giếng để tưới, nhổ từng cọng cỏ, bắt từng con sâu, nâng niu lá trầu thật là kỷ lưởng, bà thương nó hơn cả thân mình. Vì nó vừa xinh đẹp, vừa là bạn an ủi lúc tuổi già và là mầm sống của bà trong những ngày còn lại của cuộc đời.

 

   Về quê được một tuần ngày nào sáng sớm, trưa, chiều cũng đều thấy bà ra vườn đi tới, đi lui như thì thầm với cây, với lá trong rất huyền bí. Mỗi khi có cây trầu, cây cau nào xấu số bị sâu phá và cắn chết. Cầm cái búa đốn, cầm cá cuốc, cuốc bỏ đi là dường như bà rưng rưng nước mắt, cảm giác như mất đi cái gì gần cạnh bên mình trông thật cảm động vô cùng.

 

 

   Cây cau, cây trầu. Tuy, là loại cây như bao loài cây khác đơn sơ, mộc mạc, nhưng nó khá đặc biệt và có ý nghĩa trong cuộc sống bình dị của chúng ta như : Khơi đầu câu chuyện, Đám cưới, đám hỏi và là món ăn truyền thống cũa người phụ nữ Việt Nam nói riêng và một vài nước châu á nói chung như: Tích Lan và Ấn độ. Ngoài ra, nó còn là câu chuyện cổ tích, niềm vui thích của người trồng lúc tuổi già, vừa đẹp xinh, vừa nhận được những huê lợi nho nhỏ hàng ngày giống như ngoại tôi ngần chục năm nay khi ông mất bà chỉ một mình lây lất với nó, thế mà ngày nào bà cũng có gạo ăn và không cần đến sự tiếp tay của người khác.

  

Thủy Điền

12-11-2016

 

 

 

 

 

 

47-Đám Tang Trong Cơn Lũ

 

 

   Vừa chôn tạm bà vợ nơi phần đất gò còn lại. Ông Ngạn và hai người em trai ngổi bên cạnh gốc cây me cổ thụ vừa nghỉ tay, vừa than thở „Thật cái số chị dâu của hai chú thật là bạt vận, chết mà cũng chẳng yên, chết mà không đất chôn, chết mà không người đưa tiễn „ Khi nói xong ông bật ngã người ra khóc ngất giữa một vùng trời trắng xóa, xung quanh toàn là nước.

 

   Đầu tháng 11 cơn bão số 7 bắt đầu kéo đến, vây hãm cả phần xương sống miền trung, cũng là lúc bà Ngạn đã qua đời sau cơn bệnh ác tính dài hạn. Biết bão kéo đến, cả làng lo đùm túm chạy lũ, gia đình ông cũng thế. Nhưng vì bà qua đời ông chỉ để các con ra đi và ông đành ở lại với bà cùng hai người em trai ruột. Ngỡ cơn bão dài ba ngày sẽ qua đi và chôn cất bà. Nhưng mưa càng lúc càng nhiều, nước càng lúc càng dâng cao khủng khiếp, trong ngôi nhà không còn chỗ nào đễ bà nương tựa và cuối cùng ông và hai người em phải đành thả bà theo dòng nước và lần tìm đến nơi nào còn đất sẽ chôn tạm bà và sau khi nước rút sẽ đem bà về lại quê hương.

 

   Trời càng lúc càng mưa to- nước dâng cao ba anh em dìu chiếc hòm lang thang trên sóng nước mà chẳng thấy đất đâu để cho bà tạm nghỉ. Suốt một ngày, một đêm vật lộn với bão gió, mưa to và cuối cùng trời cũng thương , ông đã tìm thấy ở làng khác một cây me to còn lại bên gò đất cao và ông tạm dừng rồi đặt bà nằm nghỉ nơi đó. Ông miệng luôn vái trời, vái đất nước đừng dâng nữa để cho bà được yên thân còn cứ tiếp tục, có lẻ. Ba anh em ông lẫn bà đêm nay sẽ trôi ra sông ra biển và người thân sau cơn bão trở lại quê nhà chẳng biết đâu mà tìm.

 

   Chiếc hòm được ông chôn phân nửa và còn trơ lại phân nửa không nhang đèn, không tiếng khóc, không một lời đưa tiễn thật lạnh nhạt vô cùng như sóng nước xung quanh.

 

   Nấp dưới tàng me già mà tai cứ nghe ầm ì đè lên trên vầng trán, xa xa những đám mây đen cứ dồn dập tấn công báo hiệu những cơn mưa mới sắp hoành hành trên mảnh đất còn lại nầy thật là vô cùng khắc nghiệt.

 

   Những ngày lênh đênh trên sóng nước, ông cố giữ bình tĩnh để lo cho bà đến nơi an nghỉ cuối cùng, ông chưa một lần rơi nước mắt. Nhưng hôm nay sau khi chôn cất bà xong, ông khóc thật nhiều, hai chú em của ông không tài nào cãn nỗi. Ông la hét giữa trời thật to như xót thương số phận của con người, xót thương tình vợ. Miệng ông cứ la to „Hỡi trời cao có thấy, chết mà chẳng đất chôn, chết mà không tiếng khóc, chết mà không nhang khói, chết mà chẳng một người đưa tiễn „ (Hỡi, hỡi trời có thấu cho chăng):

 

   Sau cơn dằn vặt ấy, ai ai cũng hy vọng mỏng manh ngày mai cơn bão sẽ lùi đi và những cơn mưa sẽ tắt dần và bà sẽ được về lại miếng đất thân yêu cạnh nhà gần ông bà, chồng con, thân thuộc. Nhưng mãi đến ngày hôm nay những cơn mưa, cơn bão cứ liên tục kéo dài như thác đổ, ông tay luôn ôm chặt hòm bà trong mệt mỏi và khóc ngất suốt đêm thâu………………….!

 

Thủy Điền

10-11-2016

 

 

 

 

 

 

 

46-Chuyến Đò Chiều

 

 

    Thấm thoát chỉ còn mấy ngày nữa là tôi đã ba mươi tuổi. Giờ là cô giáo cấp 2 của một trường tỉnh, có gia đình, hai con đứa lên năm và đứa lên ba. Mỗi ngày trước khi vào lớp dạy, tôi đưa chúng sang lớp mẫu giáo và trường cơ sở gần bên. Nhìn chúng được mẹ hay cha mỗi ngày đèo trên chiếc Hon- da đi và về, tôi vui mừng cho chúng và thương cho cuộc đời tôi ngày xưa sao mà vất cả vô vàn. Sáng nào cũng phải quá giang mấy đò hàng xóm đi bán hàng, chiều phải đợi chuyến đò cuối mới được sang sông và về đến nhà. Thế mà bây giờ còn làm được cô giáo. Và, chúng nay mai có lẻ sẽ được hơn tôi gấp bội lần.

  

     Năm 11 tuổi tôi thi đổ vào một trường công ở quận cách nhà tôi một con sông khá lớn, năm đầu học lớp sáu, cha tôi còn khỏe, khi nghe tôi được vào trường công ông vui mừng và thương tôi lắm, ngày nào ông cũng đưa và đón tôi đi học một cách đều đặn mà không hề một lời than giản và ông dự định sẽ đưa tôi suốt cuộc hành trình mãi đến khi nào tôi qua bậc trung học thì thôi. Nhưng không may, đến năm lớp bảy cha tôi ngã bệnh, cơn bệnh tai biến đã làm cho cơ thể ông bị tê liệt nhiều bộ phận nên ông không thể tiếp tục cuộc hành trình đưa đón nữa. Sau cơn ấy tưởng như sự nghiệp học tập của tôi coi như chấm hết. Mẹ tôi tuy còn khỏe, nhưng bà còn phải bận rộn nhiều việc nhà lắm hơn nữa bà không thể chèo đò hàng ngày như cha tôi được. Nằm trên giường bệnh mỗi ngày nhìn tôi đi qua, đi lại mà nước mắt ông cứ mãi lưng tròng. Tôi tuy còn nhỏ, nhưng chấp nhận số phận của mình và không thể nào làm khác hơn được. Trong hoàn cảnh ấy, tôi phải đành ở nhà và ngưng học hết một năm và có lẻ suốt cả đời nầy.

  

     Nhìn con ham học, cứ lấy những quyển vở cũ ra nhồi đi, nhồi lại đến thuộc lòng, mẹ tôi chịu không nỗi phải đành lâng la vài ba nhà hàng xóm xin cho tôi quá giang qua sông vào lúc sáng sớm và chiều phải đợi đò về. Vì đò ở quê tôi khởi hành sang sông rất trễ và mỗi ngày chỉ hai lần mà thôi. May quá, sau những lần nhờ vả họ đều ưng thuận. Thế là tôi được đi học trở lại. Những ngày tháng ấy tôi xem việc học rất quí, một phần vì ham học, một phần vì thấy hoàn cảnh đi lại rất khó khăn nên buộc tôi phải cố gắng và cố gắng hết mình. Nhưng cái gì cũng qua đi và tôi đã đậu tú tài toàn phần rồi bước vào ngưởng cửa trường Sư Phạm và trở thành Cô giáo. Mộng ước của tôi là được trở về quê nhà dạy dỗ, truyền bá kiến thức lại cho những đàn em, cháu sau nầy để chúng khỏi phải vất vả như tôi trong những ngày xa xưa ấy. Nhưng mộng ước cao vời đã tan vỡ và người ta đã phân công tôi đi tận mút phương trời.

  

    Ngày qua ngày đi dạy, có gia đình, sanh con đẻ cái, nhìn xã hội càng ngày càng phát triển, thôn quê đã có cầu qua sông, thành phố có xe Bus, tư nhân có Hon-da thậm chí những nhà giàu có họ đưa con đi học bằng xe hơi lòng tôi thấy mừng vô hạn, không như tôi ngày xưa phải vất vả vô cùng và luôn cầu mong cho những đứa trẻ nầy sớm học thành tài đồng thời là những người có ích cho xã hội mai sau.

 

Thủy Điền

02-11-2016

 

 

 

 

45-Hiểu Lầm

 

Một chiều mùa hạ 1980.

 

    Sau khi tan học và cũng là ngày cuối tuần, tôi có rủ cô bạn gái học chung cùng khóa người Quảng Nam về nhà tôi chơi, nhà tôi thì gần trường còn cô thì ở tận miền trung xa xôi. Vừa về đến nhà, mẹ tôi rất mừng rỡ vì thấy con mình bây giờ cũng có đôi, có bạn như người ta. Cô thì đẹp gái, nói năng nhỏ nhẹ nên mẹ tôi có vẻ thích lắm, đến nổi trong nhà có món gì ngon, quí bà đều mang ra mời cô ăn. Tôi vui mừng và hãnh diện lây gì cô được mọi người đón tiếp một cách nồng hậu. Khi trời vừa sụp tối, là lúc mọi người bắt đầu đi ngũ. Cô hỏi tôi ? Anh Mèo ơi, anh Mèo, tối nay mình ngoẻo  ở đâu. Vô Tình mẹ tôi ngồi gần đó nghe được, bà rất tức giận, vì tôi tên là Màu mà tại sao cô gọi tôi là anh Mèo và đi ngoẻo. Thú thật thì những câu hỏi hay gọi tên tôi, tôi nghe hàng ngày nơi trường lớp và cũng quen đi, hồi đầu, có lúc tôi cũng giận và tự ái vô cùng. Nhưng giọng của cô ta là như thế không thể nào sửa khác lại được, nếu không muốn nghe nữa bằng cách là xù cô ta thì mới thoát khỏi được, đàng nầy ngược lại càng lúc tôi càng gần cô hơn và thích nghe những lời trọ trẹ dịu êm. Vừa nghe cô nói xong, bà gọi tôi vào ngay. Tôi hỏi ? Có chi đấy mẹ. Bà bảo.

-Ngày mai mầy làm ơn, làm phước dẫn con nhỏ nầy đi cho khuất mắt tao, tao không muốn nó gọi mầy với cái tên thú vật như vậy và những lời trù ẻo mầy trước mặt tao.

-Tôi biết tính mẹ tôi nên vâng vâng , dạ dạ cho êm xuôi.

 

    Trước phòng khách tôi nhìn bà ngồi với khuôn mặt khó chịu vô cùng. Cô hỏi tôi có chuyện gì xả ra? Tôi bảo không có gì và dặn cô có hỏi tôi thì nên hỏi nhỏ, chứ ban đêm nói lớn tiếng mẹ tôi rầy vì tính bà xưa nay như thế. Cô gật đầu và làm theo ý tôi.

 

   Năm 1977 tôi thi đậu vào trường Thủy lợi và cô cũng thế, chúng tôi học chung được một năm và bắt đầu quen nhau. Những lần đầu quen nhau, hò hẹn những lời tôi nói ra dường như cái gì cô cũng nghe rõ và hiểu cả, nhưng riêng đến bận tôi, cô nói tôi chẳng hiểu cô muốn nói gì, cứ gật đầu vâng vâng cho qua lệ, vì sợ cô giận. Nhưng rồi ngày tháng cũng quen và hiểu dần nên tôi càng thấy thương cô nhiều. Có lần cô hát cho tôi nghe bài hát mà tôi quên tựa là gì (Bởi lâu quá) Và chỉ còn nhớ câu „Không có en bầu trời như không có nén „ Cô hỏi tôi? Cô hát hay không, tôi ừ ừ, hay lắm, nhưng thầm trong bụng hay cái gì mà hay, người ta hát „Không có em bầu trời như không có nắng“ Ai nào en với nén là cái gì. Nói là nói vậy, lòng tôi vẫn yêu cô vì cô có một nhan sắc khá khỉnh và giọng nói dễ thương, êm dịu. Mấy người bạn tôi hay trêu „ Anh Mèo ơi anh Mèo, em bảo anh en, nếu anh không en em tắt cái đèn đi ngoẻo, tối lỡ có đói đừng mén em nhé. Tôi chỉ cười và chấp nhận thương đau.

 

   Năm thứ ba là năm học cuối cùng, tôi và cô tính chuyện lâu dài, nên tôi mời cô về nhà tôi để cho mẹ và các em tôi làm quen, biết mặt. Hy vọng mọi người sẽ chấp nhận tình yêu của chúng tôi. Và, có thể tôi và cô sẽ tiến xa thêm bước nữa. Ai ngờ! Chỉ một lời nói, sự hiểu lầm mà mẹ tôi đã khướt từ và nghĩ xấu về cô thật là đáng tiếc. Thời gian- nối tiếp thời gian đến ngày ra trường, cô về quê, tôi cũng về quê và từ đó đường ai nấy đi cho đến hôm nay mà không một lời từ giả.

 

Thương tôi, thương phận má hồng

Vô duyên số kiếp nên đành xa nhau

Bao năm thề nguyện bền lâu

Khi xa mà chẳng một câu giả từ.

 

THỦY ĐIỀN

01-10-2016

 

 

 

 

44-Cuộc Triệt Thoái Tài Tình Của Trung Tá Hubert

 

    Trong buổi tiệc sinh nhật người bạn đồng khóa đó là Thiếu tá Robert, vị Tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn bộ binh. Trong lúc giải lao Đại úy Borchert (Tiểu đoàn phó Dù) tìm đến người bạn cũ là Trung tá Hubert, (Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn TQLC) hai người cùng tâm sự.

Borchert hỏi ?

Nầy Hubert, số ông tốt lắm đấy, mới 28 tuổi như chúng tôi, học cùng một khóa mà mang hơn hai cấp là gác rồi đó nhá bạn. Nhưng nói thế thôi với tình bạn tôi chúc mừng Hubert và quân đội tôi rất kính phục Ngài.

Hubert nói.

    Có gì mà chúc mừng, có gì mà kính phục, chúng ta vẫn là chúng ta như ngày nào nơi quân trường có thấy vui hơn không.

 

     Một ngày mùa đông, khi một tiểu đoàn Thủy quân lục chiến do Thiếu tá Nobert chỉ huy gần 500 chiến sỹ tái chiếm căn cứ Delta do địch quân chiếm đóng hơn một tháng trời mà không sao lấy lại được. Cuộc hành quân trực thăng vận có phi, pháo yểm trợ chỉ trong vòng một ngày một đêm là tiểu đoàn TQLC của Nobert làm chủ tình hình và quân địch phải rút lui ngay trong đêm ấy. Cuộc hành quân đổ bộ nầy bị thiệt hại rất nặng nề, lớp bị thương và chết gần một đại đội trong đó có vị Đại đội trưởng tử thương. Thiếu tá Nobert cho chỉnh đốn lại hàng ngủ và lập phòng tuyến vững chắc hầu đối phó với quân địch khi cần thiết. Sau cuộc đổ bộ chiếm lại căn cứ Delta được một tuần thì địch quân lại bắt đầu nã vào những trận pháo kinh hoàng và bao vây chặt căn cứ Delta. Thiếu tá Nobert gọi về bộ chỉ huy Lữ đoàn xin yểm trợ, nhưng vô hiệu hóa vì quân địch hiện bố trí rất vững chắc và có những phòng không loại tối ưu để triệt hạ phi cơ. Bởi thế quân trú phòng bị tê liệt. Cuộc bao vây kéo dài hơn hai tháng dài, lương thực không được tiếp tế cả tiểu đoàn TQLC gặp khó khăn, hơn nữa hàng ngày phải hứng chịu gần 200 quả pháo các loại. Ngày 27- 8 trong lúc họp bàn kế hoặch rút quân, không may một quả pháo rơi vào hầm chỉ huy và Thiếu tá Nobert đã hy sinh số Sĩ quan còn lại bị thương rất nặng mà không tải thương về bệnh viện được. Kết quả cuối cùng có một vài vị Sĩ quan không đáng chết mà phải đành chết vì không đủ phương tiện cứu chữa. Càng ngày, càng lúc tình hình bị siết chặt, cấp chỉ huy tiểu đoàn không còn nữa quân lính chao động. Vị Sĩ quan Đại đội trưởng lên thay Nobert xin cầu cứu. Lúc nầy Bộ tư lệnh TQLC ra tay và kêu gọi ba vị Sĩ quan cấp tá tình nguyện nhẩy vào căn cứ Delta, trong ba vị nầy có Thiếu tá Hubert đang chỉ huy một tiểu đoàn TQLC khác cùng tham gia. Sau 125 ngày bị vây hảm, bỗng dưng trên bầu trời Delta có một chiếc trực thăng bay rất nhanh vả thả năm người lính xuống Delta. Các chiến sĩ mừng rỡ, ngỡ  có người đến tiếp cứu. Khi thấy chiếc trực thăng bay tới, những trận pháo của địch quân các loại cũng bay ào đến và cuối cùng chết hết hai vị Sĩ quan cấp tá và chỉ còn Hubert mà thôi.

Anh chạy bán sống, bán chết vào hầm trú ẩn may mà không có chuyện gì xảy ra. Vừa vào hầm nghỉ mệt xong, Hubert cho họp ngay ban chỉ huy còn lại và lập kế hoặch rút quân.

 

   Cuộc triệt thoái của Hubert diễn tiến như sau:

Ông ra lệnh không được bắn trả lại quân địch dù thấy chúng sát gần. Ông cho đào hai địa đạo từ hàng rào ra khỏi căn cứ  chừng năm chục mét, khi rút quân phải đi đường điạ đạo mà ra, không được đi trên mặt đất và khi ra khỏi địa đạo cứ nhắm thẳng vào Căn cứ mà bắn, không được bắn địch nhằm mục địch đánh lạc hướng, như căn cứ đang bị tấn công mà quân bao vây cứ ngỡ là quân bạn đang tấn công, thừa cơ hội rút thật nhanh ra khỏi căn cứ. Trước khi rút quân Hubert tạo một trận giả trong căn cứ rồi mới rút. Bên cạnh cuộc rút quân ông có sẵn một trung đội được trang bị toàn súng M79 bắn xối xả vào căn cứ. Nhờ những cuộc tấn công giả vào căn cứ mà Bộ chỉ huy quân địch bị náo loạn chẳng biết phe nào (Mà tại sao tấn công vào căn cứ) Ngược lại nếu quân trú phòng sao chúng không bắn chống trả lại. Thời gian- kéo dài thời gian số quân còn lại gẩn ba trăm người theo địa đạo ra khỏi căn cứ một cách dễ dàng. Khi ra khỏi gần một cây số chúng biết được kế hoặch quân trú phòng và rượt theo. Lúc bấy giờ Hubert đã liên lạc được quân bạn và phi pháo yễm trợ và quây ngược lại tổ chức tấn công. Kết quả quân địch bị thiệt hại rất nặng nề do phi cơ yễm trợ  bắn phá và pháo binh của quân ta từ xa bắn tới. Khi về được đến nơi an toàn thì quân ta thiệt hại gần một trung đội về phía sau vì nhiệm vụ của họ là tổ chức tấn công giả vào căn cứ Delta.

 

  Sau cuộc triệt thoái thành công, chính cá nhân vị Tư lệnh Sư Đoàn TQLC đích thân gắn lon Trung tá cho Hubert và trao bằng Đệ ngủ đẳng bảo quốc quân chương cho anh và đồng loạt một số Sĩ quan, Hạ sĩ quan, Binh sĩ có công trong cuộc triệt thoái nầy cũng được thăng chức cùng một lúc.

 

Thủy Điền

30-09-2016

 

 

 

43-Đặng Cá, Quên Nơm

 

    Đi làm về, vừa ăn cơm xong, tôi ra hành lang sau nhà ngồi hút điếu thuốc, nhả những làn khói chữ o, nhìn trời, nhìn đất. Bổng tôi nghe nhà hàng hàng xóm cũng người Việt nam cách tôi chừng mười mét. Tiếng hai vợ chồng người bắc cãi nhau rất to, thí điều cả một đoạn đường tôi ở nghe lồng lộng. Cũng may là chỉ có mình tôi hiểu được họ nói gì còn mấy nhà ông tây gần bên thì bù trất, cứ ngỡ hai vợ chồng mâu thuẩn mà thôi.

 

  Cả hơn một tháng nay, tuần nào tôi cũng mua và xem tờ tuần báo địa phương của  người Việt sản xuất, đều cũng thấy đăng những tin người Việt đang gặp rắc rối về mặt thuế vụ và thuê, trả mặt bằng. Hai vấn đề nầy liên quan đến chính phủ và luật pháp. Một mặt có thể là bị phạt vạ, một mặt có thể bị đưa ra tòa. Đúng ra, nếu ở trên xứ người khoảng năm năm, trước khi ra hành nghề là ai ai cũng nắm được những quy luật ấy, tuy không hoàn chĩnh, nhưng cũng không đến đổi phải lún sâu vào những lỗi lầm.

 

Câu chuyện như sau:

   1-Một số anh chị em hồi đầu mới sang hoàn toàn không biết gì hết, nhưng muốn kinh doanh (Tự sống) Không cần sự trợ giúp của nhà nước lúc ban đầu. Khi bước vào nghề chạy đi hỏi khắp nơi, nhờ vả những người tới trước chạy chọt giấy tờ, bao nhiêu cũng trả, miển có được tờ giấc hành nghề là được, khi có giấy xong, là đi mướn mặt bằng ngay, hợp đồng nhà giữa hai bên người ta bảo cái gì cũng gật đầu, không cần đọc lại (Mà có biết tiếng người đâu mà đọc) Mướn xong mua hàng chất đống bán và bán không cần biết chuyện khác,chỉ biết vốn, lời là đủ.

 

   Mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi năm ở xứ tây nầy đều có những thông báo dành cho những người kinh doanh như thuế má, luật nầy, luật nọ đủ thứ và những tin tức nầy là những tờ báo địa phương đều biết cả và họ dịch ra tiếng việt, rồi in thành báo bán cho cộng đồng người việt đọc để hiểu biết thêm. Một tệ hại và sai lầm cho những người nầy là vì tham công, tiếc việc mà chẳng thèm ngó ngàn đến nó. Thậm chí có người mang đến tận cửa hàng để bán với giá 1€ 50 mà họ chẳng thèm mua có khi còn thốt lên những lời thật là chua chát như: (Báo, báo nói láo ăn tiền, ở tây mà còn đọc báo việt con khỉ gì).

 

    Mỗi cửa hàng, mỗi cơ sở đang làm ăn ngon lành, họ chỉ nghĩ mua vào, bán ra, muốn khai báo thế nào thì khai, ai mà biết chuyện mình làm, coi thường luật pháp, nhà nước cứ thế và cứ thế. Nhưng họ quên rằng nhà nước ở xứ nào cũng vậy, họ tinh vi lắm, nếu không tinh vi thì làm sao họ trị dân được chứ. Thời gian trôi qua- trôi qua đúng năm năm sau nhà nước mở cuộc điều tra kế toán. Cuộc điều tra nầy một ngàn anh chị, một ngàn cửa hàng đều rơi vào tay họ, không lỗi ít thì cũng lỗi nhiều Và, bắt đầu những anh chị nầy được tính sổ với một số tiền phạt vạ khá lớn có khi bán cả tài sản mà không trả cho chính phủ đủ. Khi lâm nạn anh, em bắt đầu đi tìm những người hiểu biết về thuế vụ nhờ cứu hộ. Những người hiểu biết nầy là ai: Là những ông viết báo mang thông tin đến mấy lần trước và bị hất hủi ra về. Một số anh em nào khóc lốc, vang xin ôi đủ thứ, các ông nầy muốn giúp lắm, nhưng tất cả đã muộn rồi, vì giấy trắng mực đen nhà nước đã nắm trong tay, thử hỏi làm sao mà cứu. Giờ chỉ còn cách phải trả tiền phạt, còn không trả là đi tù thôi.

 

2-Khi bị phạt vạ nặng nề, chủ nhân không còn khả năng kinh doanh nữa và đành phải trả lại mặt bằng. Mặt bằng muốn trả phải tuân theo hợp đồng đàng hoàng. Ngoài ra không phải trả lúc nào cũng được. Mới vào nghề khoái chí, hớn hở chìa tay ký hợp đồng mười năm, mười lăm năm, nhưng mới làm việc được năm năm đi ra, thì số thời gian còn lại cũng phải trả hàng tháng đều đặn như thường cho đến khi hết hợp đồng thì thôi. Hỏi ? Đã nghỉ việc rồi lấy tiền đâu ra mà trả tiếp nên trở thành con nợ. Một khi nợ không được giải quyết thì chủ mặt bằng sẽ lôi ra toà. Được giấy triệu tập đến toà lại bắt đầu lính quýnh lên đi tìm mấy ông nhà báo nhờ cứu nữa. Các ông chỉ biết trả lời, tôi đã thông báo cho các bạn điều nầy lâu rồi, mà các bạn chẳng chịu đọc, giờ tôi biết làm sao bây giờ.

 

  Qua hai trường hợp mà tôi đọc được trên báo rất trùng hợp câu chuyện chiều nay tôi vô tình nghe được của hai vợ chồng ông chủ cửa hàng thực phẩm Á Đông đang cãi nhau rất ác liệt và tai hại hơn khi họ chỉ tiếc 1€ 50 mua báo và mười lăm phút hàng ngày để đọc tờ báo mà ra nông nỗi.

 

Thủy Điền

24-09-2016

 

 

 

42-Biết Mà Tránh Không Khỏi

                                                   

   Tao đã nói cách đây hơn một năm rồi, là cả Bản nầy không còn yên ổn như ngày xưa nữa. Tất cả phải cẩn trọng và phải nhớ rằng: Cảnh sát bao giờ cũng đến sau vụ việc. Thế mà không ai nghe tao hết, cứ chóng, cãi lại, bảo bà con Bản mình và láng giềng rất chân chất và tốt bụng lắm và bây giờ cả nhà bị giết hết. Ai đúng, ai sai ai tốt, ai xấu.

 

    Nói chung bà con trong Bản nầy xưa nay phải nói là rất tốt, bà con sống rất nhiệt tình và hiền hậu, tuy mỗi nhà ở cách nhau rất xa, nhưng khi có việc gì chỉ cần bắn lên không một phát súng là họ biết có hữu sự và tìm đến ngay.

 

    Sau ngày giải phóng chừng chục năm, tình hình Bản vẫn còn khá nề nếp, sau đó có những đoàn người từ miền xuôi lên khám phá cuộc sống của những người trên miền cao- rồi đến du lịch miền núi- và dần dần đông người hơn. Hồi đầu toàn là những người thật, tốt đến Bản với mục đích rõ ràng. Nhưng sau mười năm ấy đám lưu manh, ma le, giang hồ tứ xứ thừa cơ hội len lỏi vào đoàn người ấy dùng tiền móc nối đám thanh niên Bản làm những điều tán tận lương tâm. Vì nghèo xưa nay, bỗng dưng có người mang tiền đến và cần giúp những công việc rất nhẹ nhàng. Thử hỏi ai mà không thích, còn hơn hàng ngày phải lên rừng, lên nương đốn củi, hái măng mà chẳng có đồng bạc nào. Chúng dụ dỗ ăn chơi, tập tành hút sách làm đủ thứ chuyện, càng ham vui càng ngày càng lún sâu vào vũng lầy tội lỗi. Chúng bắt đám thanh niên vận chuyển hàng quốc cấm vượt biên và bắt gái bán sang nước ngoài. Nếu không làm theo thì không có tiền để phục vụ cho sự trụy lạc ấy.

  

   Cuộc làm ăn đen tối ấy được năm năm thì bị động ổ, Cảnh sát, Công an biết được truy lùng và chúng biến mất, chỉ còn trơ lại đám thanh niên tàn dư nghiện ngập không lối thoát. Nhà nước thấy vậy cho đi cai nghiện rồi trả về địa phương, nhà nước nghĩ rằng đám thanh niên nầy sẽ hoàn lương và trở về cuộc sống bình thường như xưa. Nhưng họ quên rằng cái gì còn bỏ, còn quên được. Riêng kẻ nghiện thì đừng hòng, dẫu có cai năm lần , bảy lượt đi nữa thì ngựa vẫn quây về đường cũ và chờ ngày về chầu Diêm chúa.

  

   Trong số đó có thằng Sáng Lũ Sành, nó là người hiền từ nhất trong Bản, từ ngày lâm vào cảnh ấy và trở về nó như con ma ẩn hiện rất nguy hiểm. Sau mấy tháng từ trại cai nghiện ra, ai ai cũng ngỡ nó lo lên nương làm rẩy phụ bố mẹ nó. Ai ngờ ! Được mấy hôm nó lẫn vào nhà thằng A Lèng không biết định cướp hay hảm hiếp vợ thằng A Lèng. Vô tình thằng A Lèng lên nương về đến bắt gặp định đập cho nó một trận, nhưng nó cao giò chạy mất. Thằng A Lèng thưa công an xã, bắt nó, nó khai nó chẳng làm gì chỉ ghé thăm nhà A Lèng mà thôi. Còn vợ A Lèng khai rằng nó vỡ trò sàm sở. Cuối cùng Công an tha tội nó và nghe loáng thoáng mấy hộ trên, đám bạn của nó cũng vỡ những trò thật oái oăm, nhưng chưa đến nổi. Bởi thế, kể từ đó bố thằng A Lèng hay dặn dò là Bản mình dạo nầy cần cẩn trọng đấy, thế mà chẳng ai thèm nghe và còn cãi lại những lời ông khuyến cáo.

  

   Đêm 28 rạng 29 giữa khuya trời đen như mực, nó lợi dụng lúc thằng A Lèng và bố nó đi tiệc cưới ở Bản xa qua đêm, nó lẻn vào nhà giết chết vợ thằng A Lèng và hai đứa con lớn chỉ chừa một đứa nhỏ hai tuổi, lục lạo hết nhà cướp 15 triệu đồng, sau đó biến mất vào rừng trốn.

  

   Ngày hôm sau cha con A Lèng về đến, tá hỏa, đứa nhỏ hai tuổi ngồi đói, khóc không ra tiếng, ba xác chết nằm máu lên láng. Nó chạy báo Công an, Công an đến ăn kết và mở cuộc điều tra, truy tầm tìm kẻ xác nhân. Gần một tháng trời Công an không tìm ra thủ phạm, chán nản, chuyện động trời, động đến tai Chính phủ và Chính phủ đề nghị Công an tỉnh phải có biện pháp tức khắc. Ngay sau khi có lệnh, sở Công an đã tung ra hai trăm nhân viên trải rộng khắp Bản, gần ba tuần lễ mà vẫn không tìm thấy xác thủ. Một đêm nó hết lương thực mò về nhà, giữa đêm khuya, dọc đường nó bị Công an chận bắt, tình nghi, đem về sở điều tra và cuối cùng nó nhận tội là đã giết cả nhà thằng A Lèng cướp 15 triệu vì nghiện quá không có tiền để hút.

 

   Khi cuộc điều tra hoàn tất, nó được đưa ra tòa và bị kết án tử hình. Toà vừa kêu án xong bố thằng A Lèng khóc, la to, tôi đã nói trong những cuộc họp dân Bản rồi, mà bà con cãi và chóng lại tôi, cho tôi là người xấu miệng, xấu bụng, giờ bà con thật sự sáng mắt chưa…..?

 

Thủy Điền

05-09-2016

 

 

 

 

41-Không Còn Nghe Tiếng Khóc

 

    Sau đám tang chồng con Ngoan, bà con họ hàng ra về, trong nhà chỉ còn lại ít người cùng ngồi xúm nhau bên ly rượu cuối. Nhã chợt nói „Sao đám tang anh Qưới chồng chị Ngoan em chẳng thấy một người trong họ hàng và hàng xóm khóc cả, chỉ thấy riêng trong gia đình mình thôi và chuyện nầy cả mấy đám ma trước trong xóm em cũng đều nhận ra điều đó „ Kỳ thật.

 

    Trước những năm giải phóng và sau đó cũng vậy, tình người trong cái xóm rẩy nầy rất thân tình. Hể có chuyện lớn, chuyện nhỏ họ hú nhau một cái là anh em xúm nhau lại đầy nhà, người một tay phụ giúp nhau một lát là xong cả mọi việc, sau đó cùng nhau nhậu một chập rồi ra về vui vẻ. Nhất là nhà ai có ma chay thì khỏi cần hú, họ tự động, tự nguyện đến giúp mọi việc một cách nhiệt tình mà chủ nhà khỏi phải làm gì hết. Mặc dù những người ấy họ rất nghèo, họ dám bỏ tất cả công ăn việc làm ngày đó để đến với nhau trong những lúc người khác đang gặp khó khăn, buồn tủi. Thậm chí khi đưa tiễn người quá cố đến nơi an nghỉ cuối cùng họ cũng khóc thật nhiều như những người thân trong nhà rất là tình nghĩa.

 

  Sau ngày giải phóng khoảng mười lăm năm cho đến nay, cuộc sống bắt đầu xáo trộn về mặt tình cảm rất nhiều, riêng người ngoài thì không nói, đàng nầy họ hàng và anh em cũng xáo trộn luôn. Lúc nghèo nàn, túng thiếu cái gì cũng chú, cũng bác, cũng anh, cũng em trái dưa, trái ớt, bát cơm đều san sẻ cho nhau. Chưa bao giờ tính toán, suy nghĩ đến sự hơn thua và thù ghét.

 

  Và, kể từ ngày có phong trào nhà nước đền bù ba đồng bạc đất đai, trong tay tự dưng có trăm triệu, một tỷ. Từ nhà lá biến thành nhà lầu hai ba tầng, từ đi bộ, xe đạp giờ biến thành Hon-Đa, xế hộp, họ bổng dưng đổi tánh một cách đột ngột, hơn thua, giành giật, ganh tỵ nhau thật quá đáng, có nhiều nơi chém giết nhau, chỉ vì ba đồng tiền không hồn kia mà quên tất cả. Lẽ ra lúc nghèo nàn, khổ cực mà còn thương yêu như thế, thì khi giàu có, đủ ăn ta phải thưong yêu nhau gấp bội chứ . Trái lại, đi thù ghét nhau, cắt bỏ ruột thịt một cách dễ dàng.

 

   Điển hình qua mấy đám tang và gấn nhất là đám tang thằng Qưới chồng con Ngoan, khi đưa đám ma, họ đi theo sau dường như với tính cách có lệ, chẳng thấy ai buồn và ứa một giọt lệ thương tiếc nào cả „Thật là lòng người, dạ thú „ Vì trong cuộc sống như đã kể ở trên, giờ mỗi người có mấy đồng bạc trong tay là hóng hách, hơn thua, thù ghét lẫn nhau, xem thiên hạ chẳng ra gì cả. Để rồi khi chết đi nhận lấy hậu quả là chẳng ai thèm đưa tiễn và thương tiếc.

 

    Mọi việc, mọi hành động, mọi hình ảnh xảy ra trước mắt ràng ràng hàng ngày, thế mà họ không chịu tránh né cho tốt hơn, vã lại cứ tha hồ dẫm lên vết chân cũ thật đáng trách vô cùng. Và, buồn hơn khi có người không may ra đi chẳng nghe được một lời thương tiếc hay tiếng khóc tiễn đưa.

 

Thủy Điền

04-09-2016

 

40-Hết Ý Kiến

 

   Nó đi một vòng, rồi vào ngồi ị trên chiếc ghế đẩu cạnh hàng ba phiền hà „ Nghĩ mình ở quê chớ đâu phải ở thành phố đâu mà bây giờ tìm một cái bụi cây nhỏ để giải quyết vấn đề khó khăn cấp bách cũng không có. Thiết nghĩ một  ngày nào đó ba đứa nhỏ đi học về dọc đường bể bọng đái  chết hết không chừng „ .

    Má nó từ nhà dưới đi lên hỏi?

-         Có chuyện gì vậy Hân.

-         Đâu có gì đâu má.

-         Không có mà gương mặt mầy buồn hiu và miệng thì lầm bầm, tao không tin.

-         Thì ba cái chuyện cỏn con, lặt vặt vậy mà.

-         Mà chuyện gì ?

-         Con nói ngày xưa, mà cũng đâu lâu lắm đâu, mới mười mấy năm nay mà đổi khác quá trời, đến nổi đi dọc đường lỡ bị kẹt cũng chẳng biết làm sao. Ở ngoài con xa xa nhà nước làm một nhà vệ sinh công cộng để giải quyết những trường hợp đặc biệt, còn xứ mình bây giờ kiểu nầy có ngày mấy em con và cả người lớn nữa chết oan dọc đường.

-         À ra là mầy cằn nhằn mấy cái chuyện dớ dẩn nầy.

-         Má cho chuyện nầy là chuyện nhỏ sao?

-         Riêng con rất là quan trọng, mới đây thôi, nếu nhà mình còn cách năm trăm mét nữa thôi là chắc con bể bọng đái mà chết.

 

    Kể từ hơn mười năm nay từ làng đến thành phố, nơi nào người ta cũng cất, cất nhà như đi chợ, không biết tiền bạc từ đâu bay đến mà ai ai cũng áp rủ nhau cất nhà to, cửa rộng vùn vụt, sự phát triển về địa ốc trông ngộp mắt. Với sự phát triển ấy vật gía đất đai cũng tăng song song theo vì quá quý nên người ta tận dụng tất cả từ cái ao, con hẻm, gốc cây mụt mà những thứ nầy ngày nó còn ở nhà như là những miếng đất hoang chẳng ai thèm để ý đến. Bởi thế, dù bây giờ làng quê hay nội thành đâu đâu cũng toàn là xi măng, gạch đá, hắc ín không còn đất trống và cây cối nữa. Cho nên sau những cơn mưa to tất cả các con đường đều bị ngập nước vì không lối thoát và thậm chí vào những tháng như: Tháng ba, tháng tư oi bức, lẽ ra phải có những cây che mát thì nhiệt độ còn dung hòa được một tí. Đàng nầy ở đâu cũng thế, trống trơn, sự nóng bức lại càng bức hơn trong khó thở vô cùng.

 

   Cách đây bảy năm nó có về thăm quê một lần, hồi ấy xa xa người ta mới dựng lên một ngôi nhà gạch, sự tàn phá cây cối chưa dữ tợn. Nhưng bảy năm sau nó về một lần nữa thì nhìn thấy mọi chuyện đều đổi khác.

 

   Lần nầy về nó được mời ngồi ăn giỗ cùng ông trưởng thôn. Nó hỏi?

-Tình hình nầy liệu nay mai có khá hơn không ông.

   Ông trả lời một cách tỉnh bơ, không cần suy nghĩ.

-Mầy hỏi tao? Tao biết hỏi ai. Việt nam mình vậy đó, đất của người ta, người ta muốn làm gì thì làm, miển đừng đụng chạm đến ngưới khác là được.

 

   Khi tàn tiệc ông nhìn nó ngồi lặng thinh, bùi ngùi. Trước khi chào ra về, ông khều vai nó nói nhỏ. Mầy ở nước ngoài lâu quá mầy không biết chuyện gì đâu, mầy chỉ nhìn khái quát rồi trách tao, mà mầy trách cũng đúng. Nhưng tao nói thêm cho mầy biết, dân bây giờ chứ không phải như những ngày mới giải phóng đâu, hơn nữa thời buổi nầy đồng tiền mạnh hơn tiếng nói và chế độ nào cũng vậy thôi mầy ơi. Nó dạ dạ, gật đầu và ông cáo biệt ra về. Trong khoảnh khắc nó chợt nghĩ „Làm chính quyền như ông thà ở nhà cho vợ sai còn hay hơn „

 

    Câu trả lời của ông ta nó hết ý kiến. Sở dĩ nó dám hỏi, là gì nó và ông ta là bạn ngày xưa. Lẽ ra ông ta là một nhà Chính trị đứng đầu một thôn đâu phải ít người, ông ta phải có những lời lẽ văn minh , tiến bộ hơn  một chút như: Khuyên người dân đừng phá hoại cây cối và phát động trồng thêm cây, muốn xây cất phải nhìn trước, nhìn sau chừa những nơi nào cần thiết hay thành lập những nơi vệ sinh công cộng, mục đích bảo vệ môi trường, hầu giúp cuộc sống càng ngày càng khá khỉnh hơn. Trái lại ông để mặc thời cuộc và ai làm gì thì làm, thử hỏi năm mười năm  nữa cái thôn nầy sẽ biến thành cục xúc xắc không hơn, không kém và những người lỡ bước có thể chết oan một cách oan uổng hay sao.

 

Thủy Điền

30-8-2016

 

 

 

 

39-Tiếng Chó Tru

 

   Trên đường từ tòa án tỉnh về nhà, dọc đường, bà con bàn tán xôn xao, hôm mới nghe thằng Thạch Heng nó giết chó. Ngỡ nó lâu, thèm quá bắt chó người ta làm thịt ăn, rồi bị bắt. Ai dè……..!

 

   Gia đình nó mới dọn về khu phố mới nầy ở được hơn một tháng, nhà nó thì ở gần một nhà thờ Công giáo, mỗi sáng đúng 7giờ, trưa 12 giờ và chiều 18 giờ là người ta cho chuông đổ. Cứ mỗi lần chuông đổ khoảng năm phút dài, thời gian nầy là thời gian con chó ông hàng sớm bắt đầu tru đủ năm phút, có khi hơn, nghe rất rợn người, nhất là vào lúc sáng sớm mới thức dậy. Ngoài ra mỗi khi xe cứu hỏa hay hồng thập tự, cảnh sát có chuyện cần chạy ngang qua, hú còi nó cũng tru theo. Bao người ở đây lâu dường như quen thuộc và không còn là vấn đế lớn nữa. Nhưng riêng nó thì rất khó chịu với tiếng tru của con chó nầy.

  

   Có lần nó bàn với ba mẹ nó là đi chỗ khác ở, ở đây nó khó chịu quá. Ba mẹ nó nói :

-Mầy điên rồi hả Heng, mầy biết bỏ tiền dọn nhà đến đây mất bao nhiêu không? Tao không dọn đi đâu nữa, tao già và hết tiền rồi. Mầy cố chịu đựng một tí thì sẽ quen thôi, chưa chi mầy cáo lên rồi.

-Con nói thật với ba mẹ, con chịu hết nổi rồi.

-Tùy mầy, đừng bàn chuyện nầy với tao nữa.

Gương mặt nó cứ lầm lì, không thèm nói gì đến ai và tìm cách triệt tiêu con chó quái đản nầy.

 

   Một hôm có vụ tai nạn xe hơi, xảy ra ngay ngã tư cách nhà nó khoảng năm chục mét. Cảnh sát, xe cứu thương, cứu hỏa đến bật đèn xanh làm việc, đây là cơ hội để nó tru và tru gần cả giờ đồng hồ. Nó bịt hai lỗ tai không muốn nghe, nhưng nó vẫn tru mãi. Tức quá nó nhẩy qua mấy rào, lấy cây tấn công, đập cho con chó một trận tơi bời chủ yếu cho êm tiếng tru. Không ngờ ! Sau những giây phút ấy con chó tử vong. Chủ nhà chạy ra tấn công lại và bắt trói nó, rồi gọi điện thoại báo cảnh sát. Chỉ trong tích tắc cảnh sát đến ngay và bắt nó về bót. Bà con hàng xóm xúm nhau xem như một vụ giết người không hơn, không kém và nhìn thẳng, chăm chăm vào căn nhà của nó đang ở. Ba má nó sợ quá, đóng cửa kín mít lại, chẳng dám nhìn ra ngoài.

 

    Nơi cơ quan điều tra nó khai thật tất cả và cuối cùng bị đưa ra tòa. Nó nhờ dưới tuổi vị niên nên chỉ bị phạt hai ngàn Euro và một tháng lao động xã hội (Không lương) Theo luật định, nếu nó trên mười tám tuổi nó sẽ bị ngồi tù chứ không phải chuyện bình thường.

 

   Kể từ ngày xảy ra chuyện, gia đình nó dường như bị cô lập. Xung quanh người ta cho gia đình nó như là có kẻ sát nhân. Một khi người ta nghĩ xấu như thế thì khó mà làm gì được nữa, nên sau một tháng lao động xã hội hoàn tất, cả gia đình nó đành phải dọn đi nơi khác để sinh sống.

 

Thủy Điền

27-8-2016

 

 

  

 

 

38-Kẻ Sát Thủ Chính Là Người Tình Cũ

 

   Sau vụ án đêm hôm ấy, lẽ ra Hoàng nên bỏ trốn đi nơi khác để khỏi bị phát hiện là kẻ sát nhân thì đúng hơn . Nhưng hắn không làm thế, tỏ vẻ mình là kẻ khôn ngoan, tỉnh táo, cao cơ và quây ngược trở lại tham gia cùng mọi người lo phụ giúp lễ tang như người thân trong gia đình và thỉnh thoảng còn đóng kịch với những màng xúc động rơi nước mắt trước mọi người, nên chẳng ai thèm để tâm, để ý đến hắn.

 

  Năm hai mươi tuổi hắn từ quê nhà lên thành phố tìm việc làm. Hắn đi năm non, bảy biển và cuối cùng được một gia đình người Việt gốc Hoa có cơ sở sản xuất bánh, kẹo nhỏ nhận vào làm, bước đầu lương bổng cũng khá bèo vì không có tay nghề, nhưng hắn vẫn chấp nhận. Sau một năm siêng năng học hỏi và làm việc tốt, gia đình nầy rất thương mến và cho tăng lương, đồng thời còn hứa hẹn với hắn là sẽ cho hắn một việc làm lâu dài. nếu hắn muốn ở lại đây làm việc. Khi nghe xong hắn mừng ra mặt và rất tích cực trong công việc hàng ngày.

 

   Thời gian làm việc nơi đây cũng khá lâu như người trong nhà, hắn quen thuộc tất cả từ A- Z rồi dần dần quen và yêu cô con gái lớn của ông bà chủ. Hồi đầu cơ sở còn thô sơ, nhỏ mọi người ai ai cũng đều cấm cúi vào công việc, chưa ai nghĩ đến chữ giàu nghèo, giai cấp, chuyện yêu đương của đôi trẻ là chuyện bình thường chẳng ai quan tâm và để ý đến. Nhưng thời gian năm năm sau, khi xã hội được nới rộng, việc kinh doanh bắt đầu chính thức tự do, cơ sở càng lúc càng phát triển mạnh, sự giao thiệp bên ngoài cũng được mở rộng, ông chủ quen biết rất nhiều hạng người giàu có, chủ cả khắp cả nước Việt Nam và nước ngoài.

 

   Vừa quan hệ làm ăn, vừa giao tiếp mọi giới, ông bắt đầu cân nhắc, nghĩ đến danh giá gia đình và không cho con gái mình quan hệ với hắn nữa, ông có ý định gả sang cho người khác nên thường hay gắt gỏng và có những hành động không tốt làm cho hắn bất mãn và phải bỏ đi. Hắn biết được mọi âm mưu của ông bà chủ, nhưng vì phận thấp hèn nên hắn đành câm lặng, chịu thua và chia tay người yêu ra đi vĩnh viễn.

 

   Bước đầu hắn định bỏ qua mọi việc và cho đó là „Tình đời „ và sẽ làm lại cuộc đời, nhưng được một tháng thì hắn không còn nhịn nhục được nữa vì tức giận và lời ra, tiếng vào của bè bạn, hắn bắt đầu suy nghĩ rồi tìm cách trả thù ông bà chủ, người đã mưu mô , bày sự chia cắt mối tình bấy lâu nay của hắn.

 

   Một đêm u tối 29 rạng 30, trời đen như mực hắn lẻn vào căn Biệt thự riêng của hai ông bà, trong lúc hai người đang say ngủ, hắn mở cửa rồi dùng con dao Thái Lan hạ sát cả hai mà chẳng ai hề hay biết và ra về trong đêm một cách an toàn. Con chó nhà không sủa vì đã quen hơi hắn từng nhiều năm qua.

 

   Sáng ra, bể chuyện, mọi người gọi Công An, Báo chí, nhà chức trách đến, vang dậy cả làng. Lẽ ra sau vụ án động trời, hắn nên tẩu thoát thì hay hơn, đàng nầy hắn quây ngược lại giả vờ như không biết gì và xông xáo vào cùng gia đình lo phụ giúp lễ tang. Phía ngoài Cảnh sát đang mở cuộc điều tra và tìm dấu vết, tang vật của kẻ sát nhân. Bên trong hắn tỏ vẻ u buồn và thậm chí có lúc xúc động và khóc trước quan tài người quá cố.

 

  Cuộc điều tra gần cả hai tháng trời bất thành, Công An bắt đầu chán nản. Nhưng rồi, không có chuyện gì mờ ám mà qua được mắt trời và luật pháp . Một hôm cả nhà đang ngồi ăn cơm, bổng dưng thằng A Cường em út của Diễm bồ cũ hắn vọt miệng nói (Hôm đám tang ba má ngộ thấy gương mặt A Hoàng có lấm tấm máu, ngộ hỏi? Tại sao. A Hoàng nó nói nó vừa bị té. Từ đó mọi người nghi ngờ, dừng đũa và không ăn nữa rồi liền báo cho nhà chức trách hay để tìm ra sự việc. May ra.

 

   Đúng 8 giờ ngày hôm sau Hoàng được một số Công An đặc biệt mời về cơ quan làm việc, lúc đầu hắn không nhận, cứ chối quanh, chối quẩn, nhưng ba hôm sau hắn thú nhận chính hắn là kẻ sát nhân vì quá tức giận hai ông bà đã hất hủi và cãn ngăn tình yêu của hắn.

 

   Khi cuộc điều tra hoàn tất, hắn bị đưa ra xử lưu động trước nhân dân và lãnh án Tử hình.

 

   Trên đường về Diễm không đi chung với mọi người  trên chuyến xe, mà tự đi bộ một mình theo những con đường vắng, ôm mặt khóc, rồi thầm trách „Tại mình mà cả ba người đều chết „ thật oan uổng vô cùng.

 

Thủy Điền

24-8-2016

 

 

 

 

 

37-Hãy Trân Trọng „ Cái Gì Thực Tế „

 

   Thú thật, tôi là người có sở thích cũng giống như một số người khác là lúc rảnh rổi, hứng thú thường hay viết văn, làm thơ, vẽ họa cho vui. Tuy không hay và đẹp bằng người, nhưng gì là sở thích nên cứ viết và vẽ mãi. Ngoài ra tôi chưa lần dám bình luận về một vấn đề khác.

 

   Đặc biệt hôm nay ngoại lệ, ngày 13 tháng 8 năm 2016 Tờ báo Văn Học Nguồn Cội ở bên Mỹ có gởi cho tôi bài viết „Vì Tôi Là Đàn Bà „ Của Tác giả Trần Yên Hạ mà tôi sẽ đính kèm sau bài viết nầy và nhiều bài khác nữa. Sau khi đọc xong bài viết ấy tự dưng tôi suy nghĩ, ở trên đời nầy người đàn bà nào cũng vậy, họ đều có cái lý để bảo vệ sự hạnh phúc riêng của họ hết. Họ không ngu dại bỏ thỏng cho chồng họ muốn làm gì thì làm hay không quan tâm đến người chăn gối. Đây là một điều rất đáng khen và kính phục. Nhưng xét cho cùng người đàn bà trong câu chuyện trên hơi quá đáng và lạm quyền. Có lẽ, vì chưa hiểu rõ hết người đàn ông hay nói đúng hơn là chồng mình.

 

   Người đàn ông như đã kể, theo tôi chưa hẳn là người đàn ông xấu hay vô tâm, mà người đàn ông nầy chính là một con người chân thật, đơn giản, bình thường, thực tế và có sự suy nghĩ chính chắn. Và, đặc biệt loại đàn ông nầy ở xã hội ngày nay rất hiếm. Nếu người phụ nữ nào bây giờ đang có một mái ấm bên ông chồng như thế là kiếp trước đã có chân tu rồi đó. Tôi không cần lập lại chuyện xã hội ngày nay, hiện tại qua tin tức như: Ti-vi, Báo giấy, Báo mạng Internet hàng ngày các bà cũng ít nhiều đã thấy được điều đó.

 

   Như câu chuyện trên kể lại, một người đàn bà mặc áo đẹp, cắt kiểu tóc mới, mua giầy mới đi dạ hội, tiệc tùng đâu cần gì phải đòi hỏi chồng mình phải khen, nịnh bợ, tâng bốc, ca ngợi . Miển sao những trang sức ấy gọn gàng, lịch thiệp khi đến nơi vui vẻ có nhiều người khen ngợi là đủ rồi. Cách chưng diện ra xã hội là để cho người khác nhìn thấy chớ không phải cho chồng, chồng là ở nhà. Bởi thế, sự đòi hỏi về phía chồng là hơi thừa và vô lý.

 

  Kế tiếp, xã hội ngày nay, nhất là ở Mỹ, Âu, Úc châu thậm chí bây giờ ở Việt Nam ai ai cũng theo thời đại Model người ta có quyền mặc quần áo đủ kiểu, bông hoa, màu sắc không nhất thiết như ngày xưa phải màu đen, màu trắng chĩnh tề. Cứ mặc cái gì mà mình ưa thích chủ yếu mới, sạch, lịch sự gọn gàng là được, lắm khi người ta còn khen hơn là chê và cho mình là người tiến bộ  nữa là khác. Ngược lại các bà thì không chịu, phản đối bắt làm theo kiểu xưa nay, hỡi cãi lại thì giận, thì hờn. Điều nầy lỗi tại ai? Có phải các bà không. Vì các bà đã cản ngăn sự tiến bộ và bảo thủ cái cũ.

 

   Riêng về mặt quan hệ bạn bè ở đây cũng vậy. Người đàn ông nào cũng có danh dự và tự ái riêng của họ. Ví dụ một trường hợp trong câu chuyện được đưa ra là đi tìm nhà bạn, tuy chuyện nhỏ, nhưng cũng là vấn đề tranh cãi của các bà. Chuyện lái xe là chuyện của người đang cầm tay lái, lúc nhanh lúc chậm là tùy theo khoảng đường, ta không cần phải nhắc nhở họ, sự nhắc nhở có khi đưa đến những trường hợp đáng tiếc. Tìm đường, địa chỉ cũng thế, từ từ người tài xế sẽ mò ra thôi, mỗi cái mỗi phôn hỏi, mỗi lần đến thăm là mỗi lần phải hỏi, thử hỏi bạn bè còn coi mình ra thể thống gì nữa. Dù dốt mấy ta cũng nên giấu giếm một tí, cứ chưa chi là bộc lộ cho người khác thấy điểm yếu của mình là điều không nên.

 

   Và, câu chuyện còn kể thêm những chuyện lặt vặt trong gia đình mà ở đây theo tôi cũng không nên viết lên cho mọi người đọc. Người đàn ông nào cũng thế, có gia đình, có con, đều bổng dưng sinh nở ra trăm ngàn công việc, dù không biết từ đâu đến, nó dường như là „Tự động „ Cho nên thường hay nhớ trước, quên sau đây là điều không tránh khỏi. Phận đàn bà cần chú ý những sơ hở ấy mà phụ giúp chồng mình thì chồng nào nhăn nhó, khó chịu. Ngược lại còn quý mến người bạn đời gấp ngàn lần.

 

   Một phiền trách hơi quá đáng khác đó là chuyện nội trợ, mua sắm nói chung người đàn ông khá vụng về, làm sao thấu hiểu hết ý vợ mình cần gì ở nhà tắm, nhà bếp. Những thứ ấy người đàn bà nên tự quyết định và lo liệu thì hay hơn đừng nhờ đến đàn ông để khỏi bực mình, giận dữ.

 

   Qua Tác phẩm của Tác giả Trần Yên Hạ cho ta thấy câu chuyện nội dung ngã về lý của người đàn bà nhiều quá. Đọc xong như đang nhìn một cái cân không cân bằng, nó cứ chênh về một phía mà bên yếu là người đàn ông và đoạn kết hơi thừa với những lời cân nhắc cho cánh nam chúng ta. Thật ra mỗi gia đình đều có mỗi cảnh khác nhau, người đàn ông nào mà chẳng biết tạo cách bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nhưng chúng ta phải chấp nhận và đồng ý một điều là trong xã hội nào cũng phải có một vài trường hợp „Đặc biệt“ Những trường hợp nầy không đáng kể để làm tài liệu viết thành một câu chuyện khuyên đời.

 

Thủy Điền

21-8-2016

 

 

 

36-Điềm Báo Trước

 

 

   Một điều thật kỳ lạ, ngần bao năm nay con đường Hoàng Hoa Thám nầy chưa bao giờ vắng vẻ và buồn nhạt. Thường, lúc nào cũng có người qua, kẻ lại rất nhộn nhiệp và huyên náo. Nhất là những chiếc xe Hon-Da đèo nhau xuôi, ngược, tiếng máy nổ, tiếng người ì ầm vang dội khắp không gian. Đặc biệt hôm nay chỉ có mình Lan tay dìu chiếc xe đạp, vừa đi, vừa ngoảnh lại phía sau như nuối tiếc một điều gì.

 

   Sau gần hai năm quen nhau, rồi yêu nhau dưới mái trường trung học. Lan và Trọng là đôi bạn thắm thiết bên nhau, từng chia sẻ  những vui, buồn thầm kín. Cả hai luôn mơ ước  một ngày nắng đẹp „ Anh trước, em sau, hồng lộng cận kề, pháo nổ giòn sân „ Nhưng rồi  những ước mơ ấy chẳng bao giờ thành hiện thực.

  

   Vì hoàn cảnh gia đình, khi học xong lớp mười hai Trọng phải bỏ dở việc học và được một người quen giới thiệu lên Sài –Gòn làm việc. Mục đích của Trọng là kiếm ít tiền về phụ giúp gia đình và lo hậu mai sau. Thời gian hai năm xa nhà là thời gian đầy thử thách, cam go, chàng cố gắng nhẫn nại và chịu đựng sự khổ cực vô bờ bến để nuôi hy vọng là sẽ đủ tiền để cưới được nàng. Trong giây phút ấy chàng cứ ngỡ nơi quê nhà người xưa vẫn luôn chờ đợi. Sự suy tính ngu ngơ và cạn cợt đã đưa chàng đến đỉnh cao thất vọng của tình yêu.

 

   Thời gian- thời gian mỏi mòn, trông ngóng, đợi mong Lan dường như túng quẩn trong ái tình, một ngày chờ đợi đối với nàng thật quá dài, đừng nói chi đến hai, ba năm. Ôi ! Hơn là thế kỷ. Nàng nghĩ „Chắc người không bao giờ trở lại „ Và, đã  ngã lòng vội bỏ mối tình xưa.

 

   Ngày trở về Trọng chỉ biết than thở và cầu chúc cho Lan hạnh phúc bên người tình mới. Trong khoảng khắc chàng nhớ lại, cách đây hai năm trên con đường Hoa Hoa Thám lúc chia tay cảnh trời sao tự dưng buồn thê thảm, vắng lạnh và thường thì Lan lên xe đạp một mạch ra về. Mà hôm ấy nàng cứ đứng lại, ngoảnh mặt hướng về chàng ngậm ngùi như đau xót, tiếc thương một chuyện gì chưa biết trước.

 

Thủy Điền

16-08-2016

 

 

 

35-Cuốn Theo Dòng

 

    May mà đài đã báo trước, cả vùng đùm túm đi tản cư nơi khác và cơn bão số 7 đã đến hơi chậm hơn dự đoán, phải mà nó đến sớm, nhanh một chút cũng như không có dài báo Có lẽ?  Cả vùng chắc trôi theo dòng nước ra tận biển Đại Tây Dương làm mồi cho cá mập hoặc những mảnh gỗ, mảnh tôn chém vào đầu chết hết rồi.

 

   Cách đây sáu năm, gia đình Giang từ thủ đô Hannover thuộc tiểu bang Niedersachsen dọn về thành phố tự trị Hamburg để sinh sống. Bước đầu vào thành phố nầy nói chung nếu muốn mướn một căn hộ để ở rất khó. Vì nơi đây đất hẹp, người đông lại đắc đỏ vô cùng. Nên trước tiên ba mẹ Giang nghĩ ra cách phải tìm một căn hộ ngoài ngoại ô, cũ, xập xệ, rẻ và khi quen nước, quen cái rồi sẽ từ từ dò đường tính tiếp để chuyển vào trung tâm thành phố sống cho vui và tiện lợi hơn. Vì ông bà đã già rồi.

 

   Ông bà mướn căn hộ nằm ở tầng năm cao nhất, chủ nhân là người Marocco, hồi mới vào ký hợp đồng mướn nhà, ông ta hứa hẹn đủ điều, nào là:

-Được sử dụng một phần đất nhỏ trong vườn nhà ông để trồng hoa màu phụ và hoa kiểng v…v.

-Nếu có hư hỏng gì trong căn hộ, ông ta sẽ gọi hãng đến để sửa chữa ngay.

-Hoặc có khó khăn gì ông ta sẽ giúp đỡ và hướng dẫn hộ vì ông là người sống ở đây ngoài ba nươi năm, thổ địa vùng nầy.

   

    Mới nghe qua, gia đình Giang từ nơi xa đến rất phấn khởi, thế là mình đã gặp được Quới nhân. Ai cũng vội chắc lưỡi khen thầm, cái ông chủ Marocco nầy quá tốt.

 

    Từ Hannover dọn nhà về Hamburg cũng khá xa, hơn nữa đồ đạc lại qúa nhiều có những vật dụng chưa bao giờ dùng đến nó mà quăng đi thì tiếc, nên cũng được mang theo, tất cả những thứ nầy gia đình Giang cho vào một nhà kho dưới hầm, thường kho của bất cứ ai ở dưới căn hầm cũng đều có cửa khóa lại, riêng kho nhà Giang thì không có. Chờ đến ba tháng sau, hỏi ông?

-Thưa ông, sao kho chúng tôi không có cửa.

-Ông bảo, ông đã đặt mua cửa mới rồi, nơi mơi người ta chở đến, sẽ lấp đặt ngay, vì cái cửa cũ vừa bị hỏng. Ai cũng tưởng thật, thôi chờ, chờ mãi vẫn không thấy cái cửa nào cả và đúng sáu tháng tháng sau hỏi lại? Ông cũng trả lời giọng điệu y trân.

 

   Mùa hè năm đầu tiên ông chia cho nhà Giang khoảng ba mét vuông đất để trồng rau, hoa và năm kế ông tìm cách lấy miếng đất lại, diện lý do là nhà Giang nên cùng ông trồng cây húng lủi. Cha mẹ Giang giận quá trả lại, ông bà nói rau húng lủi trồng thì trồng ít cây để ăn thôi chớ trồng hic ho ba bốn mét vuông. Thực tình thì người Marocco họ trồng rất nhiều vì họ dùng để uống chung với trà xanh hàng ngày.

 

   Vừa ở được sáu tháng thì cái Lò nấu nước nóng trở chứng vì quá cũ, Giang đề nghị ông chữa ngay. Ông không từ chối, giả đò lên nhà Giang nhìn tới, ngó lui và bão: Ngày mai ông sẽ gọi điện thoại cho hãng sửa Lò sưởi đến sửa, gia đình phải có người ở nhà để đợi thợ đến. Ba mẹ Giang ngỡ thật, không dám đi đâu, ngồi ở nhà chờ đợi cả ngày rồi cũng chẳng thấy con ma nào đến nhấn chuông để sửa.

 

   Cơn bệnh hứa lèo ngần năm năm qua, hết chuyện nầy, đến chuyện khác đã trở thành thói quen và gia đình Giang cũng quen luôn, nghĩa là trong nhà có cái gì hư hỏng thì tự sửa lấy cho rồi, còn gọi ông lên, ông ừ ừ , hứa lèo lại còn tức giận hơn nhiều.

 

Bao lần cha mẹ Giang quá bực bội và muốn tìm nhà khác, nhưng tìm không ra vì ông bà vừa lớn tuổi, lại vừa thất nghiệp nên chẳng ai dám cho mướn nhà. Có lẽ, ông chủ nhà Marocco biết được điều nầy nên mới chơi trò chuyện gì cũng hứa qua loa hay bản tính của ông là như thế.

 

   Những chuyện lặt vặt vừa kể trên, tuy là bổn phận của người chủ nhà cần phải làm cho người mướn nhà, vì họ ở và trả tiền nhà cho mình đàng hoàn, nhưng ông không bao giờ làm, nếu không làm thì thôi, ngược lại ông còn lừa thiên hạ, như lừa một đứa trẻ con thật quá đáng vô cùng. Nhưng vì quá quen với bản tính ấy lắm lúc bà con bỏ qua và châm chế. Từ chỗ tha tội cho ông nhiều lần ông được nước làm tới. Và, mới đây một chuyện động trời làm cho cả mấy gia đình mướn nhà thất điên, bát đảo, te tua như tàu lá chuối. Tự nhiên mùa thu giá lạnh, ông đi vỡ hết nóc nhà rồi bỏ trống gần ba tháng trời. Hỏi ra? Ông muốn lộp mái mới. Hồi đầu ông nghĩ như ở xứ sở ông, nghĩa là cho lớp cũ xuống, rồi lộp lớp mới lên là xong. Nhưng không ngờ. Khi vỡ ra tất cả đều mụt nát ở phần trong, nhà nước bắt ông phải sửa lại toàn bộ mới hết, nếu không ông sẽ bị phạt vì nguy hiểm đến tánh mạng người khác. Ông chới với, vì không đủ tiền làm, nên đành bỏ trống gần ba tháng trời, bà con ai cũng than phiền, la trời.

Ông lại bắt đầu vỡ trò hứa lèo tiếp, bằng cách gọi hết hãng nầy đến hãng khác để định giá, nhưng chưa bao giờ ông mướn một hãng nào đến làm. Trong cái xảo cũng có cáo may bà chị của ông sống gần bên thấy thiên hạ phàn nàn vô kể và nhìn căn nhà không nóc ba bốn tháng trời, bà không đành lòng và phải bỏ tiền túi ra giúp ông mướn người và mua vật liệu để cho căn nhà được hoàn toàn trở lại.

 

     Bà vừa làm xong cái mái cho ông, bà rất mừng vì đã làm vui lại cho bao người. Nhưng rồi, cái gì đến sẽ đến, đúng ngày hôm sau cơn bão số 7 từ xa kéo đến làm đổ ngã cây cối , đường xá ngập nước, lũ lụt tràn về, cuốn đi tài sản, xe cộ đi nơi khác thật khủng khiếp vô cùng. Và, may mắn hơn tất cả những ngôi nhà trong vùng tuy, hư hại rất nhiều về phần vật chất, nhưng nhà cửa thì vẫn còn nguyên. Chỉ riêng một mình căn nhà ông bị cuốn theo dòng nước, chỉ còn trơ lại cái nền đất đầy lầy lội, dơ bẩn.

 

Thủy Điền

02-08-2016

 

 

34-Dòng Sông Vắng Lặng

 

   Chiều Chú nhật, tháng tư, trời oi bức. Tân thả bộ theo bờ sông và dừng lại bụi tre già mà trước đây ba năm chàng và Lan chiều nào cũng thường hay hò hẹn. Chàng nhìn xung quanh và tự hỏi? Sao hôm nay trời vắng lặng thế, chẳng bóng người, thuyền ghe cũng chẳng chiếc nào xuôi, ngược, rồi nhặt viên đá ném xuống sông và nói „Tụi bây cũng lặn đi nơi khác nhanh lên, để một mình tao yên tỉnh có được không nào „

 

   Tân và Ngọc Lan là hai đứa cùng quê, học một trường, Tân mười tám còn Lan mười bảy, hai đứa yêu nhau hơn một năm. Khi học xong bậc trung học chàng bảo cha mẹ hãy nhờ người dạm hỏi và cưới Lan. Cha mẹ chàng không dứt khoát, cứ dần dừ vì cả hai còn nhỏ quá hơn nữa trước sau gì nhà nước cũng gọi Tân đi Nghĩa vụ vì Tân đã mười tám. Nếu cưới ngay bây giờ Tân đi Nghĩa vụ thì tội con Lan vô cùng, thôi thì sau khi đi Nghĩa vụ xong về cưới thì cũng chẳng muộn. Hồi đầu chàng giận dữ, không hài lòng, nhưng sau bao ngày suy nghĩ thiệt, hơn chàng nhận ra cha mẹ mình nói đúng.

  

   Thời gian đi Nghĩa vụ Tân học tại quân trường Cần thơ ba tháng, tuần nào Lan cũng xách một giõ đầy đến thăm chàng vào ngày Chúa nhật, tình cảm thật tràn trề như đôi vợ chồng thật sự, hai đứa luôn đặt hy vọng sau ngày trở về „Thề non, hẹn biển „

  

   Sau khi học xong chàng được đưa thẳng sang chiến trường Campuchia, nơi đây thỉnh thoảng chàng nhờ đơn vị mang thư về. Vì tình hình chiến tranh có lúc thư đến tay Lan, có lúc nàng cũng chẳng nhận được bức thư nào. Vì không hiểu và thông cảm, nhiều lúc nàng hờn trách chàng quá hửng hờ nơi quê nhà. Bên Cam puchia mười lần gởi là đơn vị đều bảo đến tay quê nhà tất cả, nên chàng rất yên bụng và người yêu sẽ hiểu lòng mình. Thật trớ trêu, kẻ hiểu bắc, người hiểu đông và cuối cùng những mâu thuẩn ấy khiến nàng ngã lòng cũng như sự ép buộc của gia đình nàng phải đành tách bến, sang sông.

  

   Nàng lập gia đình với người đàn ông lớn hơn nàng tám tuổi ở làng bên, trong lúc Tân chỉ còn một năm nữa là trở lại gia đình. Sau khi lấy nhau nàng sinh được một cô con gái và sống bên chồng rất khá giả và hạnh phúc.

 

    Ngày hoàn thành Nghĩa vụ, Tân trở về, bao nhiêu hy vọng là sẽ cưới được Lan để làm vợ, ăn đời, ở kiếp và chàng vẽ ra một tương lai vô cùng sáng lạng như ngày nào chàng đã từng hứa với nàng. Nhưng không ngờ vừa từ Campuchia về đến Vĩnh Long, bước vào cổng làng, gặp lại mấy người quen, bạn bè ngoài ngõ, thăm hỏi, nghe xong chàng muốn quăng cái Balô trên vai mà nhẩy xuống dòng sông chết mất cho rồi. Chỉ một lời nói của người bạn thân thiết mà bao nhiêu mồ hôi trong người chàng tuôn ra đẩm áo.

  

   Uống ly nước mía cùng bạn bè xong, chàng bình tĩnh ra về, bước vào nhà chưa kịp chào hỏi ai, chàng ngã người lên chiếc Divan  khóc ngất, đập, quăng những thứ gì gần xung quanh mình như người điên loạn, bao nhiêu người cãn ngăn, an ủi mà cũng chẳng được gì.

  

   Chiều lại, chàng lang thang một mình theo dòng sông cũ và ra tận nơi bờ tre già ngồi im lìm, ngậm ngùi một mình trong đêm vắng.

 

Thủy Điền

29-7-2016

 

 

 

 

33-Người Cha Kế

 

    Vừa bước vào nhà, Thanh nhìn thấy một người đàn ông trạc tuổi cha mình đang ngồi đàm đạo với mẹ. Thanh ngã mũ chào.

-Con chào mẹ con mới về, dạ cháu chào bác.

Mẹ Thanh nói:

-Ờ, con mới về, dạ thưa anh đây là Thanh con trai tôi, cháu đi học tận Sài gòn, lâu lâu về một lần.

-Bác chào cháu.

Thấy Thanh về, ông ngại, thôi cô ba lo cho cháu, tôi xin phép về.

-Dạ, khi nào rảnh rang anh năm ghé sang chơi.

-Vâng, cám ơn cô, tôi hứa, rồi cáo biệt ra về.

 

   Cha Thanh mất cách đây ba năm trong một cơn bệnh nặng, khi vừa bốn mươi mốt tuổi, bỏ lại hai mẹ con, khi mẹ mới vừa ba mươi sáu còn Thanh đang bắt dầu vào mười sáu mà thôi. Một mình phải lo liệu tất cả, nào nhà cửa; một diện tích vườn khá lớn và còn phải nuôi con ăn học. Tuy, cực nhọc, nhưng bà cũng vượt qua và đã lo cho Thanh vào được Đại học Kinh tế ở Sài –Gòn gần một năm nay. Bà con thấy mẹ Thanh hiền hậu, đảm đang, còn trẻ, mẹ góa, con côi nên tìm cách giới thiệu cho ông Năm mua Dừa dạo ở xóm trên và một vài người khác, hầu giúp mẹ Thanh làm lại cuộc đời; có người hủ hỉ và giúp đỡ việc vườn tược phần nào.

 

   Trong số những người được giới thiệu đến để làm quen với mẹ Thanh, có người lớn tuổi hơn nhiều, có người trạc tuổi, có người nghèo, người khá giả và người góa vợ. Nói chung thì những người nầy được cái nọ, lại thiếu cái kia chẳng ai hoàn toàn hết. Qua thời gian lui. tới tìm hiểu thì mẹ Thanh quyết định chọn ông năm mua Dừa dạo. Sở dĩ gọi ông năm, chứ thật tình ông ta chỉ trạc tuổi cha Thanh mà thôi. Ông nầy có đặc điểm là hiền hậu, chân thật, góa vợ công ăn việc làm chỉ tạm bắng cái nghề mua Dừa dạo ở quê rồi mang ra thành bỏ mối lại cho những nhà chành bán sỉ, không giàu có như những ông chủ khác hay thường đến với bà.

 

Lần gặp mặt đầu tiên, sợ con giận, cãn ngăn nên bà đành nói dối với con, rằng ông là người mua Dừa dạo ngang qua định gạ mua Dừa nhà mình. Nhưng lần nào cuối tuần từ Sài-gòn về thăm nhà, Thanh cũng đều gặp ông ta trong căn nhà mình cả, chàng sanh nghi và từ đó mẹ Thanh cũng nói thật cho con biết hết. Bà ngỡ bước đầu con sẽ có thái độ không hài lòng, giận dữ. Ai ngờ! Chàng rất vui vẻ và đón nhận khi mẹ mình đã tìm được một hạnh phúc mới, trong lúc mình đi học xa, ở nhà có người bên cạnh chăm sóc mẹ, quả là tuyệt vời ( Thú thật thì điều nầy rất hiếm trong cuộc sống khi có một người con thông cảm hoàn cảnh cô đơn của mẹ mình).

 

  Khi Thanh đi khỏi, bà tâm sự hết lại cho ông năm nghe, từ đó mỗi lần về thăm nhà, gặp nhau, ông xem Thanh như con ruột của mình, đặc biệt ông có biệt tài là nấu nướng rất ngon như một tay Đầu bếp nhà hàng, mỗi khi Thanh về là ông bày biện các món cho Thanh ăn để bù đấp lại những ngày khổ cực nơi nhà trường và mỗi lần bận việc Thanh không về được, ông thay bà mang các thứ đi Sài-Gòn để lo cho Thanh suốt thời gian đi học mà chẳng một tiếng phiền hà; ngược lại Thanh càng quý trọng ông hơn; luôn  xem ông như người cha đẻ của mình vì ông là người chân thật, hiền hậu, bình dị, sẵn sàng với Thanh tất cả khi Thanh cần đến. Ngoài ra trong đời sống hàng ngày, ông tỏ ra là người chồng đắc lực, chăm sóc cho mẹ Thanh một cách nhiệt tình như cha Thanh ngày nào còn sống.

 

  Qua thời gian sống chung, rồi thành vợ chồng, bà con luôn nở nụ cười thân thiện và bảo rằng „Việc làm của mình giúp mẹ thằng Thanh thật không uổng công chút nào „ Và, trong cuộc sống ta là con, đừng nên ích kỷ chuyện của người lớn mà người ấy chính là mẹ mình. Đó là ta đã thể hiện được tình thương yêu nhân loại một cách chân chính.

 

Thủy Điền

23-7-2016

 

  

 

 

32-Yêu Đơn Phương

 

   Trong phiên tòa cách đây vài ngày. Tòa án tiểu bang Hessen- CHLB Đức đã phán quyết rằng: Bà Lorenz „Vô tội „ Lý do: Luật sư biện hộ của bà là ông Dr. Meyer, ông nầy cam kết là bà bị bệnh tâm thần hay nói khác hơn là „Khùng vô chừng „ Lẽ ra bà bị phạt ba năm tù ở về tội sỉ nhục một nhà tu.

  

   Bà Lorenz năm nay bảy mươi lăm tuổi. Tuy già, nhưng nhìn bề ngoài bà còn sức hấp dẫn và mạnh khỏe như người đàn bà trạc tuổi năm mươi. Năm 1990 sau khi bức tường thành Berlin bị phá vỡ, hai nước Đông và Tây Đức được hợp thành một quốc gia thống nhất. Bà từ Thành Phố Halle Đông Đức di cư sang một làng nhỏ thuộc tiểu bang Hessen Tây Đức để sinh sống. Ở đây hàng tuần vào ngày Chúa nhật và những ngày lễ thánh bà đều đến nhà thờ Josef để cầu nguyện, bởi bà là người rất ngoan đạo. Nhà thờ nầy do Linh mục Schmidt trụ trì gần ba năm nay. Lúc ấy Linh mục Schmidt còn rất trẻ khoảng ba mươi lăm tuổi và bà hồi ấy khoảng năm mươi tuổi.

 

   Sau những lần cha làm lễ xong, các con chiên thường hay đàm đạo với cha và những cộng sự viên trong nhà thờ rất thân mật như người nhà, trong những người ấy có bà và bà là người cũng được cha rất quí mến. Qua những lần gặp gỡ, trò chuyện bà cũng dành rất nhiều cảm tình với cha và kể từ năm hai ngàn thì bà bắt đầu để ý và thầm yêu cha trụ trì thật sự. Thật lòng cha trụ trì là người tu hành, vô tư và không hề hay biết chuyện tình yêu bà dành cho cha gí cả. Riêng bà thì bà chỉ yêu thầm (Đơn phương) Không bộc lộ, bà biết nói ra điều nầy thì cũng bằng không vì cha là người quá trẻ tuổi, hơn nữa là một vị tu hành.

 

   Tuy biết vậy, nhưng gì quá yêu cha nên sáng sớm nào khi mọi người còn đang ngủ, bà hay lén qua trước sân căn nhà riêng của cha đang ở và mang theo những vật dụng như củ, quả (Tất cả những thứ nầy đều thể hiện qua sự tình dục) Rồi nhè nhẹ đi về, vì nhà bà cách đó không xa.

 

   Cha thì sáng nào thức dậy cũng hay ra trước sân tập thể dục và đi quanh vườn nhà một vòng và ngày nào cha cũng nhìn thấy, bắt gặp những vật ấy nằm trong túi Ny-lon trong sân nhà mình. Vì là người tu hành cha chưa bao giờ nghĩ ra những ý nghĩ xấu như bà đang vỡ trò và cho rằng, có lẽ, những đứa bé hàng xóm nghịch phá, đem quăng sang nhà cha, nên cha chỉ biết lấy túi Ny-on lớn đi thu gom và cho vào sọt rác.

 

  Cuộc yêu đương mù hoán, đơn phương của bà dành cho cha trụ trì từ đó kéo dài suốt mười lăm năm trời mà chẳng ai hề hay biết. Chính cha là người trong cuộc mà cũng chẳng rõ chuyện gì đang xảy ra trong ngôi nhà thờ Josef nầy.

 

   Một hôm vì quá yêu cha, hơn nữa suốt mười lăm năm dài gợi tình mà cha vẫn hửng hờ, chẳng hề hay hấn gì cả, bà quyết định chơi ván liều xem thử thái độ cha như thế nào.

 

   Sáng sớm bà đội cái nón bành màu đen, mang cặp kín đen, mặc áo Man-ten màu đỏ không gài nút, bên trong hiện rõ chiếc áo ngực và chiếc quần lót màu hồng ngồi trước đầu chiếc xe hơi mà hàng ngày cha dùng nó để đi làm việc.

 

   Sáng tám giờ cha từ nhà ra xe, định lái sang Ủy ban Thành phố có ít việc liên quan đến nhà thờ. Bỗng dưng cha nhìn thấy có người đàn bà ngộ nghĩnh, quái gở ngồi trước đầu chiếc xe của mình, cha giận dữ, quây đầu trở vào nhà, ngồi một lát, người cha như bị xốc, khoảng mười phút sau cha bớt giận và đi ngược ra xe và mời bà nhiều lần đi nơi khác để cha còn đi làm việc, kẻo trễ. Nhưng bà nhất định không chịu đi và ngồi lì mãi nơi đầu xe mà chẳng nói lời nào. Qua nhiều lần năn nỉ bà hãy đi nơi khác, cũng như cha sợ những người láng giềng nhìn thấy, khó xử nên buộc lòng cha phải gọi điện thoại nhờ Cảnh sát đến can thiệp.

 

   Mười lăm phút sau, hai chiếc xe Cảnh sát lao tới can thiệp và mời bà về Ty Cảnh sát để làm việc. Hỏi ra? Tại sao bà dám làm những điều như thế. Bà trả lời, vì bà quá yêu cha và đã yêu thầm suốt mười lăm năm nay và muốn được làm vợ cha. Cả phòng Cảnh sát điều tra nghe xong, ai cũng cười và lắc đầu, không chịu nổi. Tại sao? Lại có chuyện lạ kỳ trên cõi đời nầy.

 

   Tuy thông cảm những lời khai của bà, nhưng nhiệm vụ của Cảnh sát là phải bảo vệ luật và đành phải lập biên bản và giải bà sang Viện kiểm sát để điều tra tiếp. Cuối cùng Viện kiểm sát lập hồ sơ tố tụng và thưa bà ra toà xét xử.

 

   Hơn một tháng tạm giam về tội vi phạm phá rối xã hội và vi phạm đạo giáo, bà được đưa ra vành móng ngựa để nghe toà phán quyết. Cuộc tranh cãi rất gay cấn giữa hội đồng Viện kiểm sát và phía Luật sư biện hộ.

 

   -Phía Viện kiểm sát cho rằng, bà đã vi phạm luật nhà thờ và tự động sỉ nhục một nhà tu trước công chúng.

Đề nghị: Ba năm tù ở:

   -Phía Luật sư biện hộ bênh rằng, bà là người lúc tỉnh, lúc mất bình thường hay nói cách khác, bà đang bước vào giai đoạn bệnh tâm thần nặng, nên sự suy nghĩ không chính chắn và làm những điều xấu xa trên. Bệnh nầy cần phải nhập Viện ngay để điều trị và không thể nào bỏ tù một người đang bệnh được và nhất là bệnh tâm thần.

 

   Hai bên cứ dằng co gần một giờ đồng hồ, hồi đầu toà ngã phía Viện kiểm sát, nhưng sau đó tòa nghe phía Luật sư biện hộ giải thích có lý, đúng nên tòa đề nghị chấm dứt phiên xử hôm nay và tuyên bố bà vô tội và yêu cầu các cơ quan thẩm quyền phải đưa bà vào bệnh viện tâm thần ngay để trị chữa và tòa củng nói thêm nếu sau khi hết bệnh, trở về mà còn tái phạm bà sẽ lãnh án từ năm năm trở lên về tội „Cố ý „ . 

 

   Khi tòa tuyên bố trắng án, bà con tham dự phiên tòa vỗ ghế rầm rầm, xì xào, câm phẩn và la to „ Một con Chiên đã sỉ nhục một Linh mục, cha bị mất Danh dự. Tại sao? Lại xử trắng án, bất công, không thể chấp nhận được „

 

   Mọi người ra về mà lòng hậm hực và bảo „Con mụ nầy trước sau cũng ở tù năm năm trỏ lên, nếu cha Linh mục còn trụ trì nơi đây „ .

 

Thủy Điền

19-7-2016

 

 

 

 

31-Tiếng Ò, E

 

  Một dãy nhà tám mái, lộp bằng cọng Năng rừng, nằm dọc theo con sông nhỏ được nối liền đoạn cuối của Đồng tháp mười – sông Bảo Định. Những dãy nhà nấy đến đây tản cư hồi những năm chiến tranh bắt đầu lớn dần 1966- 1967.

 

   Ngày xưa vùng đất nầy là một dãy bàu nửa bùn, nửa đất, lõm chõm, vô chủ, cây lát mọc um tùm. Họ là những người sống trong vùng giải phóng vì bơm , pháo cứ trút, nã đạn hàng ngày, chịu không thấu đành phải ra vùng quốc gia tạm lánh. Bước đầu họ định ở tạm, khi nào êm giặc sẽ về lại, nhưng chiến tranh càng ngày càng ác liệt hơn và những đứa con của họ cũng lớn dần, lập gia đình, già đi, nên họ đành ở lại luôn và cho đây là quê hương. Từ miếng đất vô chủ, sau thời gian lập nghiệp bây giờ chính phủ cấp giấy và cho họ quyền sở hữu.

  

   Cuộc sống của họ rất đơn giản, hằng ngày chồng vào bưng nhổ Bàng, đốn củi, soi cá về bán, còn vợ ở nhà đan giõ xách đệm lây lất qua ngày. Họ sống ở đây một thời gian dài rất êm đềm và thanh thản, mối tình láng giềng rất đoàn kết, yêu thương như đang sống trong quang cảnh thanh bình nho nhỏ.

  

    Sau giải phóng hai năm, bỗng dưng có năm ba gia đình người bắc không biết từ đâu đến, lúc đầu dựng lều chỏng, sau cất nhà tạm bợ ở đối diện phía bên kia sông. Những người nầy sống bằng nghề nuôi vịt và họ nuôi rất nhiều con, có người nuôi vịt đẻ, có người nuôi vịt thịt. Cứ mỗi sáng sớm là họ lùa ra cánh đồng gần đó để cho ăn và chiều khoảng bốn, năm giờ là họ lùa về và cứ thế hết ngày nầy qua tháng họ. Sau thời gian làm việc, chiều về những người đàn ông tề tụ bên nhau bằng những xị rượu trắng và khảy đàn bầu, thỉnh thoảng hát những bản nhạc đỏ như „Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây. Cô gái Quan Họ v…v “ nghe vang dội hai bên bờ sông.

  

   Lúc ban đầu những người dân nơi dãy nhà tản cư nghe là lạ, chiều nào bà con sau khi ăn cơm xong cũng hay thường bắt cái ghế đẩu ngồi trước hiên nghe. Sau gần hai tháng ngày nào cũng như thế bà con bắt đầu bực bội, khó chịu, vì những người lớn tuổi ngủ không được, sáng sớm còn phải thức dậy bơi xuồng vào bưng để đốn củi và nhổ Bàng về để sinh sống, công việc khá cực nhọc. Riêng mấy lão người bắc thì chẳng nhằm nhò gì, cứ mỗi sáng tinh sương chỉ lùa vịt ra đồng rồi tìm bóng cây nào đó làm một giấc ngon lành mà chẳng phải lao động gì cả, thậm chí có người lùa ra đó rồi giao cho ông trời trông chừng giùm và quây ngược về nhà ngủ tiếp.

  

   Qua mấy lần thương thảo, số người tản cư đề nghị mấy lão người bắc nên giảm tốc độ ò e lại hay nghỉ sớm trước giờ đi ngủ để sáng mai còn phải làm việc. Mấy lão lúc tỉnh thì vâng vâng, dạ dạ cho suông rồi khi rượu vào thì tiếng ò e ấy vẫn vang dội.

  

   Có lần hai bên bất đồng, sanh cãi giả nhau, mất đoàn kết, chính quyền đến can thiệp, được êm hơi đâu ít ngày và chuyện cũ bắt đầu khơi nóng trở lại.

 

   Người miền nam tuy hiền hòa, chất phát nhưng rất nóng tánh. Một hôm khi không còn thương thảo được nữa, họ kéo nhau sang sông và tấn công mấy lão người bắc một trận tơi bời, thậm chí tịch thâu hết mấy cây đàn của người ta mang từ bắc vào nam, đem về đập nát ra từng mảnh nhỏ, thật là quá đáng vô cùng và cứ đổ thừa rất nhiều cho những cây đàn ấy vì gợi lên những tiếng ò e mà lại không chịu đổ tội cho mấy lão đàn nó.

  

   Tội cho cây đàn bầu, lúc thích thì thương, lúc buồn thì mang ra đập nát.

 

THỦY DIỀN

16-7-2016

 

 

 

 

 

 

30-Chạy Làng

 

    Cả bảy tháng nay, sáng nào nó cũng lởn vởn hết quán Cà-Phê nầy đến quán Hủ Tiếu khác trước lộ cái cho đả đời, rồi về tắm rửa, mặc quần áo mới, lái chiếc Hon –Da đi đâu không biết, mãi đến chiều tối mới mò về hoặc ngủ tại đâu đó luôn, thậm chí hai, ba hôm sau mới về nhà. Làm bà con trong xóm cũng hơi ngạc nhiên và bảo „Con nhỏ nầy Việt kiều bộ bên ấy không có việc gì làm sao mà về đây ở lâu thế. Thường Việt Kiều người ta về một tháng hoặc sáu tuần là hết ga rồi lại đi và lâu lâu hai, ba năm mới quay về lại lần nữa. Còn đàng nầy nó cứ ở miết nơi đây, chắc là có vấn đề ? Nếu thương gia về đầu tư ở lâu thì không nói, riêng nó chẳng thấy đầu tư, đầu bốn gì cả, toàn là ăn no và đi lỏng nhỏng tối ngày.

 

   Hồi tháng hai năm rồi, nó từ Mỹ về cùng mẹ nó, lúc đầu bảo là về ăn tết xong rồi đi. Ai ngờ khi ăn tết xong chỉ có mình mẹ nó về Mỹ, còn nó thì ở lại và bảo vì vui quá nên ở lại thêm vài tuần nữa, bà con ai cũng nghĩ thế, vì nó còn trẻ ham vui nên việc nó ở lại mọi người không để tâm lắm và cho đó là chuyện bình thường. Nhưng rồi hết ngày nầy, qua tuần nọ thời gian kéo dài hơn bảy tháng nay cái gì rồi giây phút buồn, cũng nho nhỏ tâm sự cho người thân nghe để khuây khỏa trong lòng và dần dà những lời tâm sự ấy lan truyền đi khắp xóm. Kể cả đứa con nít bây giờ cũng biết.

 

  Năm nó mười hai tuổi theo gia đình sang Mỹ định cư theo diện HO. Khi qua Mỹ nó vào học tiếp bậc trung học, nó học rất giỏi, lẽ ra nó phải học tiếp để lên bậc Đại học. Nhưng nó và chị nó quá nghe lời mẹ, thôi học hết lớp mười nghỉ đi, con gái mà học cao làm gì, nay, mơi có chồng, sanh con ở nhà thì cũng vậy thôi và cuối cùng hai chị em xin vàò tiệm Nail của người Việt gần đó học nghề- rồi hành nghề luôn, tiệm đắc, đông người chị em nó làm việc từ sáng đến tối, mỗi ngày mỗi đứa kiếm trên một trăm Đô la. Mỗi khi lãnh tiền về là mẹ nó điều quản lý cả, kiểu cách của bà giống hệt như những bà mẹ còn ở Việt Nam và ngược lại hai chị em nó nghe lời bà răng rắc. Bởi thế, khi có tiền trong tay của các con mang về, mẹ nó tha hồ sử dụng, năm nào bà cũng về Việt Nam và tỏ ra mình là người ở Mỹ rất giàu có như mua gạo làm từ thiện, cho tiền những người nghèo và xây cho chị hai nó một căn nhà ba tầng nổi trội trong thôn. Chính những hành động ấy bà con trong thôn cứ nghĩ môt cách cạn cợt„ Ai mà sang đưọc Mỹ là giàu cấp kỳ „

 

  Sau năm năm làm việc, chị nó lập gia đình với người Mỹ và ra ở riêng và không làm nghề Nail nữa, chỉ còn lại có một mình nó vẫn bám trụ với tiệm Nail tới cùng, càng làm lâu nó càng thân thiện với bà chủ, bà xem nó như em út trong gia đình. Năm 2008 bà bị Sở Tài chánh Mỹ truy thuế cũng như bao tiệm Nail khác, bà gặp khó khăn, bị phạt vạ với số tiền quá lớn nên đành phải nghỉ việc và tìm cách tẩu thoát. Trước khi tẩu thoát bà gạn bán cho nó với giá rẻ và trả góp hàng tháng hầu còn vớt vát được chút cháo hơn là bỏ không. Đây là cơ hội được làm chủ một tiệm Nail và kiếm được nhiều tiền hơn nên mẹ nó bảo nó nhận mua đi. Ngoài ra cở như nó không bao giờ thành lập được tiệm Nail với giá gần một trăm ngàn Đô La .

 

  Kể từ ngày nó lên làm chủ y như Diều gặp gió, tiệm tùng rất đông khách, tiền vô như nước, muốn làm gì cũng được, nó dám bỏ gần mấy chục ngàn Đô La lãnh trọn gia đình chị hai nó bốn người sang Mỹ ở luôn theo diện di dân và mẹ nó mang số tiền rất lớn về Việt Nam cất trên nền nhà cũ một căn nhà thật lớn, tiện nghi đầy đủ như ở Mỹ và bỏ trống hàng năm chỉ về ở vài tháng rồi đi.

 

  Công việc trôi chảy hơn năm năm, gia đình nó sống như Hoàng so với các gia đình khác cũng sang Mỹ theo diện HO. Rồi chuyện gì cũng đến, chính phủ Mỹ đâu có để yên cho ai đâu, hể tới ngày giờ là họ vẫn tiếp tục truy thuế và nó rơi vào tình cảnh như bà chủ cũ mà không cách nào tháo gở đưọc, số tiền trốn thuế cộng số tiền bị phạt lện gần hai trăm ngàn Đô La và thời gian phải thanh toán cho Sở Tài chính trong vòng ba tháng, nếu không thi hành đúng cuộc hẹn nó sẽ phải ra tòa và vào tù ngay.

 

  Trước thời hạn thanh toán một tháng nó bay cùng mẹ nó về Việt Nam trốn, mượn cớ là ăn tết và tìm cách ở lại Việt Nam để tránh trả số tiền và tù tội. Trong lúc về Việt Nam nó bỏ lại thằng bồ Mỹ mà nó yêu hơn hai năm nay. Về Việt Nam nó cũng khôn lanh lắm, sau một tháng ăn tết nó làm quen và yêu ngay một anh Công an trẻ trạc tuổi nó và tỏ ra yêu chân thật và có thể tiến đến vợ chồng. Anh Công an ngỡ mình như trúng số Độc đắc nên cũng yêu tha thiết và cho rằng dễ gì con gái Việt kiều mà yêu thanh niên Việt Nam, xưa nay chỉ có con trai Việt kiều cưới con gái đẹp Việt Nam thì nghe còn có lý.

 

  Những sự việc nó làm bà con trong thôn làng điều ngạc nhiên và đánh dấu hỏi? Dường như có vấn đề. Nhưng chuyện nhà ai thì người đó biết và lâu ngày thành quen thuộc, nên người ta chẳng thèm để tâm, để ý đến nữa và xem nó như con bé ngày nào không sang Mỹ theo diện HO.

 

  Nhưng chuyện gì đen tối, xấu làm sao mà dấu được, bảy tháng sau trong buổi tiệc đám cưới, người nhà của nó quá chén vô tình hé miệng cho người bạn thân nghe và từ đó cả xóm làng ai cũng biết nó đang chạy làng về Việt Nam.

 

Thủy Điền

 

14-7-2016

29-Mối Thù Sau Sáu Mươi Năm

 

   Sau một đêm thức trắng, xong công việc, bà Ranger ngồi ngã người trên chiếc ghế bành nơi phòng khách, tay nâng cốc rượu Vin, miệng vừa nói „Mình tuy ác thật, nhưng dầu sao đi nữa cũng đã trả được mối hận hơn sáu mươi năm qua „

 

  Bà Ranger là người Cộng Hòa Dân Chủ Đức, năm mười tám tuổi làm quen được Linder trong buổi tiệc liên hoan nơi trường học, rồi từ đó hai người yêu nhau tha thiết, hẹn hò sau khi học xong sẽ lấy nhau làm chồng vợ. Bao lời hứa là niềm hy vọng lớn lao của hai người, trong thời gian yêu nhau họ thường đưa nhau về nhà ra mắt cha me, anh em và họ hàng. Cả hai bên gia đình đã chấp nhận và đồng ý cho hai đứa tiến sâu hơn.

 

  Linder là người rất giỏi về môn bơi lội, năm lớp mười hai chàng được mời vào đội tuyển quốc gia đi thi đấu giải bơi lội Châu âu được tổ chức tại Hung Gia Lợi, trong thời gian tập vợt ở trường bơi quốc gia gần hai tháng trước khi đi thi đấu, tình cờ mỗi ngày đến nhà ăn tập thể chàng quen được cô tiếp viên của hội quán bơi lội và hai người có cảm tình với nhau. Biết rằng đây là sự đau buồn cho Ranger, nhưng chàng nghĩ chỉ quen sơ, sau khi thi đấu xong thì đường ai nấy đi. Nhưng không ngờ ! Cô gái tiếp viên Walter để ý và yêu chàng thật mà chàng không hay.

 

   Sau một tháng trời thi đấu tại Hung Gia Lợi, đoàn bơi lội của Cộng Hoà Dân Chủ Đức đã đoạt được giải nhất (Huy Chương Vàng) Ngày trở về xuống máy bay tại Thũ đô Đông Berlin, hàng ngàn người cầm cờ, hoa ra đón, trong số người ấy có Ranger và Walter. Giữa Ranger và Walter chẳng ai biết ai cả, mỗi người chỉ biết Linder là của riêng mình mà thôi. Khi lên khán đài làm lễ xong, Walter đứng phía trước nhẩy lên cùng bao người yêu khác của các thành viên trong đoàn choàng vòng hoa và ôm hôn lia lịa, đắm say, Linder nghĩ Ranger không đến nên chàng cứ mãi miết bên Walter. Ai ngờ ! Ngày hôm ấy Ranger cũng có đến và đến thật sớm ôm bó hoa định tặng người mình yêu, vì bản chất nhút nhát nên nàng đứng phía sau và từ từ, chính gì những khuyết điểm ấy mà người ta đã hốt trước người yêu của mình. Khi nhìn thấy Linder và Walter quá tha thiết nên nàng đành quây mặt và ôm đóa qua ra về, đi khoảng năm chục mét nàng dụt bó hoa xuống đường mương, nỗi câm hận ghen tức tràn dâng lên, nàng thề sẽ trả thù cái con người bội bạc Linder dù sớm hay muộn thì nàng mới hả giận.

 

   Đúng như lời hứa Ranger tìm mọi cách để hãm hại chàng, nhưng đều bất thành, năm hai mươi tuổi Linder bị động viên vào quân đội và làm nghề Huấn Luyện Viên bơi lội cho lính. Công việc cứ thay đổi, chàng đi hết quân trường nầy đến quân trường khác nên Ranger dù tính toán, kế hoặch hãm hại đến đâu cũng đều bất thành.

 

   Hai năm sau khi đoạt giải vô địch bơi lội tại Hung Gia Lợi Linder và Walter kết hôn với nhau được ba người con. Walter vẫn còn làm việc tại hội quán bơi lội quốc gia và Linder thì đi hết nơi nầy đến nơi khác.

  

   Năm sáu mươi tuổi chàng được nghỉ hưu và Walter cũng thế, nhưng trước đó ba năm, hai người vẫn sống nơi căn nhà cũ của cha mẹ để lại, hàng ngày chỉ biết đi dạo, đọc báo, rồi ăn, ngủ cho đến cuối cuộc đời.

 

   Ngỡ cơn giận lâu ngày sẽ qua đi, thỉnh thoảng Linder cũng còn nhớ đến Ranger vì nàng là mối tình đầu, bởi định mệnh trớ trêu nên hai người không được gần nhau. Nhưng không ngờ cái trớ trêu ấy chính là mối thù suốt cả cuộc đời mà Ranger vẫn mang trong lòng.

 

  Một buổi sáng mùa đông, tuyết phủ, khi mọi người còn ngon giấc, Linder mở của cái, thoạt tay lấy tờ báo vào đọc, uống Cà-Phê như thường lệ, bỗng một cái „Chát“ Và, viên đạn vô tình ấy đã cướp đi mạng sống cũa Linder trong chớp nhoáng.

 

  Cảnh sát và Chính quyền đến ăn kết rồi điều tra thủ phạm. Kết quả gần năm năm trời mà cũng chẳng tìm ra tung tích gì cả, cuộc tìm kiếm phạm nhân như mò kim đáy biển.

 

   Năm Ranger vừa tròn tám mươi tuổi, gia đình tụ tập mừng lễ sinh nhật thật vui say, thì ngày hôm sau bà ra Ty Cảnh sát thú tội là bà đã tự bắn Linder ngay buổi sáng hôm ấy, để tránh tội cho người khác bà không khai ai hết, mặc dù cảnh sát không tin, nhưng bà nhất nhất nhận tội và cuối cùng ra tòa bà lãnh án chung thân. Sau khi nhận án bà cười và cho rằng trong lao tù sẽ không lâu bà sẽ cùng Linder làm lại cuộc đời.

 

Thủy Điền

12-7-2016

  

 

 

 

 

28-Xưa và Nay

 

Chiều cuối tuần, thứ bảy, 22 giờ đêm mọi người bắt đầu tắt Tivi và chuẩn bị đi ngủ. Bỗng dưng trước cổng quán Karaoke xảy ra một cuộc ấu đả đẫm máu giữa hai băng giang hồ khét tiếng.

 

   Trong đêm, vì tình hình bất ổn nên chẳng ai dám thò đầu ra sân. Sợ vô tình va chạm đến mình. Sáng sớm ra, thì cả cái quán Karaoke to lớn bị tanh banh hết, bàn ghế gẩy đỗ, bay tứ tung. Theo một vài ghi nhận thì giữa hai băng nầy chẳng có xích mích và thù oán gì cả. Họ đập nhau là vì tiền. Sỡ dĩ xãy ra vụ việc là gì quán nầy cách đây gần một tháng có nhóm giang hồ địa phương đến ăn nhậu quỵt và còn đòi hỏi chủ nhân phải đóng thuế đen. Hồi đầu chủ nhân vì công ăn, việc làm nên nhịn nhục và đóng một số ít. Vì ăn quen nên bọn chúng cứ kéo nhau đến liền xì và khách hàng càng ngày càng sợ, lánh xa. Bực mình, chủ nhân đành phải bỏ một số tiền lớn đi Thành phố mướn một băng giang hồ khét tiếng để trị bọn chúng.

 

   Ở Thành phố nói chung thì rất nhiều băng nhóm chuyên sống về nghề đánh và giết mướn, bởi một khi ai cần đến, thuê đúng giá thì họ sẽ ra tay ngay, ngoài ra họ chẳng thù oán ai, hình thức như một Công ty dịch vụ (Nhưng trái phép) Họ không cần biết nguy hiểm sẽ như thế nào và tận nơi đâu. Miển khi đã thỏa thuận xong giá cả và hẹn ngày giờ thì họ sẹ lập tức đến và thi hành đúng hợp đồng đã thỏa thuận.

 

   Ông chủ quán đi ngõ sau, bọn giang hồ địa phương đâu có biết, nên đêm nào bọn chúng cũng chờ trời tối  là vào ăn nhậu, yêu cầu, nếu không thỏa mản là quậy phá. Khi bắt đầu vào sự việc, ông chủ chỉ đứng phía ngoài giả vờ như không biết chuyện gì sắp xãy ra, nhiệm vụ của ông là chỉ cần liếc mắt, thế là đám giang hồ Thành phố nhào vô tấn công. Mả tấu, lưỡi lê, dao, kiếm tha hồ tung hoành trên chiến địa, máu đổ, đầu rơi cả bọn hè nhau chạy thoát thân và vài hôm sau chúng còn nhận được sự chia buồn của ông chủ và ông chủ cũng nói rằng ông không ngờ lại có đám ác ôn từ đâu kéo đến phá tan quán của ông ta. Thật gian ác vô cùng.

 

    Sau trận ấy, chúng không thằng nào dám lánh hé đến quán Karaoke của ông nữa. Bởi, những lời hâm dọa ghê gớm của đám giang hồ Thành phố. Nhờ vậy mà ông chủ quán Karaoke bình an và hoạt động trở lại bình thường. Thật tình đó là thủ đoạn của người làm ăn, những người ngoại cuộc  làm sao hiểu nổi sự toan tính của họ. Họ chỉ nghĩ đơn giản sự mâu thuẩn nào đó nên mới xãy ra sự việc khủng khiếp như thế. Và, họ cũng đâu hiểu hết xã hội ngày nay lại khác xưa rất nhiều. Ngày xưa, những người giàu có rất sợ dân giang hồ. Hể mỗi khi họ đến hâm dọa, trấn áp là hoảng sợ và dâng tất cả những tài sản của mình cho chúng để giữa thân. Thậm chí còn dung dưỡng, giấu giếm, không báo cho Chính quyền để chúng tiếp tục trấn áp kẻ khác. Đây là một điều thật đáng trách. Còn ngày nay là thời đại khác, Giang hồ rất sợ những người nhà giàu, nếu bọn nầy nhúc nhích là họ bỏ tiền ra mướn đám gạo cội hơn từ nơi xa đến để trừng trị và tiêu diệt ngay. Hành động nầy cũng đáng trách hơn là những người nầy vì ích lợi cá nhân mà vô tình tạo điều kiện cho đám người xấu càng xấu thêm. Và, đặc biệt họ chỉ toàn ăn hiếp kẻ nghèo, thế cô như đòi nợ mướn, trấn lột lẻ tẻ mà thôi.

 

 

Ngày xưa chén kiểu hạt dưa

Đương nhiên phải sợ miễn dùa ghé thăm

Mang dâng của quí đứng, nằm

Mua thân, bảo xác tránh phần hiểm nguy

 

Ngày nay lại khác. Có gì !

Kẻ giàu lắm bạc, xuất chi mướn người

Cá to ăn sống, nuốt tươi

Cá bé là chỉ miếng mồi tặng dâng

 

Xưa nay hai chữ cạnh tranh

Dành cho thương mại, giờ dành Đại ca.

 

Thủy Điền

27-01-2017 

 

 

    

 

 27-Lúc Hết Thời

 

   Hai tuần nay, kể từ ngày nhập viện và được trở về nhà, vết thương ở đầu gối chân phải của bà Hiền dần dần được bình phục, nhưng thỉnh thoảng còn nhức . Một tay bà cầm cây gậy, một tay tựa bức tường lần mò ra phía hiên nhà rồi ngồi bệt trên chiếc ghế dài vừa thở, vừa lau mồ hôi trán, vừa than giảnCon cái thì đông, anh em, dòng họ, bà con thì chẳng thiếu. Thế mà nằm viện mổ xẽ hết một tuần cũng như về nhà cả tuần nay tổng công là nửa tháng thế mà chẳng thấy ai đến thăm hỏi một lời, thật số sao mà hẩm hiu vô cùng „.

 

   Trước tháng 4 năm 1975 bà là vợ lính, nghèo, như bao bà vợ lính khác, chỉ biết ở nhà làm nội trợ, nuôi con và chờ đúng tháng là ông mang tiền lương về để sinh sống, ngoài ra không còn một khoảng thâu nhập nào khác. Được một cái là năm nào bà cũng sản xuất cho ông một thằng cu tí hay một tiên nữ đều đều. Hồi ấy bà còn trẻ, độ ba mươi tuổi ngườii rất hiền lành, dễ thương nên người ta đặt cho bà cái tên là Hiền, thật sự trong giấy tờ thì bà tên là Nguyễn thị Út Chót.

 

   Sau ngày đất nước hòa bình, ông về cùng bà tạo dựng lại cuộc sống như những người lính rã ngũ khác, ông làm hết chuyện nầy, đến chuyện khác mà cũng không đủ sống. Nhà ông ở không xa phần cuối của Đồng Tháp Mười, nơi ấy có rất nhiều Bàng lát, loại Bàng nầy người ta cắt về, phơi khô, giã bằng chà hoặc cán, ép bằng máy, rồi đan thành những chiếc giõ xách tay, tấm đệm ngũ, phơi luá và những chiếc nón bành dành riêng để đội. Tuy những vật dụng nầy không sử dụng được lâu, nhưng cũng là một thứ vật thể góp phần cho cuộc sống. Vì túng quá, ông nghĩ ra cách cắt Bàng về bán cho thiên hạ làm ra những sản phẩm trên. Thật trời cũng thương, ngày nào ông cũng đi làm và kiếm được khá tiền về nuôi mười đứa con no đầy. Hồi đầu ai cũng nghĩ, chê, ba cái thứ ma nầy mọc cho chật đất cả ngàn năm nay, nhưng thấy ông làm được chuyện, thiên hạ ùng ùng bắt chước làm theo. Thế là hàng càng ngày càng nhiều, giá thành bắt đầu tuột xuống, sự thu nhập của ông dần dà bất ổn và những người khác cũng chẳng kiếm được bao nhiêu tiền,

 

   Kẻ đi trước bao giờ cũng khôn ngoan và lanh lợi hơn kẻ đi sau một bước. Khi tình thế thấy không kham, ông chuyển sang làm thầu và không đi cắt Bàng nữa, chỉ cất cái trại to, không vách, thâu gom tất cả những người muốn bán lẻ và chở sang nơi khác bán với giá đắc hơn. Công việc rất thuận lợi, càng ngày gia đình ông càng phình ra mọi mặt, có thể nói là giàu sang có hạng trong thôn.

 

   Sau những năm dài làm việc, vì thức khuya, dậy sớm, ăn uống bất thường, uống rượu, hút thưốc nhiều nên ông ngã bệnh và qua đời ở tuổi năm mươi lăm, khi ông mất bà và các con lên thế, vì là người giàu có, và là chủ cả lớn trong thôn bà tự dưng đổi tánh hay mắng nhiếc kẻ làm công, nói nặng người bán hàng, không còn coi thiên hạ như ngày nào, cả những đứa con của bà cũng thế, hùa theo mà không biết ai lớn, ai nhỏ, giờ có tiền trong tay coi trời như hạt cát. Sỡ dĩ người ta vâng vâng, dạ dạ là muốn bán được hàng cho gia đình bà chứ thật lòng khi ra khỏi cửa họ câm thù vộ hạn.

 

   Công việc trôi chảy tiếp được hơn mười năm, các con giờ đã lớn chúng lập gia đình và ra ở riêng chỉ còn lại một mình bà lo toan mọi việc từ trước đến sau và cuối cùng đến năm 2000 cái đầu gối của bà xem như bị hỏng, đến Bác sĩ họ bảo phải mổ và thay bằng đầu Inox thì mới có thể đi đứng tạm được, nhưng phải mất rất nhiều tiền, từ lúc bị bệnh, cho đến khi nằm viện về nhà tất cả là hai tuần bà như kẻ neo đơn không ai đến hỏi thăm, giúp đỡ, chia sẻ, chỉ có y tá mà thôi. Khi nghe bà lâm nạn, lẽ ra trong gia đình, dòng họ phải kéo nhau đến lo cho bà được cái gì đỡ cái nấy. Ai ngờ ! Ngược lại mọi người đều làm ngơ, tránh xa, quây mặt mà chẳng chút tiếc thương, vì trước đó bà đã cố tình đối xử với khách hàng, dòng họ, anh em  rất là thậm tệ, không lời nào trách nổi, hàng ngày bà chỉ biết tiền- tiền, ngoài ra không cần biết chuyện khác.

 

    Tuy biết người khác bỏ rơi, không đến với mình nữa, nhưng bà cũng vẫn cứ than thở cho khuây khỏa trong lòng trong những lúc cái đầu gối trở cơn nhức nhói.

Thủy Điền

Ngày 10, tháng 7, năm 2016

 

 

 

 

 26-Cảm Ơn Một Tấm Lòng

 

          Đứng chờ xe về Thủ dầu một, sáng sớm đói bụng, ngó nhìn quanh thấy quầy bánh mì thịt tên „Chín ngón „ bèn hỏi? Bác bán cho cháu một ổ bánh mì thịt. Bà bán bánh mì hỏi? Cậu có ăn ớt không. Dạ có, ổ bánh mì bao nhiêu vậy bác ? Một đồng rưởi cậu.

   Tháng 02, năm 1980. Thời gian  sáu tháng đi thực tập tay nghề Cán bộ Kỹ thuật Địa chất tại Ty Thủy lợi Sông bé. Thường ba tuần trở về thăm quê nhà một lần vào cuối tuần. Bắt đầu chiều thứ sáu đi và phải có mặt tại Ty vào chiều Chúa nhật. Nói chung sau những giây phút về nhà thì nghỉ ngơi trọn ngày thứ bảy thật cũng đủ lắm rồi và sáng sớm ngày Chúa nhật là lo lật đật trở về nhiệm sở.

   Sáng đúng sáu giờ là đón xe đò từ Tân Hiệp đi thành phố Hồ Chí Minh đến  nơi loanh quanh cũng mất cả giờ đồng hồ. Sau đó đón xe Bus tiếp đến xa cảnh Miền đông cũng khoảng ba mươi phút. Thời gian còn lại là đi xe lô Minh chánh về Thủ dầu một cũng mất thêm một giờ nữa. Đường xá thì không xa chỉ mười sáu cây số là đến nơi, nhưng vì bác Tài xế phải ngừng đi, ngừng lại nhiều trạm cho khách lên xuống.

   Trong lúc đứng chờ xe, đói bụng, nên ghé qua quầy bánh mì bên cạnh mua ổ bánh mì thịt ăn cho đỡ dạ. Không ngờ ! Qua câu hỏi của Bác bán bánh mì, cứ vâng vâng, dạ dạ mà không để ý, nên bác ngỡ và bỏ quá nhiều ớt vào ổ bánh mì, cay thật cay, ăn thật ngon. Nhưng rồi sau đó phải đành ôm hận về đến Thủ dầu một. Lòng thầm, bà bán bánh mì nầy ác thật, có bỏ ớt thì cũng vừa vừa, phải phải  thôi, đàng nầy bà bỏ gần cả trái ớt hiểm vào. Ăn giữa chừng, nếu

lấy bớt ra thì cũng cay, mà để y nguyên thì cũng cay. Vì tất cả đã thấm vào ổ bánh mì rồi cả rồi.

   Ăn xong ổ bánh mì, uống chai nước lả tưởng rằng mọi chuyện sẽ yên. Ai ngờ ! Khi lên xe khoảng mười lăm phút sau, cuống họng bắt đầu biến chứng, cứ ừng ực liên hồi. Ngồi trong chuyến gần mười người thật vô cùng xấu hổ, nhưng biết làm sao bây giờ khi bao tử chứa gần một trái ớt hiểm. Chuyến xe qua khỏi Thị nghè một đỗi, có cô gái đi bán hàng về ngồi bên cạnh cứ nhìn mãi, nên đành quây mặt sang nơi khác. Có lẽ cô ta cũng bực mình lắm.

   Cô quây sang hỏi? Cô có thể chỉ cách cho để khỏi phải ừng ực nữa. Được không? Thì cô cứ tự nhiên chỉ đi có gì đâu mà ngại. Cô bảo, anh hít mạnh một hơi vào, rồi thở nhẹ từ… từ. Nghỉ hai giây anh lập lại lần nữa, rồi nghỉ ba giây lập lại lần nữa, tôi nghĩ anh sẽ hết ừng ực ngay. Thấy cô chỉ thì nghe cũng có lý, cám ơn, nhưng hơi quê mình đàn ông mà xấu tính thế, rồi quây mặt ra ngoài cửa sổ len lén làm thử. Sau ba lần như cô ta nói, quả thật cơn ừng ực dần dần thuyên giảm. Xe gần đến Lái thiêu cô khiều khiều hỏi tiếp ? Sao anh thấy có khỏe không.

Dạ, cũng đỡ dần, cám ơn cô.

   Trên đường về Thủ dầu một cũng không còn xa lắm. cô ta cứ nhìn chăm chăm, dường như thương hại và đã giúp người khác được điều gì.

    Chuyến xe dừng, cô leo xuống và nói. Nhà tôi đó, cách hai ngõ hàng tre, khi nào anh……. thì cứ ghé qua, tôi sẽ giúp anh. Chào anh nhé và chiếc xe nổ máy lao nhanh về hướng Thủ dầu một.

    Đoạn đường về Ty lòng cứ mang máng, ở đời nhiều lúc cũng có những sự ngẩu nhiên, tốt bụng.

    Một tuần sau, thứ bảy, định ghé lại thăm, làm quen và cảm ơn. Nhưng suy nghĩ trong cái cảm ơn, vô tình làm cho cả mình và người khác khó xử, nên đành thôi và hay nhất ta đừng bao giờ quên „Một tấm lòng

 

 

 

 

 Nửa Chừng Xuân

 

        Từ đầu làng, đến cuối xóm. Ai ai cũng trách phiền con Bé năm sau mà tệ thật. Chồng thì chết, con ba bốn đứa nheo nhóc, nhà thì nghèo không chịu lo. Cứ tối ngày lên Chùa làm công quả. Biết rằng làm điều ấy là tốt, nhưng phải lo cái bụng, cái nhà mình trước đã. Còn đàng nầy…. ….thật không sao hiểu nổi.

   Năm mười tám tuổi nó thi đậu Tú tài, rồi định thi Đại học. Nhưng vì nghe lời thằng bồ nó cũng vừa đậu Tú tài, thôi em đừng đi học nữa, ở nhà chờ anh đi lính, học khoá Sĩ quan Thủ Đức chín tháng xong, ra trường anh về cưới em, rồi hai đứa mình đi nơi khác mà sinh sống.

   Đúng như lời hứa, sau khi học xong Thủ Đức chín tháng, Thanh được đưa về Tiểu đoàn Địa phương quân, đóng quân tại quận Bến Tranh tỉnh Định Tường. Được nghỉ phép một tuần trước khi ra đơn vị, Thanh về gia đình bảo cha mẹ chuẩn bị cưới Bé năm và sau đó đưa Bé năm về Mỹ tho ở cho gần đơn vị.

   Sau khi cưới nhau, hai người đã sinh được 4 đứa con ba trai, một gái. Mỗi đứa cách nhau chỉ một tuổi, ngoài việc chăm sóc các con, Bé năm chỉ ở nhà và sống vào đồng lương vợ lính cộng tiền trợ cấp trẻ con hàng tháng. Riêng Thanh cũng đi đi, về về vì Hậu cứ Tiểu đoàn đóng cạnh Mỹ tho cách chừng mười hai cây số. Chỉ khi nào lâu về là vì bận hành quân xa mà thôi. Một năm sau khi ra trường, Thanh mang lon Thiếu úy và giữ chức vụ Đại đội trưởng, Thời gian nầy Thanh hay ít về nhà, vì bận rất nhiều công việc hơn khi còn ở Hậu cứ. Thời gian, rồi thời gian. Bỗng mấy chốc những đứa con càng ngày càng lớn, mới hôm nào nay đã lên bốn, lên năm và cấp bậc của Thanh cũng tăng dần theo từ đó. Bây giờ Thanh đã trở thành một Đại úy Tiểu đoàn phó và được thuyên chuyển về Tiểu đoàn Địa phương quân khác, đóng tại quận Cái bè.

   Một ngày mùa hè 1974 trong lúc tình hình chiến sự cả nước rất căng thẳng. Vùng bốn, quân khu bốn nói chung và Khu chiến thuật Tiền giang nói riêng cũng lâm vào hoàn cảnh nầy. Đơn vị Thanh cũng như những đơn vị bạn phải hành quân liên tục, có lúc phải hành quân tăng cường cho các quận khác. Một ngày tháng năm đơn vị Thanh đụng nặng tại xã Bình Phú thuộc quận Cai Lậy. Thanh và một số Hạ sĩ quan và Binh sĩ bị tử thương.

   Bé năm và bốn con thơ quì trước chiếc Quan tài được phủ lá cờ vàng ba sọc đỏ trông rất là xót thương và thê thảm.

   Khi Thanh mất, Bé năm cũng lãnh được một số tiền tử sĩ. Nàng luôn buồn rầu và nghĩ tìm cách gì để nuôi bốn đứa con thơ. Cuối cùng sự suy nghĩ cũng chẳng vào đâu và số tiền ấy càng ngày cũng dần… dần cạn mất.

   Năm 1975 khi đất nước hoàn toàn giải phóng, Bé năm và bốn đứa con trở về quê nhà, sống gần bên cạnh ông bà Nội. Ông bà Nội thương tình cho Bé năm một công ruộng để làm nuôi các cháu. Cha mẹ cho thì lấy, nhưng Bé năm không thể nào làm được, vì bao năm trời sống ở Mỹ tho nàng chưa hề đụng đến móng tay, riêng các cháu thì còn nhỏ dại quá.

   Trong những lúc nửa buồn cho số phận, nửa thương chồng. Thỉnh thoảng nàng hay ghé qua ngôi Chùa gần bên để thắp những nén hương cho linh hồn chồng mình mau siêu thoát và giải bớt nỗi sầu. các nhà Sư thấy nàng hay lui tới làm công quả và cúng vái, nên thường hay hỏi han và tâm sự. Các nhà Sư thấy hoàn cảnh Bé năm rất đáng thương hại, nên nhã ý giúp đỡ đôi phần.

   Thế là, kể từ đó ngày nào Bé năm cũng đến làm công quả như: Quét dọn Bàn thờ Phật, Chánh điện và xung quanh ngôi chùa, rồi kế đến nấu cơm cho các Sư ăn. Khi các Sư ăn xong, Bé năm cũng có phần ăn riêng của mình và đặc biệt khẩu phần thức ăn hàng ngày các Sư đi bát mang về hay Phật tử đến Chùa cúng các Sư cũng tách phần riêng cho các cháu. Ngoài ra mỗi khi Chùa bán được những trái cây như: Dừa, Chuối, Cam , Quýt các nhà Sư cũng đều chia chát cho Bé năm một ít để mang về nhà. Bởi thế, kể từ ngày Bé năm phụ giúp Chùa, các con của Bé năm được mẹ nấu cho toàn những món cơm chay. Hồi đầu chúng ăn, chúng thấy lạ và bảo ngon, nhưng dần… dần chúng yêu cầu mẹ nấu món khác, cứ ăn chay mãi ngán quá, các con ăn không nổi. Mỗi khi nhìn thấy các con đang ăn nghẹn tới, nghẹn lui Bé năm cũng đau xót vô cùng. Nhưng nghĩ lại xung quanh mình nhiều người còn khốn khổ hơn, lắm lúc phải chạy gạo từng lon, rau luộc chấm nước tương cũng không có, mà mình hiện tại có đầy đủ gạo ăn, chỉ tội không có thịt cá mà thôi. Rồi mỗi ngày nhìn thấy các Sư đều ăn như thế và chính mình cũng thế. Các Sư vẫn mạnh khỏe và mình cũng chẳng bệnh hoạn gì cả, nên mỗi bữa cơm nào Bé năm cũng cố gắng động viên các con ráng ăn, dần dà thì cũng sẽ quen. Thật, cái gì cũng vậy phải kiên nhẫn, tập luyện, chịu đựng  thì mới thành công. Cứ thế và cứ thế, thời gian trôi qua- trôi qua Bé năm không còn nghe những tiếng „ Mẹ ơi ngán quá „ nữa. Và từ đó vào những bữa cơm là chúng ăn sành sạch, ngon miệng như đang ăn thịt cá hàng ngày. Thấy các con khỏe mạnh, da thịt hồng hào, chăm lo học tập, hiền hậu, ngoan ngoản. Bé năm mừng thầm trong dạ và ngày ngày vẫn tiếp tục công việc phụ giúp các nhà Sư.

   Thời gian đi đi, về về làm công quả cho Chùa, nàng phải nhận lãnh biết bao tiếng dèm pha của người đời, cũng như hờn trách của gia đình và làng xóm. Nhưng nàng cứ thản nhiên, phế mặc và âm thầm làm theo ý mình. Nàng biết, nếu nàng không làm thế, nàng không cách nào nuôi nổi bốn đứa con thân yêu của mình. Trong khi ông bà hai bên thì già yếu, hơn nữa nàng là một Tiểu thơ, vợ Sĩ quan chưa bao giờ biết làm một công việc nặng nhọc. Tiếng dèm pha rồi đến lúc cũng mỏi miệng, chuyện ai nấy làm, cơm ai nấy ăn hơi đâu mà lăm le chuyện người khác.

   Trong cái rủi, cũng có cái may mắn. Tuy, mất chồng là niềm đau khổ nhất cuộc đời, nhưng nàng cũng còn được sự an ủi từ những đứa con ngoan hiền, chăm lo học tập và hằng ngày cạnh bên Bàn thờ Phật, Bàn thờ Chồng, thắp lên những nén hương cho người quá cố được ấm lòng nơi chín suối là nàng cũng thấy thanh thản và toại nguyện lắm rồi. Còn hơn khi nhìn cảnh nhà bần bạc và những đứa con lêu lỏng, lam lũ nơi đầu đường xó chợ.

 

 

“Biết Phật thì Phật biết ta

Ngồi yên một chỗ, không ra chốn ngoài

Phật đâu có biết rằng ai

 

Ngoài đời đang khổ, ra tay cứu cùng”

 

 

 

 Ngày y Tôi Là Khóa Sáu

 

 

    Sau ba mươi lăm năm xa quê, tạm bợ nơi xứ người. Tôi luôn nghĩ như là một phần đời phiêu bạt và có về thăm lại gia đình; quê hương bốn lần. lấn thứ tư nầy là một trong những lần kỷ niệm tuyệt vời. Vì được gặp lại rất nhiều những người bạn cũ. Mặc dù không toàn vẹn lắm, nhưng cũng tạm diễm phúc lắm rồi. Không phải riêng tôi già đi theo tuổi tác, mà các bạn tôi cũng đều như thế. Bởi khi gặp nhau cũng hơi ngỡ ngàng, vì bốn mươi năm rồi còn gì. Nghe người nào cũng có cháu và lên chức ông bà, nên tôi lịch sự gọi họ bằng anh, bằng chị và không xưng hô mầy, tao như ngày xưa nữa. Sở dĩ gọi như thế là muốn tôn trọng, hơn nữa tôi chưa được những chức vụ như họ đang có. Có nhiều người chẳng nói gì, chỉ cười và dường như chấp nhận, có nhiều người trách tôi sao khách sáo.

     Bọn tôi ngồi quây quần bên nhau tiệc rượu khoảng hai mươi người. Ai ai cũng kể lể những mẩu chuyện thời quá khứ, nghe mà lòng thấy vui, cười bể bụng. Mỗi thời, mỗi khác, có người ngày xưa nói rất nhiều, thì bây giờ ngược lại  ít nói, có người ngày xưa nói ít bây giờ không ai nói lại.

     Quây lại thời quá khứ, tôi còn gặp lại hai Diễn viên của tôi ngày xưa đó là: Nguyễn văn Nên còn có biệt danh là Cù NênNguyễn thị Nhung. Còn ba Diễn viên khác, hai người không đến được là: Nguyễn Ngọc GiàuNguyễn minh Trị , rất tiếc một người bạn đã qua đời sau cơn bệnh nặng đó là: Dương hữu Đức.

      Tôi thi vào trường NLS Tân hiệp vào năm lớp tám và học ở đó được một năm. Sau đó xin chuyển trường về NLS Định tường. Trong lúc nạp đơn xin đi Thầy Nguyễn văn Nam không cho. Tôi hỏi ? Tại sao.

- Ông bảo ! Tôi nói lý do chính đáng, ông nghe suông tai, thì ông ký vào đơn chuyển trường, còn không ông không ký.

- Tôi bùi ngùi trả lời ! Thưa Thầy. Em cũng như thầy, chúng ta là những con Chim. Một khi đã nói là Chim, thì thường hay tung bay đi khắp bốn phương trời. Thầy từ Sài gòn bay về đây để dạy, riêng em cũng thế, em từ Tân hiệp, em muốn bay vể Mỹ tho. Giữa hai chúng ta em nghĩ đều giống nhau. Tại sao thầy lấy Lưới ngăn em lại. Em thiết nghĩ điều nầy thật vô lý. Ông ngồi trầm ngâm một hồi rồi nói tiếp.

- Ở đây ai làm em phiền trách hay không vừa lòng vấn đề gì? Thầy sẽ trực tiếp giải quyết giúp em.

- Tôi bảo. Không có chuyện gì đâu thầy. Tất cả đều tốt và bình thường. Lý do em đi là gì tương lai, thế thôi.

- Ông nói. Ở đây không có tương lai sao ? Không phải là trường NLS sao?

- Tôi trả lời một cách từ tốn, lễ phép. Thưa thầy! Tình thật, em chưa bao giờ nghĩ thế, nhưng đây không phải là nơi em chọn tương lai của mình.

- Ông nói. Thôi thầy ký đơn cho em đi và chúc em thành công nơi môi trường mới.

Tôi đứng dậy cám ơn thầy, rồi cầm lá đơn vui vẻ sang phòng Hành chánh rút Học bạ và giã biệt mọi người. Mọi người cũng chúc tôi, như thầy Nam vừa mới chúc.

 

Đi tìm tương lai

 

Xa quê, đi đó, đi đây

Tìm người, thân bạn, thọ thầy , học cô

Thông thêm Thành thị, xứ mô

Xa bao cái dại, mang vào cái khôn

Không đi, cứ mãi xóm, thôn

Loanh quanh, lẩn quẩn, cây Gòn trước sân

Biết bao giờ mới thành nhân ?

Biết bao giờ được làm quan « Đầu Làng « ?

 

 

      Đến trường NLS Định tường tôi bắt đầu học năm lớp chín. Kỷ niệm năm ấy rất vui, có cô bạn A rất đẹp gái, nhưng khó tính, không biết tôi có làm gì cô phiền không? Mà cô ghét cay, ghét đắng, không muốn nhìn mặt tôi, chớ đừng nói một lời tâm sự xả giao. Tình cờ vào dịp hè năm ấy, trường có tổ chức buổi Văn nghệ, tôi có viết vở kịch tựa đề “ Bác tám ghiền Radio “ Vỡ kịch nầy cần ba người, mà phải là nam. Tôi đóng một vai và làm Đạo diễn, còn lại hai người nữa. Tôi tự hỏi trong đầu, chọn ai đây ta, khó quá? Suy nghĩ mấy ngày trời, tôi chọn được hai Diễn viên xuất sắc, nặng giá là: Nguyễn văn Nên có biệt danh là Cù Nên và Diễn viên Nguyễn quang Trị. Tôi tập dợt hai Diễn viên nầy đúng một tuần, trước khi lên Sân khấu. Trong thời gian diễn hơn mười lăm phút và nhìn xuống hàng ghế danh dự, tôi thấy cô Hoàng dạy Anh văn (Cận thị) cười ngã nghiêng ,ngã ngửa. Tôi thì khoảng năm chục ký, không biết vì nặng đì hay sao, tôi vừa ngồi xuống cái ghế sắt mượn văn phòng Hành chánh còn mới tinh, bỗng cái ghế dẹp lép lại, khiến cả Hội trường cười một cái “Rầm “. Khi vở diễn thành công và kết thúc, tôi trở về lớp thì gặp cô A đứng đó tự lúc nào và chận tôi lại nói.

    A  thật sự ngưỡng mộ Màu và sau đó không còn ghét tôi nữa. Qua năm sau

thấy cô học lớp mười Canh nông chung với tôi đâu vài tháng, rồi nghỉ luôn và nghe nói lấy chồng. Mừng cho cô. Hôm tháng chín 2014, tôi có về quê thăm gia đình và cô ta cũng có ghé thăm tôi cùng những người bạn khác. Trong cơn vui, tôi định hỏi ? Tại sao ngày ấy A ghét tôi nhiều thế. Nhưng thôi !

   Học xong lớp chin, rồi sang học lớp mười, cũng vào dịp hè nữa, các bạn hối thúc tôi viết vở kịch khác. Thấy vậy, tôi đành viết vở kịch thứ hai với tựa đề “Gia đình ông Cả “ vở kịch nầy tôi cần ba người, cả tôi nữa là bốn. Hai nam, hai nữ và lần nầy, tôi chọn những Diễn viên mới. Nữ là: Nguyễn thị Nhung và Nguyễn ngọc Giàu, nam là: tôi và Dương hữu Đức (chết). Tôi cũng tập dợt họ hơn môt tuần, trước khi diễn. Phải nói những Diễn viên nầy diễn rất hay và buỗi diễn thành công mĩ mãn. Kế đến nhà trường nói với chúng tôi rằng (Lúc ấy là thầy Trọng dạy văn Trưởng ban Văn nghệ) là tập dợt lại lần nữa và sẽ lên Thành phố dự thi cùng các trường bạn. Nhưng sau đó im hơi luôn.

    Nói chung qua những kỷ niệm trên của thời khóa sáu chúng tôi, thật rất nhiều ấn tượng. Chúng tôi tuy học là học, nhưng rất thích tụ họp trong những buổi Văn nghệ do nhà trường tổ chức hay tại lớp cũng thế. Nguyên nhân nầy nhiều lúc cũng ảnh hưởng trong vấn đề học tập. Bởi thế, nhiều lúc thầy Hướng dẫn thường hay nhắc nhở.

 

Trần văn Màu (K6)

Mùa Xuân, năm 2016

 

Viết từ Thành phố Dortmund- Germany

 

 

 

 

 

 Giảm Nghiện

 

   Ê Giang ! Cậu nhìn kìa,vào nhà hàng China người ta bán Buffet, ăn toàn thịt thà, đồ biển và đa phần là người ta hay uống Bia rượu thì bộ tiêu hoá mới trung hòa được, đàng nầy từ đầu đến cuối Tớ thấy họ toàn uống trà cũng hơi lạ nhỉ và xung quanh những bàn khác đều cũng thế cả? Cậu lo ăn đi, đừng lãm nhãm mãi Phánh à, kệ người ta. Không phải, tại thấy lạ thì nói cho Giang nghe thế thôi.Giang biết chứ và rõ hơn Phánh nhiều là khác.

    Phánh nầy đây là điều Tớ cần học và muốn học hỏi họ lâu lắm rồi mà chưa được. Nhưng Tớ nghĩ, Tớ cố gắng một chút nữa là Tớ sẽ thành công. Còn Phánh cũng nên học họ dần đi vì dạo nầy Tớ thấy Phánh nhậu hơi nhiều không tốt đâu.

*Học ở họ hả? Học cái gì.

-Thì học uống trà

*Cậu có điên không?

-Tớ không điên, vả lại đang rất tỉnh táo.

*Giang ơi Giang, cho Tớ xin đi Giang.

-Tại Cậu không chịu để ý đó thôi, nhưng Tớ thường hay để ý những cái vụn vặt ấy lắm.

*Để ý chi cho nó mệt thân.

-Qua nhiều năm sống và làm việc chung với họ, thậm chí con đường Tớ đang ở và những người hàng xóm đều như vậy và có một lần Tớ sang Thổ nhĩ kỳ nghỉ hè, Tớ giao du gần một tháng trời bên đó,Tớ biết nhiều lắm. NềnVăn hoá của họ dường như không có tên Rượu.Tớ không rõ ý nghĩa của nó như thế nào. Nhưng trước mắt Tớ thấy sự Giáo dục họ lợi thế hơn ta nhiều. Có nghĩa là một thanh niên mà không uống rượu thì khác hẳn một thanh niên thường hay uống rượu. Họ hiền từ, chân thật, dễ dạy và biết nghe lời cha mẹ. Đây không phải là tuyệt đối, nhưng đa phần là như vậy. Cậu thấy không? Họ lớn cời cời mà vẫn sống chung trong một gia đình, anh em, dòng họ hay quấn quýt bên nhau, ít khi nào nghe họ to tiếng hay hổn láo với người trên, họ rất là đoàn kết, ít bệnh tật bậy bạ và chết oan. Trong gia đình thang bậc rõ ràng, ngoài ra còn những chuyện khác nữa. Họ từ nhỏ cho đến già rồi chết chỉ biết dùng trà hay những thứ nước ngọt khác. Riêng ta Cậu hãy nhìn và suy nghĩ lại đi, những sự việc xảy ra hàng ngày vì rượu, qua Báo chí, truyền thông. Đó có được như họ không? Uống rượu không phải là xấu, nhưng phải tùy lúc.

     

     THỦY ĐIỀN

 

       Theo Giang ước gì xã hội mình mà được như phân nữa của họ thì

diễm phúc, giàu có, tiến bộ biết mấy. Chính gì thấy rõ tầm quang trọng nên Giang thú thật Giang sẽ học hỏi từ từ và Giang hy vọng mai kia Phánh cũng thế, rồi người khác cũng thế. Giang nghĩ tránh được nó xã hội càng ngày càng đi vào nề nếp hơn và từ đó một Việt nam thanh bình sẽ biến dần sang thái bình một cách mau lẹ.

    Muốn làm được điều nầy, nếu Giang là người có Địa vị trong xã hội, Giang sẽ tăng thuế rượu, giảm bớt sản xuất và cấm tuyệt những thanh niên từ mười tám tuổi trở xuống, đồng thời tích cực quảng bá sự ích lợi cây trà Việt nam, vận động bà con trồng thật nhiều trà, thuế má ít, bán rẻ, ai cũng có thể mua và uống được. Giang nghĩ thời gian

 

không lâu đất nước ta không thua kém ai hết. Bởi những thứ khác dường như ta đã có sẵn.

  Ở đây Giang chỉ nói ở một khía cạnh về rượu. Ngoài ra xã hội nào cũng thế, đều có những mặt trái của nó.

 

 

 

 Ngoài Tiêu Chuẩn

 

Đi đâu về vậy ông Chín?

Ông sang nhà thầy Bằng lấy lại cái ruột xe đạp.

Ruột xe gì mà lấy. Thầy Bằng tặng ông à?

Đâu có, ruột xe ngoài tiêu chuẩn.

    Ông chín là một Cán bộ Trưởng thôn, kiêm luôn nhiều chức như Trưởng Thương nghiệp, Lương thực v.v.. Ông là một Cán bộ tốt, tích cực làm việc tất cả vì dân luôn được mọi người kính trọng. Cứ mổi tháng là ông có nhiệm vụ mua hàng Thương nghiệp ngoài Xã về phân phối lại cho những người trong Thôn.Thường những mặt hàng như Kem đánh răng, Xà phòng, vãi sồ thì ai cũng được mua theo khẩu phần. Đặc biệt như máy móc, xe đạp thì không được mua trọn vẹn. Mỗi lần hàng về thì ông làm rất nhiều cái thăm nhỏ ghi từng bộ phận chiếc xe đạp sau đó mọi người cùng bốc thăm, nếu ai bốc trúng cái nào thì được mua cái đó như thế thì rất công bằng. Khi mua xong, chuyện đổi chác là chuyện của dân, ông Chín không liên quan và hết nhiệm vụ.

    Trong buổi bốc thâm có thầy Bằng, gia đình thầy Bằng bốc trúng cái ruột xe, trả tiền và mang về như bao người khác.Thầy Bằng ngỡ là mọi việc đã xong mang đi bán và nhậu cho một trận đả đời.

    Hai hôm sau ông Chín lấy tư cách là Trưởng thôn sang nhà thầy Bằng đề nghị trả lại cái Ruột xe đạp.Thầy Bằng cự nự tại sao? Và tôi cũng mang bán mất rồi. Ông chín bảo.

    Nhân dân báo thầy làm việc ở trường học, thầy có tiêu chuẩn ở đó và được mua tất cả ở đó, thầy không có tiêu chuẩn ở đây, mặc dầu thầy người cư ngụ trong Thôn nầy, phần ruột xe chỉ dành cho người dân trong thôn mình thôi, nếu thầy mua như thế là không đúng nguyên tắc. Tính ra hàng tháng thầy mua gấp đôi là sai luật nhà nước.Thầy Bằng ngồi trầm ngâm một lúc, vì ông Chín nói đúng mà nhân dân khiếu nại cũng chẳng thừa. Thầy bằng nói, thôi nếu ông muốn trả thì tôi trả, nhưng chờ tôi đi mua cái khác mới có mà trả. Ông Chín nói tiếp.

    Không phải tôi đòi mà nhân dân đòi.Thầy Bằng phản pháo.Tôi nói tôi trả là tôi trả, lần sau đừng gọi tôi sang bốc thăm nữa nghe chưa.

    Ra về ông Chín thấy cũng kỳ. Làng xóm với nhau, có cái ruột xe mà mất lòng. Thật lòng thì ông không muốn thế, nhưng bà con cứ khiếu nại đến cùng, làm Cán bộ thì phải công minh.

    Sau trận đó ông xin nghỉ chức Trưởng ban Thương nghiệp và sang xin lỗi thầy Bằng.Thầy Bằng là con người vị tha thầy bảo.

    Không có gì đâu, ông Chín đừng quan tâm, sỡ dĩ bà con mình khiếu nại là vì nghèo quá chứ lòng họ không xấu đâu ông Chín à.

 

 

  

 

 Tàn Tạ Dung Nhan

 

   Bà Thúy vừa ra cổng Hải quan của phi trường Düsseldorf, tay kéo chiếc Vali, tay sửa sửa cặp mắt kính đứng nhìn dáo dác tìm thằng Bảy. Nó đứng cạnh bên không dám chạy đến mừng ôm mẹ, mà đi từ từ và chậm rãi hỏi? Mẹ mới sang có khỏe không mẹ. Bà giật mình. Trời con đây hả Bảy.

        Năm 1978 bà đóng cho Bảy ba cây vàng cho chủ tàu đăng ký và nhờ người anh họ dắt đi giùm, năm ấy Bảy mới mười lăm tuổi.

       Qua đảo được sáu tháng, Bảy cùng gia đình người anh họ được chính phủ Đức nhận với diện nhân đạo và được đưa sang tiểu bang Niedersachsen. Sống chung không được bao lâu Bảy tách hộ ra riêng rồi nhập chung cùng đám thanh niên độc thân như Bảy và được đưa tiếp về một thành phố nhỏ định cư.

    Nơi đây những người bảo trợ rất tận tâm giúp đỡ như lo nhà ở, trường học và hướng dẫn làm hồ sơ bảo lãnh gia đình sang với diện đoàn tụ gia đình vì Bảy và những người cùng sống chung đều dưới tuổi vị thành niên. Bảy và các bạn cùng làm đơn, nhưng không biết gia đình có qua được hay không và chừng nào.

    Năm đầu người ta cho Bảy học tiếng Đức và sau đó chuyển sang học nghề, ngày thường Bảy cùng mọi người đi học và cuối tuần thường hay lê la đến Disco uống Bia, nhẩy đầm, chiêm ngưỡng những cô gái đẹp.

    Một hôm vì va chạm, bởi những cô nàng choi choi và mọi người cũng khá đầy Bia rượu, không may bạn Bẩy bị một số thanh niên Đức xô xát. Bảy tức giận đập chai Bia bể làm hai và đâm vào bụng đối thủ, bọn chúng chụp nửa chai Bia chọi vào mặt Bảy, nửa chai Bia tan nát, gương mặt Bảy đầy máu và nhiều vết thương. Cảnh sát đến cả hai bên bỏ chạy, Bảy cũng chạy thoát thân, không dám đến nhà thương và chạy thẳng về nhà tự chữa trị lấy, nhưng một tiếng sau Cảnh sát mò đến nhà và buộc phải đem Bảy vào nhà thương. Sau khi lành bệnh, trước cảnh sát Bảy nhận hết tội và đám bạn được thoát nạn. Vì dưới tuổi vị thành niên và đối thủ bỏ chạy mất, nên Bảy bị cảnh cáo và được tha bổng.

    Sau gần một tháng trời nằm viện khi trở về nhà, chính Bẩy không nhìn ra gương mặt của mình huống hồ chi bạn bè và người hàng xóm. Bảy bắt đầu buồn rầu, hối hận và thề không bao giờ đến Disco nữa. Ngày qua ngày mọi việc dần dần vơi đi và Bảy cũng quen những vết thẹo trên mặt khi mổi sáng thức dậy đứng trước tấm gương to trong nhà tắm.

     Tháng tư năm 1987 khi đi làm về Bảy nhận được giấy báo là một tháng nữa mẹ Bảy sẽ sang với viện đoàn tụ gia đình. Bảy nửa mừng, nửa chới với và vội cho bà Bảo trợ hay nhờ bà tìm giùm căn hộ mới. Bà Bảo trợ sẵn sàng và tìm cho Bảy một căn hộ như ý muốn. Bảy chạy lo sắm sửa đầy đủ để khi mẹ sang có dùng ngay.

     Đúng hẹn, tháng năm Bảy và bà Bảo trợ xuống tận Düsseldorf đón mẹ. Bảy bảo bà Bảo trợ ngồi chờ ngoài xe vì Bảy sợ mẹ Bảy khi nhìn thấy Bảy có những hành động mà bà Bảo trợ không chịu nỗi.Y như dự đoán, khi mẹ Bảy nhìn thấy Bảy bà khóc thật to ngay cổng Hải quan, chẳng thèm hỏi tại sao cứ kể lể. Mẹ 

 

cho mầy đi  còn nguyên vẹn, khi mẹ sang mầy như thế nầy hả Bảy.Tại sao vậy con, tại sao vậy con. Biết vậy Mẹ chẳng thèm sang đây làm gì, xấu hổ quá Bảy ơi, nhục quá Bảy ơi.

 

 

 Chuyện Con Tôm Đất

 

  Cũng vì con Tôm đất mà tình bạn phải xức mẻ và đổ máu. May hôn là cả xóm phải đi đám ma cùng một lúc.

    Xưa nay những người dân sống cạnh vùng nước lợ, người ta hay sinh sống bằng nghề đấp đập, làm hồ thả Tôm nuôi cá. Họ nhờ vả vào những con nước ra vô, thay đổi hàng ngày mang những thức ăn thiên nhiên để nuôi những con vật ấy.Thời gian theo thời gian những con vật ấy sinh sôi, nẩy nở tạo thành một đàn rất đông. Nhưng người ta không nghĩ thế, miệng truyền miệng và cho rằng những con vật ấy do đất sanh ra mới có. Một sự việc phản khoa học sờ sờ mà người ta không thèm để tâm, để ý miễn hàng năm họ có thu nhập một số lượng theo ý muốn là được rồi.

       Trong bữa tiệc đồng quê, người ta trưng bày những sản phẩm sẵn có để đãi khách, tuy đạm bạc, nhưng thú vị vô cùng. Nào Tôm, Cá, Cua, Ghẹ và những thứ khác v.v…Một số được nấu, nướng, làm gỏi.Tất cả làm cho Thực khách một buổi no say không muốn về.

       Mọi người đang ngon lành bên chén rượu. Họ thao thao bất tuyệt, quảng cáo những thứ đang ăn là trời cho, thiên nhiên ban tặng, tất cả từ lòng đất mà ra chứ chẳng bỏ tiền mua sắm gì cả. Họ muốn ca ngợi quê hương và tăng thêm phần khoái khẩu cho Thực khách và họ cứ nghĩ ai ai trong số Thực khách nầy đều cũng như họ. Không, trong số nầy cũng có kẻ nầy, người nọ. Người thì cười trừ cho qua tiệc, còn người thì chống đối kịch liệt và cho rằng những lời nói trên là phản khoa học. Ý những người nầy là muốn cho họ có tầm hiểu biết cao hơn để hòa nhập vào cuộc sống, ngoài ra không có ý gì khác. Những người nầy chỉ sợ cho lớp con cháu sau nầy dẫm lên dấu chân cũ mà đi, thì xã hội càng lúc sẽ bị thụt lùi.

   Chỉ có bao nhiêu đó thôi, người thì bảo con Tôm do đất sinh ra, kẻ thì bảo Tôm thì sinh Tôm làm sao đất sinh Tôm được. Chén ra, chén vào hai giới thức thời và không thức thời cứ ấu đả nhau rồi xô xác, kẻ bể đầu người tróc da tay, bao nhiêu người cản ngăn chẳng được. Cuối cùng thực khách phải chịu thua ra về, còn người bảo thủ thì vẫn là bảo thủ còn thốt lên những tiếng không biết mà còn dạy khôn.

     Thật cũng khó, một khi người ta đả bảo thủ hay duy tâm rồi thì đừng hòng ai nói ra, nói vào hoặc góp ý, sửa chữa được.Vì trình độ dân trí họ chỉ đến đó mà thôi.

 

 

 

 19-Bài Ca Con Cá

 

   Ngày nào bà hai Cao cũng hát cho chồng nghe bài ca con Cá. Ông nghe miết ,nhức đầu, nhức óc. Mỗi khi bà hát lên ông chỉ biết ra ngồi cạnh gốc Dừa mà ôm đầu chịu trận.

     Chưa từng thấy ai như bà hai Cao mắng chồng như con không đẻ, vậy mà họ ở với nhau gần sáu mặt con. Chuyện thật khó tin vô cùng.

     Ông hai Cao ngày xưa đi lính làm nghề lái xe. Khi hòa bình ông về quê và dẫn theo một bầy vợ con tổng cộng là tám người. Cũng may, ông là con một. Bởi thế, những ngày đầu tạm bợ bên cha mẹ cũng đỡ vất vả hơn bao người khác.

     Nhà ông nằm cạnh một Cơ quan, người ta cần ông vào làm việc với tư cách là Tài xế cho Thủ trưởng cơ quan, hồi đầu ông nhận lời, nhưng gần tới ngày làm việc ba ông không biết vì lý do gì mà cứ cản ngăn không cho ông vào Cơ quan làm việc. Ông sợ ba ông buồn nên ông từ chối. Ba ông bảo, ở nhà ông chia cho một ít đất làm rẫy để sống. Ông gật đầu cho qua chuyện, chứ miếng đất chỉ hơn một công làm sao nuôi tám miệng ăn, ông cầm cự và chờ tìm công việc khác thì mới giải quyết được miếng cơm, manh áo. Ngày qua ngày chẳng Meo nào mướn và cũng chẳng có công việc gì để làm, cứ sáng ra tưới ba luống rau, nhổ mấy cọng cỏ thế là hết việc.Thời gian rảnh rỗi còn lại ông chỉ biết cùng bạn bè đi nhậu. Mỗi khi đi nhậu về là bà ca bài ca con cá, lý do lu gạo cạn mòn, nhưng sỉn quá bài ca ấy trở thành vô nghĩa, đàn khải tai trâu.

   Thật tình thì ông cũng muốn tìm một cái gì đó để làm và nuôi vợ, nuôi con. ông rất hiền từ, dễ thương không phải là hạng người lười biến, nhưng những năm vừa mới giải phóng, thời bao cấp khó khăn tìm công việc tư rất khó, chỉ những ai làm Cơ quan nhà nước thì đỡ khổ hơn. Nhưng cơ hội ấy ông đã đánh mất lúc ban đầu, bây giờ có cãi lời lại ba ông mà đi tìm một chỗ lái xe nào đó thì vô vọng. Xã hội càng ngày càng siết chặt, vào nề nếp, lý lịch như ông thì chỉ có ở nhà cuốc đất, trồng khoai.

     Bao nhiêu sự việc ấy cũng làm cho ông đủ nhức đầu, nhức cổ, nhưng người vợ yêu quí của ông đâu có hiểu, không động viên hay phụ giúp chồng tìm hướng tốt vả lại thấy ông hiền và thất thế nên chưởi rủa, mắng nhiếc suốt ngày.Trong cái gay gắt ấy, lắm lúc bà quên ông ta là chồng của bà, cứ thế mà hát bài ca con cá. Ông nhịn nhục bà hết ngày nầy, qua ngày nọ và tìm ly rượu để giải sầu.Thời gian cứ thế ông trở thành kẻ nghiện rượu, ngày nào cũng uống, lúc đầu còn tiền uống rượu ngon sau cạn túi cái gì cũng uống miễn nó là rượu. Sự mắng nhiếc của bà vợ càng ngày càng gia tăng, mắng thét thành thói quen, ngày nào không mắng chồng là dường như bà bị bệnh. Nhiều lúc bà mắng quá, ông nằm quệt ngoài bụi chuối sau nhà mà ngủ.

  Thê thảm nhất là những năm về sau, vì nghiện rượu mà không có tiền mua, ông như kẻ Ăn mày, không còn biết thể diện mình nữa, cứ gặp ai cũng xin, cứ gặp tiệc rượu nào cũng xáp vào.Thậm chí người ta mạ nhục trước mặt, nhưng ông cũng vẫn cười cho qua chuyện. Miễn sao thiên hạ bố thí cho mình một ly rượu là ông vui và sung sướng lắm rồi.

 

   Ba ông cũng là một người uống rượu, khuyên nhủ nhiều lần, nhưng chẳng ăn thua, mỗi lần nhìn con lang thang từ đầu làng, cuối xóm ông ôm đầu khóc ngất, tất cả tại mình, phải hồi đầu đừng ngăn cản nó, để giờ nầy ra nông nỗi.

      Một năm sau, trên đường đi nhậu về bà mắng quá, ông ra sau vườn nằm ngủ và chết tại đó, trong lúc chết người chỉ mặc chiếc quần tài lõn và tay ôm chai rượu trống không.

 

THỦY ĐIỀN

 

 

 

 Anh Hùng Rơm

 

     Chị hai Lê mặt mày xanh lét, miệng nói tiếng được, tiếng không.Thôi hai em đủ rồi về đi, chị cũng sắp đóng cửa quán rồi.Thằng Hy nói. Chị lèn èn vì thế chị Hai, chị sợ tôi không trả tiền cho chị phải không? Rồi rút trong túi trái lựu đạn mi ni ra, chị hai Lê hoãng hồn bỏ gian hàng chạy mất.

     Hy và Hùng là hai thằng bạn thân từ thuở nhỏ, hễ đi xa thì thôi, nhưng khi về thì hai thằng như Sam quấn.

     Năm mười tám tuổi Hy đăng vào Thủy quân lục chiến, ra trường và được thuyên chuyển về vùng một chiến thuật, còn Hùng thì mê học võ khi mười tám tuổi Hùng đã mang đai đen nhị đẳng và là một Huấn luyện viên một võ đạo Tây kênh đô.

     Từ ngày đi lính đến nay gần hai năm trời, hai thằng chưa lần gặp nhau. Nhân dịp thắng trận Hy được nghỉ phép một tuần về thăm quê nhà, Hy gặp lại Hùng rồi hai thằng rủ nhau ra quán nhậu ngày xưa. Hy ngày xưa uống kém, nhưng nhờ mặt áo lính hai năm, nên cũng khá dạn dầy. Riêng Hùng là một Huấn luyện viên võ thuật nên lúc nào cũng muốn giữ phong cách của con người thể thao.Tiệc rượu vào ba, ra bảy hai thằng dằng co từ lúc chiều cho đến gần khuya. Hùng nhẹ giọng

*Thôi đủ rồi Hy, mình về ngày mai tao còn phải đi dạy

-Hy không chịu, hai năm tao mới gặp lại mầy, đã chưa chi mầy tham công, tiếc việc định về bỏ tao sao?

*Mầy nói vậy mà nghe được. Tối rồi, về chị hai còn nghỉ nữa, ai mà hầu mình tới sáng được đâu.

-Hy nhất quyết không chịu về, nếu mầy về tao chết tại đây sướng hơn.

*Đừng nói dại mầy, thôi về Hy.

-Tao không về gì hết, tao nói là tao làm, tao là lính mà mậy không sợ chết đâu, vừa nói xong móc trong túi trái lựu đạn mi ni ra.

*Hùng bình tĩnh, thôi cất vào đi Hy cho tao nhờ, người ta nhìn không đẹp đâu.

-Ai cười tao, mầy chỉ đi?

      Chị hai Lê thấy móc trái lựu đạn mặt mày xanh lét, thôi đủ rồi về đi hai em , mai nhậu tiếp.

-Chị nói cái gì?

    Chị hai Lê bỏ gian hàng chạy tuốt, chỉ còn lại Hùng và Hy.Hy càng lúc càng say nhiều anh rút chốt trái lựu đạn bỏ vào cái ly, trái lựu đạn bị kẹt cứng nên không bật nấp. Hùng đứng dậy bỏ chạy, chân vấp cái bàn, nên cái bàn ngã đổ và cái ly cũng đổ, trái lựu dạn văng ra nổ cái “Ầm“. Hy chết tại chỗ và Hùng bị thương nặng.

   Chị hai Lê nghe tiếng nổ la vang cấp cứu. Mọi người đến nơi thì quán chị hai tan tành hết, hai xác người máu chảy lê thê. Đến nhà thương thì Hy đã chết còn Hùng bị đui con mắt phải và thân thể lắm nhiều vết thương.

 

 

  Ngày ra viện thằng Hùng đầu bó, tay băng ngồi trước nấm mồ thằng Hy kể lể. Bức ảnh thằng Hy cứ nhìn chăm chăm vào mặt Hùng. Hùng bảo, vừa bụng mầy chưa Hy, mầy nhìn tao cái gì, thân xác tao đầy máu và vết thương, còn mầy đi đánh trận hai năm nay không chết, mà bây giờ chết trên bàn nhậu rồi ngồi khóc cứ bốn tiếng lập đi, lập lại Vừa lòng chưa Hy, vưà lòng chưa Hy.

 

THỦY ĐIỀN

 

 

 

 

 

 Thất Tình

 

    Ngoài đường người ta đang la ầm lên.Thằng Cầu vừa gây ra án mạng, lại còn cầm Dao chạy khắp xóm. Dường như nó điên rồi có lẽ?

    Sau khi đi nghĩa vụ quân sự về. Cầu quen Lan, rồi hai đứa cưới nhau làm vợ chồng. Cha Cầu thấy con mình vừa cưới vợ, nên cất cho Cầu một cái nhà nhỏ ngoài mặt đường bán hàng Tạp hoá để hai đưá tự sinh sống. Cầu một lòng, một dạ thương vợ, chăm chỉ làm ăn. Hàng ngày lái xe đi tỉnh mua hàng về cho vợ bán, ngoài ra chăn nuôi thêm một ít lợn,gà. Cuộc sống êm đẹp chỉ trong vòng hai năm, thì vợ cầu trở chứng lăn nhăn rồi đi theo người khác biệt tích, biệt tâm. Cầu dò hỏi và đi tìm vợ gần sáu tháng trời mà vẫn không tìm được cô ta. Cầu thất vọng và chẳng còn làm ăn gì được nữa.

    Cha Cầu thấy con trong hoàn cảnh khổ sở, nên khuyên.Thôi nó không yêu thương con nữa nên bỏ đi rồi, có tìm thì cũng vô ích, lần hồi cố quên rồi đi tìm người khác mà làm lại cuộc đời. Ông nói thì rất đúng, một khi người đàn bà không yêu mình nữa, bỏ đi, có tìm lại được chỉ còn là xác vỏ, không hồn. Nhưng chàng không nghe lời cha hay ai khuyên bảo cả, trong lòng Cầu yêu nhất nhất là vợ mình, chàng cứ hy vọng và chờ đợi Lan về. Sự chờ đợi quá lâu, trở thành thất vọng, chàng buồn bã mượn ly rượu giải sầu hết ngày nầy, sang ngày khác. Bao nhiêu lời khuyên nhủ của gia đình và bè bạn như nước đổ lá môn. Chàng cứ say sỉn, lang thang như kẻ Ăn mày, tiệm tùng, nhà cửa Cầu mang bán sạch để phục vụ cho ly rượu buồn, thất tình. Nhiều lần về đến nhà cha chàng mắng nhiếc  và không cho vào nhà. Cầu bỏ đi và tạm ngủ nơi đầu Đình, cuối Miểu chàng bất cần đến gia đình vì trong túi Cầu cũng đang còn chút ít.

   Ngày nầy, qua tháng nọ lớp nhậu, lớp chiêu đãi bạn bè Cầu chẳng còn một đồng xu nào cả, những lúc nghiện rượu chàng mon men về gia đình xin tiền để nhậu, cha Cầu không cho, lại càng mắng nhiếc, xua đuổi nhiều hơn.Trong cơn tức tửi chàng mượn rượu về nhà xin tiền, cha chàng không cho, chàng đành rút dao đâm cha mình mấy nhát, rồi cầm Dao chạy khắp xóm như một kẻ điên khùng. Công an đến cũng chẳng dám nhào vô để khống chế, sợ chàng điên lên và gây nhiều nguy hiểm, nhưng cuối cùng làm sao qua Pháp luật được và cũng may, cha chàng chỉ bị thương nhẹ.

    Tại Cơ quan thẩm vấn, cha Cầu xin bãi nại với lý do vì say quá mất bình tĩnh không kiềm chế được bản thân, nên Cầu được tha bổng. Nhưng phải ra tòa thi hành tội khác đó là xách Dao hâm dọa cùng xóm và có những hành động  chống lại Công an.

   Ngày ra tòa Cầu bị phạt một năm tù ở và sáu tháng không được phạm tội khác. Khi nghe toà tuyên bố, Cầu ôm mặt khóc và xoay ngang xin lỗi cha mình vì tội bất hiếu. Cha Cầu cũng khóc vì hiểu rằng con mình không đến nỗi tệ bạc như thế. Chẳng qua là hoàn cảnh đưa đẩy nên mới ra thể sự. Ông nhìn con trong nghẹn ngào và thương xót.

    Chiếc xe thùng chờ sẵn trước Tòa, hai Công an dìu Cầu lên xe và khóa cửa lại. Chiếc xe vừa ra khỏi cổng về trại giam. Cha Cầu vừa đi, vừa khóc trong lao

 

tù những ngày tháng, có lẽ nó hiểu nhiều hơn về người đàn bà đã gây cho nó biết bao nhiêu nông nỗi.

 

 

 

 

 

 

 16-Bụng àm, Dạ Chịu

 

   Cơn sấm sét vang dội ầm ĩ ngoài trời, của buổi chiều tháng chín. Trước khi cơn mưa to bắt đầu kéo đến.Nó ngồi trên chiếc Giường ôm đầu, mẹ ơi sao con chóng mặt nhiều quá. Mẹ nó chạy lại thoa thoa cái trán, bảo nóng quá và đi lấy dầu sức cho nó. Nó nằm quệt xuống Giường và rên như sắp chết.

   Mẹ nó sợ quá, không biết có mệnh hệ gì, nên chờ trời hết gầm gừ rồi đưa nó ra nhà thương gần đó.

    Nó nằm Bệnh viện được một đêm, sáng hôm sau Bác sĩ khám bảo nó bệnh đủ thứ và nặng nhất là gan.Từ gan sinh ra nhiều chứng như đau ngực, nhức đầu, chóng mặt và bao chứng khác v.v…

    Bà hỏi tiếp. Nó có nguy hiểm không Bác sĩ?

Thân thể Cậu ta sắp vàng khè hết rồi kìa, mau lo uống thuốc và chữa trị đi. Nói xong ông cho một toa thuốc, bà chạy ra tiệm Dược phòng, mua đem về cho nó uống. Bác sĩ cấm nó kể từ ngày hôm nay tuyệt đối không được uống một giọt rượu nào nữa cả. Hai mẹ con vâng vâng, dạ dạ hứa hẹn đủ điều rồi ra về.

   Về đến nhà, nó ngoan ngoãn uống thuốc theo y toa Bác sĩ, đúng một tháng cơn bệnh thuyên giảm rất rõ rệt. Nó nói mẹ nó mua thêm để nó uống cho mau chóng bệnh. Mẹ nó ngỡ nó ý thức được vấn đề, nên mừng trong bụng vì trước đó nó là đứa con dễ dạy. Đùng một cái mấy thằng bạn Thanh niên xung phong cũ của nó nghe nó bệnh đến thăm, rủ nó uống một chút cho vui, chẳng lẽ bỏ đứt luôn coi sao được và còn gì bạn bè nữa. Mấy lời thóc cấy ấy, nó tự ái và bắt đầu uống trở lại. Má nó mắng cho một trận tơi bời, nhưng nó vẫn uống. Con sâu nghiện mới bất tỉnh chừng hơn tháng nay, lại bắt đầu nguôi ngoai sống dậy. Nó cứ uống và uống nhiều hơn lúc trước, nhưng chẳng ăn gì, nó càng ngày ốm tong, ốm teo như cây tre miểu. Mẹ nó nhìn nó trong tuyệt vọng và không phương cách nào cứu chữa. Bà giận quá, và nói, kỳ nầy mầy bệnh tao đi mua rượu cho mầy uống tiếp, còn thuốc thì tao dứt khoát không mua. Nó lầm lì không nói một lời.Thiệt như lời mẹ nó nói, ba hôm sau nó trở bệnh, bà nhất định không chở đi nhà thương và cũng chẳng mua thuốc men vì cả, bà bảo mua rượu thì bà mua, còn không thì thôi. Nói thì nói vậy, mẹ nào mà không thương con, ngày nào đi làm việc về nhìn nó nằm la liệt, cào xé làm sao chịu nỗi, nên cuối cùng cũng đưa nó trở lại nhà thương để trị. Nhưng khi đến nơi Bác sĩ chưa kịp đặt ống nghe vào ngực nó, thì nó đã trút hơi thở cuối cùng.

      Đem nó về đặt trên chiếc Giường để chờ tẫn liệm, mẹ nó nhìn thấy một bức thư dưới chiếc chiếu, không biết nó viết tự hồi nào, không ghi ngày tháng.

     Mẹ ạ !

Con xin lỗi mẹ, con thật là bất hiếu, không phải con không nghe lời mẹ, giờ con chết cũng là phải lắm rồi, không giận hờn, oán trách ai cả.Tất cả là tại con, chỉ trách mình không giúp gì được cho mẹ, luôn luôn làm cho mẹ buồn rầu và phải để mẹ cô đơn khi tuổi đã già.

  Con của mẹ

     Những dòng chữ cuối cùng không ngay và không rõ nét, có lẽ lúc viết nó đang run run, cảm động và không còn sức lực để viết tiếp những lời từ biệt mẹ  sau cùng.

 

 

 

 

Hai nền Văn hóa

 

 Mới sáng sớm Trí gọi điện thoại vụt vã. Tao Bình đây có gì không mậy? Sao gọi tao giờ nầy, còn sớm cho tao ngủ chút nữa đi, có gì lát trưa nói. Tao nghĩ mầy thức rồi, thôi xin lỗi, ngủ tiếp đi. Rồi Trí cúp máy.

     Trưa vợ Trí lái xe đưa Trí lên tận nơi Bình ở, hai thằng hẹn nhau ngoài quán Cà-phê đầu phố. Bình hỏi?

*Sáng nay có gì mà mầy gọi tao như thác đổ vậy.

-Có chứ.

*Mà chuyện gì.

-Đêm qua mầy về có bị Cảnh sát chận không?

*Không.

-Mầy hên thật.

*Còn mầy?

-Tao bị chận, thổi bong bóng và bị tịch thâu Bằng lái tuốt rồi, nên bây giờ vợ tao mới làm Tài xế đây.

*Thế sao, trời đất ơi, rồi làm sao?

-Mất thì mất, chớ biết làm sao bây giờ, mà còn mầy đi ngõ nào mà tránh được hay vậy.

*Hay khỉ gì, đêm hôm qua tao đến trễ, không có chỗ đậu xe, nên tìm được một chỗ rất xa, rồi đi bộ vào nơi đám cưới.

-Hèn chi, phải mầy đi sớm, đậu chung với tao khi về chắc cũng toi mạng rồi. Ờ mà sao kỳ quá mậy, đêm qua hai cái đám cưới nằm cạnh nhau, tại sao Cảnh sát chỉ vây bên Việt nam mình, còn tụi Thổ chẳng có thằng Cảnh sát nào đếm xỉa đến.

*Đúng rồi, bộ mầy không biết sao?

-Biết cái gì.

*Tụi Việt nam mình, từ thanh niên đến ông già hễ có tiệc tùng gì, nhất là đám cưới vui vẻ, là hè nhau chơi thả ga, uống thoải mái. Lúc đầu còn tỉnh, biết nhậu là nguy hiểm, đề phòng đủ thứ. Nhưng khi uống ba hột vào thì quên mất, tàn cuộc là ra lái xe về, xem trời đất bằng hạt tiêu. Bởi thế, tụi Cảnh sát biết được nên chận lại hết, cho thổi bong bóng và lấy Bằng lái ngay. Ở tỉnh nầy Tao nghe mất bộn rồi đó.

-Rồi làm sao?

*Thì bị phạt tiền, nếu nhiều lần hay gây ra tai nạn thì đi học lại, thế thôi.

-Còn tụi Thổ tại sao không bị, Cảnh sát sợ tụi nó sao.

*Sợ cho nó buồn.Cảnh sát mà tha ai.Thủ tướng uống rượu say nó cũng chụp đầu huống chi dân dã tụi mình. Mà sao tao thấy mầy ngây thơ thật. Bây giờ tao nói luôn cho mầy nghe là tại sao tụi Thổ Không bị Cảnh sát chận kiểm

tra, là vì người Thổ xưa nay không bao giờ uống rượu. Từ những buỗi tiệc tùng nhỏ, lớn cho đến ở nhà, họ chỉ uống trà hay nước ngọt mà thôi. Khi nào rảnh rỗi mầy sang Thổ du lịch một lần, vào quán thường mầy tìm một chai Bia không ra. Sỡ dĩ có là họ bán trong các quầy Bar dành cho người ngoại quốc Du lịch mà

 

thôi, còn dân họ thì tuyệt không bao giờ uống. Theo tao nghĩ Văn hóa của họ cũng hay hay, một vài lần tao định bắt chước mà không được. Có lẽ mình là người Việt nam.

-À ra nãy giờ mầy nói tao mới hiểu, cả trọn đêm qua tao thao thức, bực mình và tự hỏi. Tại sao? Về phần tao mình có lỗi, họ tịch thu Bằng lái là đúng rồi.Tao không ân hận, tao chỉ ấm ức ở chỗ là không công bằng.

*Công bằng chứ mậy, họ là những người bảo vệ luật mà, ai sai là họ xử lý ngay. Thôi còn thắc mắc gì nữa không, tao phải về còn mấy chuyện cần làm ,hôm nào mình gặp lại.

*Okê, chào mầy. Trí sang qua nói với vợ, thằng Bình nó nói đúng, mình ngu thật. Tất cả cũng vì ăn nhậu mà ra nông nỗi nầy. Cám ơn thằng bạn đã giải thích tận tường và là bài học ở đời cho những ai thường hay say xỉn.

 

 

 

 

 

 

 Đêm hôm ấy

 

 Lẽ ra, đêm ấy Cậu tôi không chết, nhưng vì quá chén không trở tay kịp nên phải đành.

    Năm 1972  trong lúc tình hình chiến sự rất khóc liệt, nhất là vùng một chiến thuật. Cậu tôi đang làm việc tại Thiết đoàn 16 đóng tại Vĩnh long. Ông được lệnh thuyên chuyển ra Thiết đoàn 20 mới thành lập thuộc vùng một chiến thuật cùng một số người khác. Nhân dịp về đơn vị mới Cậu tạt ngang về nhà thăm gia đình trước khi ra vùng Hỏa tuyến.

     Bước vào nhà chưa được bốn giờ chiều, chưa gặp mặt chào hỏi ông bà Ngoại tôi và các Cậu dì, chỉ gặp Mợ và các em vì nhà Cậu nằm gần đường cái hơn nhà ông bà Ngoại. Xoay qua, nhìn lại Cậu gặp mấy ông bạn cũ cùng thôn rồi hè nhau nâng chén tao ngộ sau những ngày xa cách, gần bảy giờ tối, tàn tiệc Cậu về trong cơn say sỉn. Cuộc gặp gỡ ông bà Ngoại có lẽ dời lại vào ngày mai. Khi về Cậu cứ lèn èn bên những đứa con thân yêu của mình, mặc dầu sỉn thật, nhưng Cậu vẫn cố gắng âu yếm chúng.

     Nhưng không may, đêm ấy bọn ăn cướp mò ra gần Thị trấn chủ yếu thanh toán hai vợ chồng chủ tiệm vàng.Vì chúng để ý ông bà nầy sau khi đóng cửa tiệm về nhà thường hay mang theo tiền và vàng bạc. Cuộc truy kích bất thành bởi vì hôm ấy ông bà chủ không có về nhà mà ngủ lại tiệm vàng vì còn nhiều việc cần làm. Mợ tôi và những người xung quanh đều thấy những sự việc sắp xảy ra và tìm cách cho Cậu tôi lẫn ra phía sau nhà trốn thoát, bởi vì trên cổ và tay cậu tôi đang mang số lượng vàng khá lớn vừa có được là nhờ bán căn nhà tại Vĩnh long. Nhưng vì Sỉn quá ông ta không còn lý trí để nghĩ cách thoát thân, cứ lèn èn bên những đứa con của mình.Vô tình bọn họ nhìn thấy và xoay ngang bắn vào người Cậu tôi một loạt súng tiểu liên, cướp vàng trong tay rồi biến mất,với những viên đạn ấy, sáng hôm sau không ai nhìn được gương mặt thật của Cậu, thật là ác nghiệt và dã man.

   Khi tiếng súng vừa dứt, bọn họ bỏ chạy trên đường. Mợ tôi hốt hoãng chạy theo chúng và la to. Bọn bây giết chồng tao, sao không giết luôn bảy đứa nhỏ để chúng sống cảnh không cha làm gì. Chúng quay lại trả lời.Thôi chị về đi, tụi tui lỡ bắn anh Ba rồi, chị cho tụi tui xin lỗi. Những lời nói ấy Mợ tôi sau nầy đoán chắc là người không xa lạ mấy. Chạy theo một đoạn cho hả hơi cơn giận, Mợ tôi trở về chỉ biết la trời trong đêm tối.

   Cảnh vật như chùng xuống, màng đêm bao phủ, tiếng súng nổ, tiếng chó sủa, tiếng người la vang, tạo nên khung cảnh hãi hùng. Bây giờ tất cả mọi người xung quanh tắt đèn và đóng cửa và im lìm trong mái nhà hiu quạnh. Riêng ông Ngoại tôi cũng thế, nhưng vì quá thương con bèn xách chiếc đèn cốc xuống tận nhà Cậu tôi lo tắm rửa, rồi đặt Cậu tôi lên Giường và sáng mai tính tiếp. Ông khuyên mợ tôi hãy bình tĩnh, đừng khóc nữa, mọi chuyện đã lỡ rồi, làm lớn chuyện lên chẳng ít lợi gì, hơn nữa các cháu hoãng sợ giữa đêm khuya thì khổ lắm. Đêm ấy ông không về nhà mà ở gần bên cạnh Cậu tôi cho đến sáng.

  

 

       Sáng hôm sau những người trong nhà và những những người trong xóm kéo đến để phụ giúp mợ tôi mai táng. Họ hỏi đủ điều. Ông ngoại tôi chỉ trả lời do rượu mà ra, lẽ ra, thằng Ba nó đâu có chết.

 

 

 

 

 

 

 

 13Thằng Tín

 

    Ba ngày nay ai ai cũng chạy tìm thằng Tín và cả Công an nữa, không biết nó đi đâu hay có mệnh hệ gì, để vợ con nó khóc la, khóc lết.

     Thằng Tín rất hiền từ, từ ngày cha nó mất, nó phải vất vả thức khuya, dậy sớm cùng mẹ nó ra chợ bán bánh kẹo để nuôi bảy đứa em. Nó thì thứ ba còn chị hai nó thì đã theo chồng về xứ khác.

     Năm 1987 nó vừa tròn 18 tuổi và được gọi đi nghĩa vụ quân sự. Học xong ba tháng tại Đồng tâm Mỹ tho nó được đưa sang Cam- pu- chia công tác, hồi ấy tình hình Cam- pu- chia nóng bỏng. Bản thân nó từ nhỏ đến khi đi lính chưa biết uống giọt rượu nào, nhưng vì quá sợ chết, nên mỗi khi ra điểm gác nó với thằng bạn lúc nào cũng mang theo bình ton rượu đầy, hai thằng chờ khi vừa xụp tối là nốc ào ào vào bụng cho thật say và nằm ngủ, lỡ khi lính Pôn- pốt có đi ngang qua chúng không phát hiện được và khi trời gần sáng là hai thằng đã tỉnh và lần mò đi về. Ngày nào nó và thằng bạn cũng đều làm thế. Có lúc Thủ trưởng nó đi tuần tra bắt gặp. Nó bảo, nó bị nhức răng nên uống một chút cho đỡ nhức để còn canh gác.Thủ trưởng nó nghe có lý và bỏ qua.

   Đi nghĩa vụ ba năm nó lên được Thượng sĩ, Đơn vị hỏi nó có muốn đi học khoá Sĩ quan và đi lính tiếp không hay muốn giải ngũ? Nó lưỡng lự rồi cuối cùng từ chối và xin giải ngũ vì nó muốn về phụ mẹ nó buôn bán nuôi mấy đứa em. Đơn vị bằng lòng.

   Khi về đến nhà thì vỡ lẽ, mẹ nó không còn buôn bán nữa, đã bán nhà và dẫn bầy em nó đi về vùng kinh tế mới cách đó gần mười cây số. Em nó bây giờ cũng đã lớn và phụ mẹ nó được như nó ngày xưa. Đứa trồng Khốm, đứa nhổ Bàng, đứa tìm Củi để bán kiếm sống và nó cũng bắt tay vào phụ giúp mấy đứa em nó.

    Thời gian sau nó quen được một cô bạn gái, lấy làm vợ và hai đứa ra sống riêng. Ông bà già vợ nó cho hai vợ chồng ít tiền, nó mua chiếc xe ba bánh đạp lây lất qua ngày và sống dưới mái chồi tạm bợ trông đất ông Nội nó. Mỗi ngày chạy ba bánh nó va chạm rất nhiều người, đa số là dân đứng bến, ăn nhậu. Nó chiều nào về cũng say sỉn te tua, có lúc mang tiền gạo về nuôi vợ, có lúc trắng tay,vợ nó thường hay khóc lóc. Lúc nó tỉnh thì hiền như cục đất, dễ thương, ai nói gì cũng dạ còn khi rượu vô rồi thì hoàn toàn quên mất.

    Một hôm nó nhậu quá say, bỏ xe ba bánh tại chỗ đi bộ về nhà, đau bụng quá nó vào cầu cá gần bên, nhưng không biết sao nó bị nhào đầu xuống ao, uống nước và chết ngộp.

    Cả nhà và người thân hôm ấy chẳng thấy nó về, nên đi hỏi quanh. Sợ nó sỉn say ngủ gần đâu đó, nhưng vẫn không tìm thấy, đến ngày thứ hai, rồi thứ ba và báo cả Công an cùng tìm, nhưng cũng chẳng tung tích. Bà con ai cũng thở than sao kỳ lạ thế, nó nghèo rách mồng tơi ai mà thèm bắt cóc nó làm gì.

   Chiều lại có người đi cầu cá, vô tình thấy cái áo nổi lên, chạy la tứ tả, người ta ùng đến vớt lên, thì té ra là thằng Tín bị chết hụt mấy ngày nay.

    Sau cái chết bi thảm, nhiều người trong làng đến chia buồn và đưa tiễn nó đến nơi an nghỉ cuối cùng, vì nó ăn ở hiền từ nên rất có nhiều người thương.Có người khóc thật nhiều và nói.

 

Đi Đông, tây không sa, không sẩy

Về đến nhà vấp bẫy hèm chua

Vợ con khổ sở, te tua

Áo không đủ mặc, cơm chưa đủ lòng.

 

 

 

 

 

 

12-nh Hưởng

 

  Người Nông dân Việt nam nói chung và người miền tây Nam bộ nói riêng, vốn từ xưa nay được sinh ra rồi lớn lên ở một đất nước Nông nghiệp, ruộng lúa phì nhiêu, hoa quả tràn đầy, nơi nào cũng có sông nước, một cảnh quang thơ mộng do thiên nhiên ban tặng rất hiếm đối với các quốc gia khác.

      Công việc người Nông dân ở đâu cũng thế, rất cực nhọc và nặng nề. Nhưng nó chỉ trong khoảnh khắc, rồi sau đó trở về với cuộc sống an nhàn chờ vụ.

      Trong thời gian lam lũ ngoài đồng, sau những giờ phút giải lao hay chiều về nhất là những người đàn ông, thanh niên người ta hay thường mượn rượu để khuây khỏa. Vì rượu là những nguyên liệu và sản phẩm sẵn có, vừa dễ chế biến, ngon mà không mất tiền. Để bù đấp lại những giây phút vất vả ấy, rồi đi ngủ để sáng mai tiếp tục ra đồng. Ngày nào cũng thế và mùa nào cũng thế liên tiếp cả đời người.

      Sau thời gian đó, họ giao lại cho trời đất và trở về với cuộc sống an nhàn, có người đi tìm thêm việc khác, có người khá hơn nằm võng tòn ten chờ đến mùa để gặt. Thời gian rảnh rang còn lại, họ cũng chẳng biết làm gì ngoài việc nhậu nhẹt, ăn chơi gọi là thụ hưởng. Một mùa vụ như thế vừa bán đi, vừa còn lại họ dư sức sống cả một năm. Bởi thế, họ chẳng cần lo vì hết, cứ ăn rồi nhậu, cứ nhậu rồi ăn, dần dần từ đời nầy, sang đời khác họ trở thành thói quen, không làm khác hơn được.

    Ngày xưa ai ai nói chung cũng hiền từ, chất phác sản phẩm họ làm ra là chánh hiệu. Mặc dầu rượu là loại cồn rất độc hại, nhưng không đến nỗi, vì tất cả là tự nhiên. Ngày nay lại khác, người ta rất ma ranh, mưu mẹo lợi dụng những thiên nhiên ấy mà làm những điều bán tận lương tâm. Chủ yếu để hái được nhiều tiền còn ngoài kia bao nhiêu sinh mạng Nông dân,Thanh niên ai có chết thì chết, họ bất cần không màng đến. Một xã hội quái quăm như thế thử hỏi còn gì những con người sản xuất ra của cải vật chất. Biết rằng luật phát không thể tha thứ những kẻ ấy, nhưng họ vẫn lén lút làm những điều tồi bại, nhuốt nhơ thật là đáng trách và nguyền rũa.

     Lâu lắm rồi người ta phát hiện được rượu chế biến bằng những giọt hoá học chống sâu rầy.Thế mà người ta vẫn uống, biết rằng uống nó sẽ đưa đến sự nguy hiểm cực độ, nhưng người ta vẫn uống và không sợ.Tại sao? Rất dễ hiểu và dễ trả lời, là gì nghiện quá, hơn nữa lại rẻ gấp cả chục lần. Chính vì thế một khi đã rẻ, vừa túi tiền là người ta cứ trút vào thân mà không cần suy nghĩ.

   Nói tóm lại, sự nghiện rượu cũng do hoàn cảnh mà nên, đất nước ta là xứ sở sanh ra lúa gạo, xứ sở an nhàn làm nhiều cũng có ăn, làm ít cũng có ăn thậm chí không làm mà cũng có ăn, không cần phải chạy đôn, chạy đáo như bao xứ khác. Chính vì sự an nhàn đó mà đôi khi xảy ra nông nỗi.

   Rượu càng rẻ, dù ngon hay dở là kẻ thù của nhân loại.

 

 

 

 

Hai Thế Hệ

 

Nó bảo: Ông ơi ! Tết năm nay cháu muốn kiếm một ít tiền ăn tết cho xom tụ. Ông thấy có được không ông?

Ông trả lời:

- Được chứ. Nhưng cháu kiếm bằng cách nào? Trong khi cháu còn nhỏ, ai mướn cháu, ai thuê cháu.

- Cháu có cách.

- Cách gì nói ông nghe coi nào.

-Cháu định mượn bộ đồ vẽ Thư pháp của ông ra góc Đình làm nghề vẽ Thư pháp giống như ông mấy năm trước vậy đó. Bây giờ ông già rồi ông không hành nghề nữa ông để đó làm gì, chỉ cũ thôi.

- Cháu có ý đó thì cũng tốt, nhưng không nên đâu cháu à, việc làm ấy không phải chỉ vẽ để lấy tiền công, mà nó còn mang một ý nghĩa rất lớn  cho ngày xuân, ngày tết. Khi cháu vẽ xong, cháu phải giải thích cho người cần mua như thế nào, chứ không phải cái bánh đưa tiền, trao tay rồi đi ngay đâu.

 

   Nó nghe xong buồn hiu và quây đi nơi khác, ông cũng chẳng vui khi không giúp được cháu mình.

 

   Nhưng không dừng lại ở đó, nó chờ ông đi vắng, vào phòng lấy bộ đồ nghề ra chợ ngồi ngay góc Đình làm kiểu cách giống y ông cụ ngày xưa. Vì trước đây ít năm mỗi khi tết đến nó thường theo ông ra chốn nầy nên nó khá rành rẽ từ cách vẽ, đến cách chìu khách như thế nào. Xung quanh cái Đình lớn, góc nào cũng có người ngồi vẽ Thư pháp, nhưng đa số là người cao tuổi, chỉ riêng có mình nó là bé tí ti. Thiên hạ ngang qua thấy nó nhỏ mà vẽ rất đẹp nên ghé vào, nửa nhờ nó vẽ, nửa muốn giúp nó. Bởi, nó ăn gía rẻ mạt. Các quầy khác thì 30 ngàn một chữ, còn nó chỉ 10 ngàn. số tiền chênh lệch 2/3 bà con tha hồ xúm vào nhờ nó vẽ, họ chỉ cần vẽ đẹp mà không cần ý nghĩa như ông nó thường bảo. Quầy của nó trong mấy ngày tết rất đông đa số là Sinh viên và Học sinh. Họ chỉ cần một tấm Thư pháp nhỏ cầm về quê biếu cha mẹ vào những ngày xuân là đủ rồi.

 

   Sau một tuần làm việc trừ mực, giấy nó kiếm được gần 2 triệu đồng. Nó tha hồ mua sắm. Ông nó hỏi?

- Tiền đâu cháu sắm nhiều thế.

- Thì Tiền cháu học ở ông, cháu vẽ Thư pháp cả tuần nay ngoài Đình.

 

   Ông nó lắc đầu, cứng họng với thằng cháu thông minh và ngang ngạnh nầy. Rồi ông bắt đầu nhỏ giọng, hỏi han đủ thứ. Nó ngồi kể hết đầu đuôi gốc ngọn cho ông nghe. Nghe xong ông chỉ biết cười và nói:

 

Ngày xưa Thầy vẽ đội khăn

Áo dài, quần lảnh, đôi chân guốc hài

Tuổi niên độ tám mươi ngoài

Tay chân run rẩy, hàm nhai vôi trầu

 

Ngày nay Thầy vẽ không râu

Sơ mi, quần túm, tóc đầu đỏ, xanh

Chữ nho thì vẽ rất rành

                                                        Hỏi qua ý nghĩa Thầy đành bó tay

 

Bảo xưa có giống như nay

Bao người cuối mặt chẳng ai trả lời

Trời ơi! Ớ hỡi là trời

Thầy đồ như thế, lại đòi tiền công.

 

 

 

Thật đúng là hai thế hệ.

 

Thủy Điền

 

25-01-2017

 

 

 

 10-Thất nghiệp

 

  Bà chủ quán Cà-phê phàn nàn. Sáu mầy thấy không? Quán tao dạo nầy ế ẩm, khách vào uống Cà-phê mà thấy mặt thằng Danh Cô hồn ngồi là họ muốn đi ra. Sáng nào cũng vậy nó vào kêu một cái Bạc xỉu xong, hết bình Trà nầy, tới bình Trà nọ rồi ngồi tới trưa chẳng chịu về. Bực mình dễ sợ.

    *Có gì đâu mà bực mình chị, thì nó ngồi câu khách cho chị đó, còn không thì quán vắng teo

    -Câu câu cái con khỉ, thiên hạ thấy nó là phác chán.

     *Vậy ngày mai chị đừng cho nó vào.

    -Không được.

     *Hay nhất chị câm lặng thì hơn.

    -Nói như mầy, nói cho mất công.

Nói thì nói, chớ thằng Sáu quá rõ về thằng Danh, chẳng qua bà chủ quán bán ế ẩm rồi đỗ thừa nó vậy thôi. Bả bán ế là vì cái miệng bả lép xép, chuyên môn đem chuyện người nầy, mách cho người kia nên thiên hạ sợ cái miệng của bả mà không dám vào. Chứ lúc trước bà chủ cũ, quán nầy sáng nào cũng đặc nghẹt.

   Thằng Danh chỉ ngồi một lát rồi lại đi. Nó mắc mớ gì ngồi hoài đó làm chi cho mệt. Nó đang thất nghiệp, nhà chẳng có đất đai lấy chi mà trồng trọt, làm mướn thì không ai mướn, nên mỗi ngày nó cứ lỏng nhỏng, hễ ai rủ nhậu là nó xáp vô liền và ngồi đến nửa đêm cũng được. Còn Cà-phê sáng là chỉ lót lòng, có đãi nó thêm mười ly nữa nó cũng chẳng thèm.

   Lúc trước nó theo ba nó lên Sài gòn làm Hoả xa được vài năm, thì ba nó bệnh sốt rét rồi chết, còn một mình nên nó quay về quê sống chung với mẹ và đứa em gái của nó. Nó tưởng về quê sẽ kiếm được công việc khác để sinh sống. Ai ngờ, gần cả năm nay chẳng tìm được một việc nhỏ, chớ đừng nói đến việc lớn. Nó buồn quá đi lang thang hết Cà-phê, rồi đến rượu tìm cách giải sầu. Ngày nầy, qua ngày nọ, bây giờ nó dường như là một thói quen. Má nó rầy la mãi, nhưng chứng nào, tật nấy và bỗng dưng bây giờ nó trở thành anh nghiện rượu hồi nào không hay.

     Năm nay nó hai tám tuổi, không người yêu, vợ con vì cả. Tối ngày cứ mặc chỉ cái quần tài lõn đi lang thang kiếm nhậu. Hồi đầu từ Sài gòn về nó còn chút đỉnh tiền nên nhậu nhẹt cũng sang, bạn bè đông đúc. Sau hết tiền chẳng ai rủ rê nó bắt đầu đi nhậu ké, mỗi lúc nhậu người ta sai nó như mua rượu, tìm mồi như con không đẻ và thốt lên những tiếng khốn cùng. Nhưng nó không giận và ngược lại còn cười. Miễn có rượu uống là nó hài lòng ngay, trông rất là khủng khiếp.

    Có lúc nó thèm rượu quá, nhưng không có, nó đành ngồi dưới gốc cây hai tay cào đầu, cào cổ như kẻ nghiện xì ke không hơn không kém. Mỗi lần nó về

nhà má nó bảo nó đi tấm rửa, nó dạ dạ, nhưng không bao giờ làm theo, cứ đi lang thang, te tua như kẻ Ăn mày.

    Má và em nó ở nhà cứ khóc và không cách nào tháo gở được vì hiện tại con sâu rượu đã bám vào người nó mà không chịu buông. Có những lúc nó tỉnh táo,

 

nó bảo, nó sẽ bỏ rượu, nhưng nửa tiếng sau không biết rượu ở đâu lại thấm vào người nó trở lại. Hay thật trong khi túi nó chẳng có một hào.

    Chỉ hơn một năm thôi, nó bây giờ tiều tụy, sức lực mỏi mòn không còn làm gì được cả và đang chờ ngày theo ba nó về bên kia Thế giới.

 

THỦY ĐIỀN

 

 

 

 

 9-Ỷ lại

 

   Sau đám tang thằng năm Vọi, vợ nó khóc tức tưởi gần cả tháng trời.Tại mình mà ảnh mới chết.

   Thằng năm Vọi sanh ra và lớn lên tại một vùng chàì lưới gần bờ biển. Nó to lớn, lực lưỡng đã từng chịu sóng gió, bão táp phong ba ở xứ nầy cả mấy chục năm nay mà không phút giây nao núng. Một mình nó đi biển làm nuôi sáu miệng ăn trong gia đình như chơi, vợ và ba má nó chỉ ngâm cá với nước muối phơi khô bán thêm cho có lệ.

    Từ lúc nó lên mười đã biết biển và biết cầm ly rượu uống. Nó uống rượu giống như bao chàng thanh niên cở nó uống nước lả. Bởi thế khi đi biển về, đám đình, tụ tập ai cũng đều rủ rê nó và nó chưa bao giờ từ chối một đám nào. Không phải là nó nghiện rượu và ham nhậu, nhưng bản tính nó là thế hay vì bạn bè, làng xóm nên mọi người rất thích nó. Nó có cái điểm tốt là nhậu về nằm ngủ chưa bao giờ to tiếng hay quậy phá người khác.

   Mỗi ngày rượu vào người nó nửa lít là chuyện bình thường, nó ăn rất khỏe và ngon miệng. Cứ mỗi lần nó đi nhậu về là nằm quệt trên ván ngủ không chiếu, không chăn tỉnh dậy là đi te te như người khỏe mạnh, nhiều lúc có mấy người quen sang chơi bảo. Sao vợ thằng Vọi không lấy cái gì đấp cho chồng bây, lỡ cảm gió nửa đêm thì chết mất. Con vợ nó có bản tánh ỷ lại, nghĩ rằng nó khỏe mạnh như Voi nhầm nhò gì, lúc nó say có khi vợ nó đấp chăn, có lúc không.

   Ở xứ biển ban ngày oi bức, nhưng về chiều và đêm thì trời lạnh lẽo và thường hay có những cơn gió thổi ngang rất độc địa, lắm lúc một bầy gà con chiều còn khỏe đi đứng cời cời, nhưng sáng hôm sau ngủm hết cũng vì những cơn gió vô tình ấy.

   Gia đình thằng Vọi và những người sống gần vùng biển nầy đều biết rõ như vậy, nhưng chưa bao giờ họ tránh né, đề phòng họ dỉ ngươi cứ cậm cụi vào ba con cá mà quên tất cả.

   Tháng bảy vừa qua trời mưa nhiều, gió cũng nhiều thằng Vọi đi biển cũng cực nhọc vô cùng mới kiếm được cá. Một hôm ông chủ nó trúng mánh một mẻ cá to tát, về chia nhau, người nào người nấy mang về nhà một lố. Sẵn dịp ông chủ nó đãi nhậu một trận linh đình.Vừa mang cá về nhà, nó vội đi ngay cho kịp buổi nhậu.Vợ nó bảo

*Sao anh không tắm rửa, mặc đồ khác rồi đi.

-Nó bảo. Tắm rửa cái gì, người ta đợi mình ở bển kìa, thiên hạ ai cũng như ai mới đi biển về có dơ dái vì đâu mà tắm, còn mặc đồ khác lát nữa về cũng nhăn nheo hết, phí lắm, thôi anh đi đây.

 *Thôi sao cũng được, tùy anh.

      Buổi tiệc linh đình, ông chủ cho phép nó làm chủ xị, cà kê đến tối ai ai cũng quắt cần câu, nhưng nó chỉ ngà ngà. Tiệc tàn, nó lơn tơn về với chiếc

quần tài lõn đi hàng bốn.Về đến nhà chưa đả, nó bắt vợ nó nướng hai con khô và lấy nửa lít rượu ra uống tiếp một mình. Đến khi thật say nó ngã tại chỗ ngủ

 

 

luôn.Trước khi nó say thì cả nhà nó đều ngon giấc và cứ nghĩ nó cũng chẳng có vấn đề gì.

      Sáng dậy nó nằm ngay đơ cáng cuốc, mặt mày xanh lét, mắt đứng tròng, vợ nó vội kêu y tá và hàng xóm,Y tá nói nó chết cách đây ba bốn tiếng rồi.Có lẽ cơn gió độc đêm qua đã ập vào người nó, khi nó ngủ mà chẳng có chăn mền gì cả.

 

THỦY ĐIỀN

 

 

 

 8-Bắt Chước

 

     Bốn ông tướng chiều nào cũng bày trước hành lang nhà xị rượu đế và mấy quả ổi, có khi vài ba con khô để nhắm. Chỉ có vậy mà khi trời vừa xạm tối thì mọi người đều nói tiếng cà lăm.

     Mới vào đề, ai cũng còn tươi tỉnh, anh anh, em em nghe thâm tình vô kể. Mấy đứa nhỏ đứng quanh xem người lớn uống rượu kể chuyện thì bị rầy la. Mấy con còn nhỏ đi chỗ khác chơi, ở đây là chỗ người lớn nhậu, mới nghe qua có vẻ phân cách rõ ràng. Mỗi khi uống hết rượu, thì bốn người thay phiên nhau đi mua rượu mới. Cái khoảnh khắc ấy chỉ tồn tại được một tiếng đồng hồ, rồi tự nhiên biến mất.

     Tay nâng ly vào ba, ra bảy người nói qua, kẻ nói lại. Thế mà đã mấy chốc rượu vào bụng mỗi người cả xị mà không hay. Giọng nói thì lập bập, cà lăm ngã qua, ngã lại khiêu khích lẫn nhau để cho xị cũ mau vơi, rồi mua thêm xị mới khác. Rượu càng lúc càng nhiều, sự đi đứng bắt đầu yếu dần, cứ ngồi một chỗ hét la to. Đứa nào đứng đó, đi đong giùm ba một xị coi con. Lẹ đi! Không đi tao đập chết bây giờ.Thằng nhỏ mới tám tuổi biết gì, sợ bị la, bị đòn nên ngoan ngoãn xách cái xị chạy u ra quán đong một chai đầy, vội vã mang về. Một lát sau cũng lập lại y như cũ, mỗi chiều nó phải chạy năm bảy lần ra quán, cho đến khi má nó bảo rửa mặt, rửa tay đi ngủ, ngày mai còn đi học thì nó mới được rảnh tay. Khi không còn sai khiến được ai nữa thì ba nó và ba ông bạn mới chịu tan hàng, ra về và đi ngủ.

     Cái nghiệt ngã ở đây là ngày nào cũng đều như thế, khi tỉnh táo thì nề nếp rõ ràng, còn lúc đã say sỉn thì quên đi con cái của mình và bà quán rượu cũng thế, vì ham bán, ham tiền không coi trước, xem sau đứa nhỏ bao nhiêu tuổi, ai bảo nó mua, hơn nữa mua vào lúc trời vừa xạm tối.

     Nó thấy ba nó ngày nào cũng nhậu, nó ngỡ ngon lắm. Một hôm nó rủ vài thằng bạn nhậu thử xem sao. Mấy thằng bạn đồng ý và hỏi?

*Tiền đâu mua rượu.

-Nó nói, tao mua, tao bao tụi bây, tụi bây đi hái ổi đi, sẽ có rượu uống ngay.

    Mấy thằng bạn đi hái ổi, nó chạy te ra quán bảo bà quán đong cho một xị, bà ngỡ nó đong cho ba nó nên chẳng hỏi một lời, chỉ ghi sổ cho ba nó thôi. Nó mang chạy ra chỗ hẹn. Mấy thằng bạn nói.

*Mầy tài thật, mới nói là có liền, bộ mầy chỉa của ba mầy hả?

-Đâu có, tao đã nói, tao mua.

*Ai bán cho mầy?

-Thì bà chủ quán.

*Tụi tao mua có được không?

-Tao đâu có biết, nhưng tao mua là bả bán liền.

*Sao kỳ vậy, bả thương mầy hả?

-Kệ tao, miễn có uống là được rồi, hỏi nhiều quá.

     Trong lúc nó đang nhậu ngoài gốc rơm, ba nó đi ra quán trả tiền thiếu mấy ngày qua, bà chủ quán tính thêm hai xị ngày hôm nay. Ba nó cự bà chủ quán

 

một trận, bà tính thế nào, hôm nay tôi chưa mua xị nào cả, sao bà dám tính thêm. Bà chủ quán nói.

*Con trai ông mới mua hai xị mang về ràng ràng đây, ông về hỏi nó thử xem?

-Vô lý, tôi chưa bảo, sao nó mua trước vậy cà. Tức quá, để tôi về hỏi lại nó.

*Ông về hỏi kỷ lại đi, tôi làm ăn đàng hoàng, có sợ ăn gian thì mai mốt đi quán khác mà mua.

     Ba nó về tìm nó hoài không thấy, một lúc sau nó từ ngoài gốc rơm vào, đi ngã lên, ngã xuống miệng lép nhép. Ba với má nó tá hoả, má nó dìu nó lên giường nằm, rồi xoay ngang dũa ba nó một trận te tua.

*Ông thấy chưa, ông sáng mắt ông chưa, bây giờ nó bắt đầu giống ông rồi đó. Mới có tám tuổi mà say lên, sỉn xuống. Ba nó ngồi ngậm câm chẳng nói một lời. Xong, bà ra mắng bà chủ quán một trận, kể từ hôm nay bà cấm bán cho chồng bà một giọt rượu. Bà chủ quán nói.

*Chị hơi vô duyên nhen, tôi mở quán, bất kỳ ai đến mua là tôi bán, chị về cấm chồng chị, còn tôi chị chẳng có quyền gì cấm tôi. Bà chủ quán nói đúng nên má nó bỏ về một nước.

      Chiều lại, ba ông bạn tri kỷ đâu có biết chuyện gì vừa mới xảy ra,vẫn cứ tự nhiên gọi ba nó nhậu, ba nó từ chối khéo, là hôm nay đi khám Bác sĩ, Bác sĩ bảo bị bệnh gan cấm uống rượu, nên ba ông bạn đành ra về  trong nuối tiếc.

 

THỦY ĐIỀN

 

 

 

 

7-Xem thường

 

  Gần hai tháng nay, đối diện một trường trung học mọc lên hai quán nhậu thật lớn. Một là quán Lẩu Lương, hai là quán Hải sản. Nghe tin quán sang trọng, chiêu đãi đẹp, phục vụ lịch sự, ăn ngon mọi người từ khắp nơi ùng ùng kéo đến.

      Trước đây đối diện nhà trường là một ao Sen rộng, nhà nước có kế hoặch san bằng để mở rộng thành phố, chủ yếu cho dân đầu tư như bán dụng cụ học sinh,văn phòng phẩm hay những tiệm sách v.v… mục đích phục vụ cho học sinh. Nhưng kể từ hai năm nay chẳng thấy ai đầu tư vào những ngành nghề nầy cả. Một bãi trống hoang vẫn nằm đó, cỏ lác bắt đầu tự do vươn mình trong nắng gió, chờ hoài, chờ mãi không được, nên nhà nước phải đành cho hai quán nhậu đầu tư. Trước tiên nhà nước cũng có lợi và bãi trống được thành hình,

      Hai quán nhậu nầy hoạt động từ mười một giờ sáng đến hai mươi hai giờ đêm, liên tục không ngày nào nghỉ cả. Khách hay đến vào thời điểm mười hai giờ trưa và năm giờ chiều. Ngoài việc ăn nhậu quán còn kèm thêm món Karaoke bởi thế, tiếng vang lồng lộng cả khu vực ai ai cũng đều nghe rõ. Nhiều lần nhân dân than phiền và nhất là nhà trường luôn luôn bức xúc. Nhưng rất tiếc, chủ Đầu tư đã bỏ ra quá nhiều tiền cũng như sự đồng thuận của nhà nước trước khi lập quán, thì thật khó bảo người ta dẹp một cách dễ dàng. Đề nghị giảm tốc độ thì nghe còn có lý.

     Trường học có gần một ngàn học sinh cấp hai, cấp ba. Tuổi vừa mới lớn. sáng đi ngang qua, trưa đi ngang lại, mười ngày chúng đã nhìn thấy trọn mười ngày, lúc nào cũng có một đoàn người ăn nhậu no say, ca hát vui vẻ.

     Học sinh là một khối người, mọi từng lớp trong xã hội, nghèo giàu đủ hạng v.v…Người giàu thì muốn hưởng thụ hơn, kẻ nghèo thì tò mò học sách. Chúng ngỡ ăn nhậu là một thứ gì cao quí, sang trọng. Ca hát là một trò giải trí tuyệt vời. Bao nhiêu đó đã ăn sâu vào lòng chúng một ngày một chút và dần dà trở thành tiêm nhiểm, vì chúng còn quá thơ ngây.

    Sau giờ tan học chúng tập họp nhau lũ năm, lũ bảy mua rượu, mua mồi tập tành người lớn. Một ngày tụ họp, hai ngày tụ tập rồi trở thành thói quen. Hễ gặp nhau là nhậu, chúng tự dưng quên đi ly Sinh tố, ly nước Mía cạnh góc trường. Có những lúc say quá độ, ngày mai chẳng thèm đến trường, khi cha mẹ rầy la, tra hỏi thì bảo là con bệnh. Cứ hết lớp nầy, đến lớp khác học đòi, đua chen làm băng hoại đám thanh niên vừa mới lớn.

    Nhậu thì nhậu, chẳng ai cấm cản vì cả, nhưng khi vào ba, ra bảy người ta quên mất phía đối diện mình là một mái trường gần một ngàn học sinh, trong đó có con và cháu mình đang học và thậm chí chiều nay khi tan học về chúng sẽ bắt chước mình tay nâng ly vào năm, ra tám.

 

 

 

 

 

Việt Nam Nước Tôi

 

Trong những ngày cuối năm tết đến, xuân về. Tôi còn đọng hai tuần nghỉ phép thường niên của năm vừa qua, nên làm đơn xin cơ quan cho nghỉ hết những ngày ấy để cùng gia đình đoàn tụ mừng xuân, cúng ông bà tổ tiên và là cơ hội để con cháu còn nhớ đến phong tục Việt nam. Với những lúc rảnh rổi tôi bật máy lên tìm vài bài thơ cũng như vài bài truyện ngắn đọc cho vui. Vô tình tôi đọc được bài thơ nội dung như sau:

 

Tôi Rất Sợ Rồi Sẽ Một Ngày

 

Tôi rất sợ 
rồi sẽ một ngày 
hình Mao Trạch Đông rất to 
đóng khung thật đẹp 
treo ở nơi trang trọng nhất trong nhà  

Những lá cờ 
nền đỏ, 5 ngôi sao vàng 
một lớn, bốn nhỏ 
phần phật tung bay khắp phố  

Những con đường 
Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Trưng Vương 
gợi những trang sử hào hùng, bất khuất 
thay bằng những cái tên Tàu lạ hoắc.  

Tôi rất sợ 
rồi sẽ một ngày 
cầm trong tay thẻ Chứng Minh Nhân Dân 
tên của mình được phiên âm 
đọc lên như người nói ngọng  

Những đứa trẻ Việt Nam đến trường 
xì xồ tiếng Quảng Đông, Quan Thoại 
đọc Ngũ Kinh, Tứ Thư 
Truyện Kiều của Nguyễn Du 
vứt vào sọt rác 

Và tôi cũng rất sợ 
rồi sẽ một ngày
trên bản đồ thế giới 
mảnh đất hình chữ S 
với cái tên Việt Nam thân thiết 
thành Khu Tự Trị Ngoại Biên (1) 
không còn nằm trong Liên Hiệp Quốc 
vì đã mất tư cách thành viên 

Hỡi toàn thể dân tộc Việt Nam 
đất nước đang thậm chí nguy nan
nếu cứ “lửng lơ con cá vàng” 
cái ngày đáng sợ ấy … 
sẽ đến.

Xin giấu tên Tác giả.

 

Bài thơ mới đọc qua thấy hiện rõ lên ở mặt trước là một con người luôn quan tâm về đất nước, rất được trân trọng. Nhưng đọc lại lần hai, sâu sắc hơn một chút thì nó hiện ra ở phía sau một mặt khác, thật vô lý và bi quan.

 

Vô lý và bi quan ở chỗ nào?

 

     Theo tôi biết ông ta là một nhà thơ, nhà văn, nhà bình luận thơ, một nhà uyên thâm về văn học chớ không phải hạng tầm thường. Mà đã là một nhà phê bình thì trước khi viết bài thơ nầy ông ta phải hiểu dân tộc Việt nam là một dân tộc như thế nào chứ. Tôi xin nhắc lại mà những điều nầy ai cũng biết và từng biết. Dù dân tộc ta đang sống dưới chế độ nào đi nữa.

 

1-    Dân tộc Việt nam là một dân tộc anh hùng, xưa nay chưa bao giờ biết khuất phục trước một kẻ xâm lược nào.

2-    Là một Dân tộc luôn có sự đoàn kết gắn bó khi hữu sự.

 

Một dân tộc trên thế giới khi đã đạt được hai điểm trên thì đừng hòng ai mà cướp nước hay mất nước được. Ta phải hãnh diện điều đó.

Bằng chứng cụ thể cho ta thấy qua nhiều triều đải cổ, tân.

 

1-    Dưới thời nhà Trần

 

a-Quân Nguyên Mông đâu có vừa, năm 1258 hai cha con Uriyangqatai và Aju kéo 1,5 vạn quân sang chiếm kinh đô Thăng Long tưởng là yên. Nhưng chỉ trong vòng nửa tháng tức cuối tháng giêng 1258 là bị quân Đại việt đánh bại và chiếm lại Thăng Long.

b- Lần hai kéo sang tiếp cũng chiếm Thăng Long, nhưng rồi cũng bị vua Trần và Thái tử dẫn quân đến Đông Bộ Đầu (Nay là Ba Đình- Hà nội) giáng cho những đòn chí tử. Cuối cùng cũng bỏ chạy về phương bắc.

 

2-    Khởi nghĩa Lam Sơn

 

Cuộc khởi nghĩa nầy cũng rất cam go, phải trải qua 3 giai đoạn khác nhau:

1418-1423 tại Thanh Hoá

1424-1425 Khi trên đường tiến về phía nam

1426-1427 Giải phóng Đông Quan

Trong 3 giai đoạn nầy ta phải đối đầu với 2 đội quân đó là quân Minh và quân Ai Lao. Trước những thắng lợi nhỏ, thừa cơ hội năm 1424 Lê lợi kéo nghĩa binh ra Nghệ An đập tan 10 vạn viện binh của đối phương tại núi Chi Lăng và giết chết tên chỉ huy quân Minh là Liễu Thăng. Khi chiến thắng xong Lê Lợi cử Nhà Văn thần Nguyễn Trải viết “Bình Ngô Đại Cáo “ Hầu cho dân chúng biết về trận thắng nầy.

 

3-    Hai Bà Trưng

 

Là những người đàn bà anh hùng đã từng chóng lại nhà Đông Hán. Tuy bị Mã Viện đánh bại nhưng dòng sông Hát Giang vẫn là nơi mà dân tộc Việt nam phải ghi nhớ và noi gương đời đời.

 

4-    Chiến tranh biên giới

 

Và mới gần đây nhất là ngày 17 tháng 2 năm 1979 quân Trung Quốc đồng loạt tấn công các tỉnh phía bắc và đúng một tháng sau tức ngày 16 tháng 3 quân Trung quốc phải rút ra khỏi lãnh thổ Việt nam. Tuy nói thế, nhưng cuộc chiến tranh nầy vẫn còn lẻ tẻ kéo dài đến 10 năm sau mới chấm dứt.

 

5-    Chiến tranh Campuchia (Khmer Đỏ)

 

- Ngày 4 tháng năm 1975, Campuchia định chiếm Phú quốc, nhưng bị đẩy lui

- Tháng 4-1977 Khmer tiến sâu vào Việt nam 10 km tại Ang giang

-  Ngày  25 tháng 9 cùng năm họ dùng 4 Sư đoàn tấn công các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành thuộc Tây ninh dưới sự cố vấn của Trung Quốc nhưng vẫn bất thành. Và còn nhiều nữa……..! Ngoài ra ta phải hiểu rằng Thế giới ngày nay còn có cả Hội Đồng Cao Ũy Liên Hiệp Quốc, có những nước tôn trọng tự do, hòa bình, nhân quyền, thì không ai nhắm mắt làm ngơ trước những những cuộc xâm lăng trái phép như thế.

 

6-    Mối lo âu khi Người Trung Quốc có mặt tại Việt Nam.

 

 Giới đầu tư và con buôn Trung Quốc sang Việt Nam cũng giống như giới tàu Chợ Lớn mà thôi. (Chợ Lớn thì ở luôn, còn đám nầy có hạng định)

 

Và, một điều ta cần cân nhắc, bài thơ trên vô tình gây ảnh hưởng lớn cho 2 giới:

1-    Người không nắm rõ vấn đề dễ bị hoang mang.

2-    Giới trẻ sống ở ngoại quốc sẽ có sự suy nghĩ không chính xác về cha ông mình.

 

Chưa chi là lại bi quan

Chưa chi mà vội họa mang vào mình

Còn lâu mới đứng lặng thinh

Để cho Tàu giặc nghênh nghênh vào nhà

Việt nam Phụ lão, đàn bà

Không gươm, không súng chổi chà cũng chơi

Khi nào máu cạn cùng hơi

Thì ta hãy nói những lời bi quan

Bao giờ hơi thở chưa tàn

Thì quân xâm lược phải hàng giơ tay

Thử đi mới biết ai hay

Thử đi mới biết ai tài, ai khôn.

 

Thủy Điền

23-01-2017

 

 

Sỹ diện

 

  Nghĩa vừa lái chiếc Hon-da ngang qua cửa hàng bà Nga, trưa nắng, trời oi bức gian hàng vắng khách bà ngồi trên chiếc ghế mây cầm trên tay chiếc quạt giấy quạt qua, quạt lại. Bỗng chợt bà nhìn thấy Nghĩa. Bà la to, ê kìa thằng Nghĩa vào đây Dì có chuyện. Nghĩa dừng lại, dạ có chi Dì Nga? Có chứ mậy.

   Lần nào cũng thế, hai căn nhà cạnh nhà Nghĩa mỗi khi có tiệc tùng là Nghĩa rất bực mình với cái giọng hách lối của người hàng xóm, ăn miếng gì cũng khoe, uống thứ gì cũng láo. Bởi họ thấy gia đình Nghĩa nghèo hơn họ.

   Nhân ngày thôi nôi thằng út Nghĩa nghĩ ra cách trả thù cái đám người vớ vẩn nầy. Nghĩa mời rất đông bạn bè, hàng xóm ngoại trừ hai nhà xác vách. Nghĩa đến quán bà Nga đặt bà mười kết bia Heineken. Bà Nga hỏi? Mầy bữa nay có tiệc tùng gì mà mua lắm thế Nghĩa?

-Đám thôi nôi con tôi.

*Trúng mánh sao đãi dữ thế mậy?

-Trúng cái gì, con Út, đứa chót làm cho đáng vậy mà.

*Bao nhiêu tiền vậy Dì Nga?

-Bốn triệu mầy.

*Con đưa trước Dì hai triệu.

-Còn phân nửa,

*Ít ngày nữa con mang sang cho Dì, được không ?

-Ừ

     Nửa tiếng sau có người mang mười kết bia vào nhà, khách cũng đã đến đầy đủ. Nghĩa bắt đầu cho nhập tiệc. Mọi người vừa nhậu vừa nói.

  Ông Nghĩa kỳ nầy chơi xộp quá, đãi toàn Heineken lâu lắm rồi mới uống được nó, ngon quá, mấy đám trước uống toàn là rượu đế sang lắm là bia Sài gòn nhãn xanh không. Chơi như ông Nghĩa nầy mới đúng là chơi. Lời qua, tiếng lại hai nhà hàng xóm gần bên chẳng mấy đặng lòng.

    Tàn tiệc khách về, Nghĩa nói với vợ.

*Mình thấy không? Hôm nay tôi chơi một bữa cho mọi người lé mắt.Thiên hạ khen vợ chồng mình quá trời.

-Mà tiền đâu ra mình mua nhiều bia thế mình?

*Ờ, ờ thì có đáng gì, mọi chuyện đâu vào đó mình khỏi lo.

    Nghĩa hận nhất cái câu thời buổi nầy mà còn uống rượu đế, quê ơi là quê. Thời buổi nầy là phải uống bia chai thì mới khoái khẩu.Vì hàng ngày vào những buổi chiều khi đi làm về Nghĩa và mấy ông bạn đồng nghiệp thường hay nhậu rượu đế trước hàng ba. 

   Cả tuần rồi, bà Nga trông đứng, trông ngồi thằng Nghĩa mang hai triệu ra trả mà không thấy, hễ vào tận nhà đòi thì sợ mất khách, sợ thằng Nghĩa giận

mai mốt nó sẽ sang hàng khác.Thôi ráng chờ vài hôm nữa. Nhưng may quá tình cờ thằng Nghĩa ngang qua Bà hỏi?

*Nghĩa nè. Còn hai triệu nữa sao lâu trả quá vậy Nghĩa

-Dì nán nán cho con ít hôm đi Dì Nga

 

*Không được đâu Nghĩa, Dì đang kẹt vốn lắm Nghĩa.

-Thôi được, Dì nói thế thì mai con mang ra, thôi con về nha Dì Nga.

*Nghĩa nhớ nha mậy.Tao chờ

     Bước vào nhà gương mặt Nghĩa bí xị, vợ Nghĩa hỏi?

*Sao có chuyện gì vậy mình.

-Không có gì.

*Không có gì mà gương mặt mình sao thảm quá.

-Bà Nga bả đòi tiền.

*Tiền gì?

-Thì tiền mua bia đó,

*Bao nhiêu?

-Hai triệu:

*Em đưa mình hai triệu rồi mà.

-Không phải, tất cả là bốn triệu, anh mới trả phân nửa thôi, mười kết chớ ít ỏi gì.

*Chết rồi mình, lấy đâu ra mà trả cho bả đây mình.

-Bà có im được không, tôi đang rối bà không thấy sao?

*Tôi đã nói, mình đãi rượu đế là được rồi, mình sỹ diện làm chi để ra nông nỗi.

      Vợ Nghĩa nổi cáo lên, bỏ ra phòng khách quây điện thoại cho cô em gái  kể hết đầu đuôi câu chuyện, cô em gái bảo, không có gì đâu, từ… từ giải quyết. Chị làm ầm lên không tốt đâu.Thôi để em mang hai triệu qua để anh chị trả cho người ta, khi nào có anh chị trả lại em.

    Cám ơn Dì. Trời ơi là trời, Sỹ diện, Sỹ diện.

 

 

 

4-Phong tục, tập quán

 

    Vô vài ba hột hai người ngà ngà, sáu Kinh bắt đầu to tiếng. Ba Chương nhốm dậy, thôi mình chuyển sang uống nước trà, còn không tôi về anh Sáu. Ngày mai phải làm nhiều việc lắm, cả tuần nay ngày nào tôi cũng quắt cần câu, trăm việc còn nằm ê chề đang chờ tôi, anh Sáu thông cảm nhé.

       Tôi thông cảm cho anh, rồi ai thông cảm cho tôi, không như vậy được đâu ba Chương ơi.Tiệc chưa tàn, sao anh cạn sớm thế. Chẳng lẽ anh có công việc còn tôi chắc không à. Thôi anh muốn về thì về, tôi không cản. Vậy là tôi uống một mình có thế thôi. Nhưng anh ba à, anh phải hiểu rằng hôm nay là ngày giổ Tía tôi, tôi mời anh qua, chưa chi mà anh đã về rồi, buồn thật. Nói xong sáu Kinh ngã cái rầm, ba Chương đỡ dậy. Thú thật với anh Sáu, anh thì tôi không biết thế nào, nhưng tôi cảm thấy tôi say rồi anh Sáu. Sáu Kinh nói.

*Anh chẳng hiểu “Phong tục, tập quán” cái con khỉ gì hết vào ba, ra bảy từ trưa đến giờ anh chỉ mới vào, nhưng anh chưa ra đó nhen ba Chương. Dân ta ngày giổ cha mình, mình ghi nhớ, cúng quảy rồi nhậu với nhau cho lết bánh mới về. Xưa nay là vậy đó anh Ba, chưa chi mà anh bảo tôi mang trà ra uống, trà thì tôi có sẵn, nhưng anh xem có được không?

-Ba Chương ngồi xuống làm tiếp vài ly.

*Vậy mới đúng nghĩa là mình đã thực hiện cái Phong tục, tập quán xưa nay chứ.

-Ba Chương giận, đứng dậy ra về không vòng vo vì nữa.

*Mới vừa làm mấy cái coi được, bây giờ lại quên hết rồi.

      Ba Chương đi bất sửu bất niểng, về đến nhà chưa kịp leo lên bộ ván thì ngã quẹo, bà xả và hai thằng con trai đỡ lên ván, miệng cứ lầm bầm. Lẽ ra tôi chưa say đâu, tại sáu Kinh cứ nói tôi là người không am hiểu về Phong tục, tập quán nầy nọ kia của dân ta, nên tôi tức và làm thêm mấy ly nữa, bây giờ mới ra nông nỗi.Tức thật, mà phải ảnh nghe lời tôi chuyển uống trà thì giờ nầy hai anh em còn dây dưa thì vui biết mấy. Phong tục gì? Rượu hay trà cũng giống nhau chớ đâu phải uống rượu mới thể hiện được, tuỳ lúc chớ.

     Thôi thôi ngủ đi, sáng mai sẽ nói chuyện sau, hiện tại ai cũng sỉn quắt cả rồi, chẳng ai nghe ai đâu.

      Sáng hôm sau ba Chương gặp sáu Kinh

*Khỏe không anh Ba?

-Khỏe sao nỗi mà khỏe, đến giờ vẫn còn mệt quá, tất cả đều tại anh, tôi đã bảo là chuyển sang uống trà thì mọi chuyện sẽ êm ả rồi, ngày nào cũng vậy phong tục, phong tục thân xác cứ rã rời, chẳng làm nên trò trống gì cả.

*Thôi. Nếu anh nói vậy thì tôi xin lỗi

-Lỗi phải khỉ gì. Thôi tôi đi làm đây, chào anh.

   Chiều trên đường đi làm về ba Chương khiều khiều anh Sáu. Anh Sáu nầy hai bữa nữa là đám đầy tháng cháu nội tôi, tôi mời anh sang uống rượu.

*Được, tôi sẽ sang.

-Nhớ nha anh sáu.

    Bước vào nhà ba Chương mang rượu ra mời sáu Kinh. Sáu Kinh nói.

*Mần gì mà sớm vậy anh Ba, từ… từ đi, làm vài ly trà cho ấm bụng rồi tính gì thì tính.

-Anh giỡn hoài anh Sáu, phong tục, tập quán mình xưa nay qua mừng con cháu phải nâng ly chớ, ai mà uống trà coi sao được.

*Sáu Kinh cười cười, vậy tôi làm theo ý anh.

     Chúc qua, chúc lại mà hai anh em làm gần một lít. Sáu Kinh đòi về, ba Chương không cho, cứ dằng co tới tối rồi nhờ người đưa sáu Kinh về nhà.

     Về nhà vợ sáu Kinh nhằng cho một trận. Bà nói.

Ngày nào cũng vậy, tiệc nào cũng thế gần hai chục năm nay, hai ông cứ đỗ thừa qua, đỗ thừa lại mượn bốn chữ phong tục, tập quán riết rồi trở thành hai người nghiện rượu không hay, bực mình không chịu nỗi.

 

 

 

 3-Những Ngày Cuối Năm

 

Bà sáu Khanh ngồi than giản, mấy ngày cận tết lẽ ra phải bán khá hơn ngày thường chứ, vì cuối năm ai cũng nhận được hai đầu lương (Vừa lương chánh cộng tiền thưởng cuối năm)  Cả khối. Thế mà, không biết tại sao từ hôm 25 tháng chạp đến nay ế ẩm quá trời, quá đất. Kỳ thật, không biết có chuyện gì xãy ra mà thê thảm thế?

 

      Cách đây gần một năm bà Khanh sang được khu vườn Lôm chôm ba công đất gần cả tỷ bạc tại Xuân lộc (Đồng nai) sau đó có một người quen ở Thành phố giới thiệu và bà đã ngắt ra phân nửa số tiền để sang cái quán Cà-phê khá lớn trước khu Công nghiệp quận 3 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Kể từ tháng 3 đến nay quán bà ngày nào cũng bán rất đắc như tôm tươi. Nếu người ngoài cuộc nhìn vào một cách khái quát thì quán của bà hoạt động khoảng hai năm là lấy vốn lại ngay. Và, thật sự là như thế, quán cả chục người phục vụ mà vẫn không nghỉ tay. Bởi, trước mặt bà là khu công Công nghiệp rất lớn cả trăm ngàn công nhân hơn. Nhưng kể từ hôm 25 tháng chạp cho đến nay tự dưng vắng khách và mức thu nhập bị rơi vào vực thẩm một cách trầm trọng, đến nổi không đủ tiền lương trả cho công nhân viên. Trước cảnh tình ấy bà cứ ngồi rầu như con Khỉ đói mà chẳng biết nguyên nhân ra sao. Đúng ra thì chuyện nầy chủ trước phải nói với bà rồi. Nhưng họ giấu cái khoảng vắng vẻ ấy, vì sợ bà không chịu sang cái quán của họ. Cho nên bà phải lâm vào cảnh thất điên, bát đảo như thế.

 

     Ở đây bắt đầu từ mồng 7 tháng giêng trở đi là người từ xa đỗ xô về đông như Kiến. Ban ngày thì khu làm việc người tới lui không biết bao nhiêu mà kể, ban đêm tan sở những cao ốc gần bên tủa xua ra rất vui như khu ăn chơi không hơn không kém và kéo dài tới khuya. Tất cả những người nầy là thanh niên tuổi từ 20- 30. Dân tứ xứ, từ khắp nơi đến đây làm việc, có người làm lâu năm, có người làm hợp đồng trong thời gian ngắn hạng. Liên tiếp thay đổi nhau hết đợt nầy, đến đợt khác. Nói cho vui, phần đất Thành phố Hồ Chí Minh dường như bị nghiêng về một góc. Vì số lượng người tập trung quá đông.

 

     Nhưng làm gì thì làm, dù đi mô, ai ai cũng có quê hương, tổ tiên, ông bà cha mẹ cả. Nên mỗi khi xuân về, tết đến là họ lo nhanh nhanh thâu xếp hành trang, quà cáp để chuẩn bị về quê ăn tết và nghỉ xả hơi một thời gian ngắn rồi trở lại công xưỡng làm việc tiếp. Chính vì lẽ đó những ngày cận tết là họ di chuyển từ từ ra khỏi Thành phố, còn nếu chờ đến ngày cận tết, có lẽ họ khỏi ăn tết nơi quê nhà luôn. Bởi, đường xá thì đông nghẹt, ùng tắt và xe đâu nữa mà về.

 

     Nói chung Thành phố bình thường thì nghe nhiều người thật, chín, mười triệu dân, đi chật đường, chật xá. Nhưng thực chất người chánh gốc Sài gòn thì ít, người tận mút nơi đâu thì nhiều. Những người vãng lai nầy họ chỉ đển đây để tìm việc, sống trọ qua ngày nên một khi họ đi về quê rồi thì Thành phố trở nên vắng vẻ  là điều đương nhiên và quán Cà-phê của bà Khanh cũng vắng vẻ theo sau trong những ngày xuân mới. Những hình ảnh nầy hiện lên giống hệt như Thủ đô Paris vào những ngày tháng 8 hàng năm.

 

      Khi biết được sự việc. Bà Nói: Thôi năm sau đúng ngày giờ nầy tao cũng đóng cửa quán Cà-phê đi về Xuân Lộc ăn tết cho rồi.

 

Thủy Điền

 

16-01-2017

 

 

2-Giải Nghệ

 

Bà chủ quán đứng giữa quán hai tay chóng nạnh hỏi?

-Ê ông sáu Danh, có biết tin tức gì về tám Thời sự không, mà sao mấy hôm nay không thấy thằng chả ra uống Cà-phê.

-Bộ ổng thiếu tiền chị hả?

-Bậy mầy, thiếu đâu mà thiếu, tại không thấy thằng chả sang thì hỏi thế thôi.

-Phải rồi, nhớ rồi phải không?

-Đừng giỡn nha sáu Danh, người ta có vợ, con rồi đó cha, gia đình người ta hiểu lầm chắc con dẹp tiệm quá. Sở dĩ hỏi là gì không biết  ảnh có bệnh hoạn gì không, để mà còn hỏi thăm, bề nào mình cũng quen biết nhau lâu rồi.

-Tôi mới thấy ảnh đạp xe đạp ngang sáng nay có bệnh hoạn gì đâu.

-Nếu vậy thì tốt, chỉ sợ phòng vậy thôi.

 

     Thường thì 6 giờ sáng khi quán Cà-phê mỡ cửa khoảng 10 phút là có mặt tám Thời sự tới ngay, lão gọi một cái Bạc xỉu rồi bắt đầu ngồi tới 9-10 giờ mới về. Hồi đầu bà chủ quán rất bực mình vì phải châm cho lão nhiều bình nước trà. Nhưng dần dà lại thích vì chính lão là con mồi câu khách cho bà. Lão thì học dở ẹt, chẳng hiểu biết nhiều, nhưng có cái tài lụm chuyện vặt rồi truyền tiếp, nên người ta gọi lão là tám Thời sự. Vợ lão thì buôn bán ngoài chợ khi trời đứng bóng mới về, còn lão thì rất sung sướng chỉ trưa nấu cơm, lo việc nhà, cho heo ăn là xong việc, nên buổi sáng lão có rất nhiều thời giờ, tha hồ mà đàm đạo.

 

     Mỗi ngày lão ngồi ngoài quán Cà-phê ông đi qua, bà đi lại, ai kể chuyện gì lão lụm hết và để dành sáng hôm sau có người mới ghé uống Cà-phê là lão tung ra ngay. Lão kể tỉnh bơ, rành mạch như người trong cuộc, bà con vừa uống Cà-phê, vừa nghe lão kể thật là khoái chí. Đặc biệt lão hay lụm những tin tức thời sự khắp nơi. Nhất là tin thế giới.

 

     Như mới đây, có một người khách vãng lai ghé uống Cà Phê kể về tin tức cuộc vận động tranh cử ỏ Mỹ, có một nhà tỷ phú của đảng Cộng hòa ra ứng cử được rất nhiều dân chúng Mỹ ủng hộ. Ông ấy tên Donald Trump. Sắp sửa là đối thủ nặng ký với bà H. Clinton thuộc đảng Dân chủ. Lão ngồi cách xa vài bàn nên nghe không chính xác ai là đảng Dân chủ, ai là đảng Cộng hòa.

 

     Ngày hôm sau, hắn ra thật sớm định hốt mẻ lớn, rằng ta đây là một người rất rành rẽ về chính trị thế giới. Lão kể thao thao bất tuyệt. Rằng ông Trump là một đảng viên đảng Dân chủ, giàu có tiếng, đầy thế lực ở Mỹ, chắc chắn kỳ nầy thế nào ông cũng thắng cử thôi, bên Mỹ ông giàu lắm có cả ngàn tỷ bạc, nơi nào có những cao ốc cao chọc trời đều là của ông cả. Bà con ở quê mà có biết gì, lắng lỗ tai nghe lão kể, ngỡ thật. Ai cũng chắc lưỡi. Ồ ! Ông nầy giàu quá trời, quá đất.

 

     Nhưng không may, hôm ấy có một tay Việt kiều Mỹ ở California về quê thăm nhà, sáng cùng mấy người bạn ra quán uống Cà-phê, vô tình ngồi nghe lão kể. Tay Việt kiều định nhịn, nhưng vì thấy lão nói khoét một cách trắng trợn đành vọt miệng. “Bác nói trật lất rồi bác ơi, ông Trump là người thuộc đảng Công hòa và số tài khoản của ông ta chỉ có 4 tỷ rưởi thôi, chớ tiền đâu mà tới 1000 tỷ. số tiền nầy lớn lắm chứ không như 1000 tỷ Việt nam đâu bác “ Vừa nghe tay Việt kiều nói xong lão quê quá “Ai biết đâu thì nghe người ta kể sao thì tôi nói vậy “ Rồi đỏ mặt ngoe ngoải ra về.

 

     Kể từ hôm đó, lão hứa, lão sẽ không bao giờ đến quán Cà-phê nầy nữa. Và xin mọi người hãy quên giùm cái tên “Tám Thời sự “ cho lão nhờ.

 

Thủy Điền

22-01.2017

  

 

 

1-Hẹn Lại Lần Sau

 

Hôm tháng 10 vừa qua, hắn ngồi trước thềm nhà, gương mặt bí xị, hắn bảo: Năm nay không có ai dẫn hắn đi Sở thú viếng mụ Phù thủy và mấy con ma đói, bực mình dễ sợ. Giờ bắt ngồi ở nhà nhìn dăm quả bí vàng chẳng thú vị tí nào cả.

 

     Hàng năm cứ vào tháng 10 là ngày lễ Hallowen, gần nhà hắn có cái Sở thú rất lớn. Nơi đây năm nào người ta cũng tổ chức Hallowen hai ngày vào cuối tuần cho mọi người đến mua vui, nhất là trẻ em. Từ lúc hắn lên bốn tuổi, năm nào bố mẹ hắn cũng đều dẫn đến đây để chơi cho đến giữa khuya mới về. Với trò nầy hắn vô cùng thích thú với những màng giật mình, rùng rợn vì được trực tiếp thấy kề cận mụ Phù thủy và những con ma đói đang vây xung quanh hắn, để sau khi về hắn tha hồ mà tả, kể lại cho bạn bè đồng lứa của hắn nghe. Đặc biệt những đứa trẻ khác vì sợ không dám đến, riêng hắn thì tỉnh queo và chẳng sợ gì cả nên năm nào hắn cũng đi. Và, vừa đi xong là sáng hôm sau hắn phải ngồi trước đám đông thuật lại hết cho mọi người cùng nghe. Hắn vừa kể, vừa diễn tả rất hùng hồn, lắm lúc có mấy tay đái ra quần và sợ quá chạy tuốt về nhà.

 

     Đầu năm vừa qua, không biết vì lý do gì, bố và mẹ hắn xích mích, to chuyện, ly thân, bố hắn dọn nhà đi nơi khác ở rất xa, bỏ mẹ con hắn ở lại quê nhà một mình mà chẳng hề tới lui thăm viếng. Riêng mẹ hắn vì bận bịu với hai đứa em nhỏ sanh đôi, mẹ hắn không thể dẫn hắn đi tham dự ngày Hallowen năm nay được, nên bắt buộc hắn phải đành ở nhà. Hắn rất bực mình, nhưng hắn không dám nói lời nào, đành chịu thua đi ra, đi vào. Cuối cùng ngồi bệt trước thềm nhà, rồi cứ chăm chăm nhìn về hướng Sở thú mà rưng nước mắt. Nhiều lúc hắn muốn gọi bố về để dẫn đi, nhưng chẳng biết bố giờ nơi đâu mà tìm. Ngoài thú đam mê tham dự ngày Hoallowen, hắn còn nỗi khổ đau lớn là ngày mai biết lấy gì để làm anh hai kể lại cho mấy thằng trong xóm nghe. Nếu không có gì kể hắn mất thế và quê xệ.

 

     Trong đêm ấy vì đi không được nên hắn lên giường ngủ sớm. Hắn nằm thao thức, suy nghĩ đủ thứ tìm mọi cách bịa đặc, nói dối để ngày mai có cách trả lời. Nhưng cuối cùng hắn thấy không được vì mỗi năm người ta đều làm khác nhau nên khó mà gạt được mọi người.

 

     Sáng hôm sau các bạn hắn ùng ùng đến, để nghe hắn kể. Hắn giả đò vò cái đầu bùm xùm và đi thiểu nảo ra chào đón và bảo: Rất tiếc, hắn không có chuyện gì để kể, các bạn hãy về đi vì hôm qua hắn bị bệnh nằm liệt giường, liệt chiếu nên không có đi đâu hết. Mong các bạn thông cảm, xin hẹn lại lần sau.

 

Thủy Điền

 

21-01-2017

 

Một Kiếp Người

 

Anh đã cho em nửa cuộc đời

Cho con phân nửa của phần tôi

Phần tôi phân nửa, phần phân nửa

Cho thơ làm tựa viết thành lời

 

Thế là, tôi đã cho, cho hết

Xin người, thơ phú chớ phụ tôi

Ngày mai khi trở về cát bụi

Bia tôi xin tạc  "Một Kiếp Người" .

 

Thủy Điền