Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

 

 

 

214 Nhặt Cánh Hoa Rơi

 

      Trong xã hội hiện đại ngày nay, dù điện thoại bàn hay điện thoại di động là phương tiện thiết yếu của con người. Có thể nói từ người già cho đến trẻ em dường như trong tay ai cũng có cái điện thoại bình thường hay quí giá cả. Điện thoại cũng có khi giúp được ta những điều gì đó, cũng có khi làm cho ta gặp phải những phiền muộn khác.

 

      Đi lòng vòng hết trang nầy đến trang nọ. Bỗng dưng tôi nhặt được một cánh hoa rơi, cánh hoa nầy thật đẹp và mang đầy những ý nghĩa thích ứng cho cuộc sống, nên tôi vội vàng mang về để tặng các bạn chiêm ngưỡng. Cánh hoa ấy là:

 

 

Ảnh NNB

 

      Cánh hoa nầy tôi nghĩ khi chúng ta đọc sơ hay cặn kẻ qua, chúng ta thấy rất là bổ ích vô cùng. Nó mang tầm vóc nhân đạo cao "Người khuyên người " Để phòng và tránh những hậu quả đáng tiếc mà ta vì bận rộn mà không biết hay không để ý đến.

 

      Với cánh hoa tuyệt vời trên, tôi hy vọng nó sẽ mang đến cho các bạn những hữu ích trong cuộc sống mà từ lâu cũng có những ai vì nó mà phải lâm lụy, nhưng không biết những nguyên nhân ấy xuất xứ từ đâu.

 

Thân ái và chúc các bạn chóng thành công.

 

Thủy Điền

29-09-2017

 

 213 Góc Trời Trống Vắng

 

Hơn một tuần nay, người ta bỗng dưng không còn nhìn thấy lão ăn mày và con chó đốm ngồi dưới gốc cột đèn đường trước cái Siêu thị lớn nữa.

Họ xì xào với nhau và đặt ra những giả thuyết:

1-    Người thì bảo: Có lẽ, trời vào thu, gió lạnh. Hắn tìm đến nơi khác ấm hơn để trú ẩn.

2-    Người hỏi người ? Hay là nhân viên trật tự thành phố đuổi hắn, không cho hắn hành nghề ở đây nữa

3-    Người thì tự đoán : Chắc là hắn đã qua đời và con chó đốm cũng được đưa vào Sở Thú y không chừng.

 

      Trải qua nhiều tuần lễ dài thì người ta được biết: Chuyện rất đau buồn của một kiếp người.

  

      Hắn không phải là loại bần hàn, khố rách vô gia cư. Mà hắn là con của một nhà khoa bảng, giàu có. Gia đình hắn có hai anh em, hắn là con trai lớn và một cô em gái nhỏ hơn hắn ba tuổi. Hắn được cha mẹ cho ăn học đàng hoàng, đỗ bằng Cử nhân Kinh tế và hiện đang làm việc tại một Công ty Thương mại lớn.

 

      Sau cái chết bi thảm vì tai nạn máy bay cách đây khoảng mười năm. Không may, cha mẹ và cô em gái hắn cùng bốn mươi bảy đồng hành khác bị tử nạn khi máy bay cấm đầu vào vách núi, trên chuyến bay du lịch từ Tây ban nha trở về  nhà.

 

      Vừa nhận được tin qua đài Truyền hình và Thông báo của Bộ ngoại giao, hắn cấp tốc trở về nhà. Thời gian chờ đợi tin mới….mới hắn như người cuồng loạn. Trong cơn đau, mất mát hắn dường như  là kẻ mất trí gần cả mấy tháng trời. Sau cơn khủng hoảng ấy, hắn suy nghĩ cạn cùng và cho đời mình bây giờ chẳng còn gì nữa.

 

      Khi cả nhà qua đời, hắn buồn quá và xin nghỉ việc tại Công ty luôn. Ở nhà được một năm, một mình giữa chốn quạnh hiu, thiếu can đảm và cuối cùng hắn quyết định viết đơn hiến tặng căn nhà cha mẹ để lại cho hội nhà thờ Công giáo thành phố và chỉ xin cấp lại một căn phòng nhỏ ngoài phố để tạm thân.

 

     Tưởng mọi chuyện đã yên, sau năm ấy hắn trả lại căn phòng và dẫn con chó đốm đi đầu đường, xó chợ, để rồi trở thành người Hành khất “Bất đắc dĩ “

 

      Qua bao ngày xuôi, ngược. Hắn chọn gốc cây cột đèn nằm trên cây cầu cạnh một Siêu thị lớn là điểm dừng chân cuối cùng.

 

      Thời gian- thời gian trôi qua cuộc đời của hắn giờ đây cũng khá hơn. Nghĩa là:

-         Sáng thức dậy là có ly Cà-phê To go và ba ổ bánh mì nhỏ (Hắn hai ổ và con đốm một ổ ) Kế tiếp là ngồi đọc sách và chờ người qua, kẻ lại bố thí chén cơm tình.

-          Đến trưa thì ghé vào mua một xuất cơm phần ra cột đèn hắn và con Đốm ăn chung và chiếu về cũng thế.

-         Khi cơm chiều xong, Siêu thị cũng vừa đóng cửa, đèn đường bắt đầu vương lên ánh sáng và cũng là lúc hắn và con Đốm chui vào hầm cầu để tìm chốn ngủ.

 

      Cứ thế mà hắn đã trụ trì nơi đây gần bảy năm trường. Một hôm trời bão lớn, cơn gió mùa thu nối gót theo sau chấn động cả một vùng trời. Rét ….rét căm căm hắn không đủ ấm, những cơn gió ấy đã lợi dụng ập vào cơ thể hắn. Hắn phải đành nhận lãnh cơn bạo bệnh. Giữa đêm vì không ai hay biết, không người cứu chữa, chẳng viên thuốc phòng thân, cơ thể không chống cự nổi và đành phải qua đời trong đêm ấy.

 

     Con chó đốm ngẩn ngơ, ngỡ như người đang ngủ, lúc đánh thức, lúc nằm queo mà chẳng thấy hắn hứ hà  như hằng đêm bên cạnh. Trời gần sáng, tánh quen thường. Lẽ ra cả hai cùng lên cầu để ăn sáng. Nhưng hôm nay…..sao kỳ lạ quá cứ hực hà chạy tới, chạy lui.

 

    Những ngạc nhiên ấy, vô tình người ta phát hiện ra dưới hầm cầu có lão ăn mày vừa mới qua đời trong đêm tối. Nhà chức trách đến mang xác hắn đi và con Đốm cũng ngỡ ngàng khi Sở Thú y cũng mang nó đi theo mà đời nó chưa bao giờ nghĩ tới.

 

      Thế là sau bảy năm con Đốm và cây cột đèn đường đã mất đi một người bạn chân tình. Nơi ấy bây giờ buồn lắm, nơi ấy bây giờ là một góc trời trống vắng.

 

Thủy Điền

23-09-2017

 

     

 

      

 

212- Quả Bần Xanh

 

(Thân Tặng Nhà Thơ Trần Mai Ngân

 

    Thường thường trước khi đăng bài lên mạng, hắn hay đọc bài của Tác giả phương xa gởi đến từ một đến hai lần. Nhưng không biết chiều qua mắc chứng gì hắn ngưng lại nhiều bài khác mà ngồi đọc bài của Tác giả TMN nhiều lần, rồi ngồi thả người ra- thở dài và nói: Sao người đẹp, xứ Vĩnh long chụp hình mà không cầm nhánh đầy quả Lôm chôm để khoe, ca ngợi những Đặc sản của quê mình cho mọi người được biết tới mà lại cầm một nhánh quả Bần xanh tượng trưng cho sự chua, chát. Thật là khó hiểu và chẳng biết ý của nàng nầy muốn nói gì.

 

      Sau khi đăng bài “Nói Dối “

 

NÓI DỐI

 

Đêm qua anh mất ngủ

Bởi nhớ em vô cùng

Biết rằng anh nói dối

Lòng em vẫn bồi hồi...

 

Sáng nay trong vườn sớm

Hoa Tường Vi đâm chồi

Anh nói: nhớ không yên

Đứng ngồi sao vô vị...

 

Cả đời anh mộng mị

Bởi vì anh yêu thương

Cả đời em vấn vương

Dù lời anh không thật ! 

 

Đêm qua anh mất ngủ

Bởi nhớ em vô cùng

Biết rằng anh nói dối

Lòng em vẫn bồi hồi...

 

TMN

 

xong. Hắn Mail trở lại, mời nàng xem và dậm thêm mấy câu “Tôi vừa đăng xong, nếu thấy có gì chưa vừa ý xin chị cho ý kiến, sẽ thêm, bớt lại để bài được hoàn chĩnh hơn. Và, hắn trêu thêm một câu nữa (Chẳng ngụ ý gì, chủ yếu vui thôi. Bởi, nàng cũng vui tính và hoà nhã) Hắn bảo: Chị à ! Lẽ ra thì chị phải cầm trên tay nhánh quả Lôm chôm thì hay lắm. Ai nào lại cầm nhánh quả Bần, thấy thế nào hả chị?

 

 

      Ngày kế, hắn đang đọc bài tiếp để chọn đăng, thì nàng Mail đến và vui vẻ trả lời. Bài em đăng làm bằng thơ tranh chị rất hài lòng và hãnh diện lắm. Rồi nàng tiếp theo mấy câu như sau:

Em ơi ! Lôm chôm là tượng trưng cho sự ngọt ngào, nó dành riêng cho những con người chân thật. Ở đây chị cầm nhánh quả Bần là ý chị muốn nói. Nếu ai mà dang dối, thì người ấy phải ăn hết những quả Bần chị đang cầm trên tay. Bởi, bản chất của nó là sự chua, chát, tượng trưng cho kẻ xấu. Nếu ai nói dối thì sẽ nhận những hậu quả ngay.

 

      Khi đọc qua những dòng trả lời trên, hắn nghĩ trong bụng “Chết cả đám hết rồi “ Cái nàng đất Vĩnh nầy nguy hiểm thật “ Chỉ một bức ảnh, một bài thơ mà nàng đã làm biết bao đàn ông trên cõi đời nầy nao núng.

 

      Nao núng ở chỗ nào?

 

Theo hắn nghĩ, dường như người đàn ông nào cũng một lần “Nói Dối “ Dù cố tình hay vì hoàn cảnh nào đó buộc họ phải nói dối mà sự nói dối nầy thường hay xảy ra trong lĩnh vực tình yêu ví dụ:

Muốn tỏ tình với một cô nào đó, bố thằng nào dám bảo “Anh đã có vợ, hay đang có người yêu, mà luôn bảo anh đang còn độc thân đấy em “ thì cô ấy mới chịu hay suy nghĩ lại, bằng không là ngoảnh mặt đi luôn ".

 

      Trầm một chút, suy tư, hắn tự thấy trong sự nói dối cũng chưa hẳn là hoàn toàn xấu cả, nhiều khi nói dối mà mình được người yêu hay được một việc gì đó, miển sao sự nói dối ấy đừng làm tổn hại đến kẻ khác quá đáng là được. Nhưng nghĩ thì nghĩ vậy, không biết người đối diện trước mình có chấp nhận hay không? Lại là một chuyện khác. Thôi thì, nói dối là một cái tội, nói chung, khỏi biện luận gì hết, xem ta là kẻ bại trận, hể ai nói dối thì phải đành chấp nhận chua cay, chấp nhận nếm mùi Bần. Như nàng đã gán.

 

Chiều về đứng bến, nhìn xa

Sông Tiền, sông Hậu là đà nước trôi

Dọc theo hai dãy cồn trồi

Bần xanh tươi thắm tuyệt vời bao quanh

Khuyên ai hãy cố giữ lành

Đừng mang dang dối dỗ dành hiền lương

Hãy yêu, hãy mến, hãy thương

Đem tình chân thật lót đường tương lai

May mà sẽ có một ngày

Ta về đất Vĩnh mồm nhai ngọt ngào.

 

Thủy Điền

17-09-2017

 

 

 

 

211- Dưới Gốc Mù U

 

   Sau hai mươi năm gặp lại Lan, bở ngỡ, bở ngỡ vô cùng. Cả hai đều bở ngỡ, hai đứa cứ đứng nhìn nhau mãi mà chẳng nói được lời nào.

 

      Nàng nhìn tôi trong ánh mắt nghẹn ngào và dường như đang thương hại tôi, thương hại người bạn cũ nhiều lắm. Bởi, nàng thấy tôi trông vất vả vì tôi bây giờ là anh nông dân ngày ngày vác cuốc ra đồng, ốm, đen với bộ đồ phèn rách nát, chứ không phải anh thanh nhiên bóng bẩy của ngày nào. Nhìn đôi mắt nàng chớm đỏ, tôi định kiếu từ để tránh những hoài niệm cũ hiện về. Nhưng nàng cố nén tôi thêm vài giây phút nữa. Trong bỗng chốc, tôi tự cảm, mình nên giả từ và đường ai nấy đi. Có lẽ ! Còn giữ được những giọt nước mắt lưu luyến trên bờ mi .

 

      Vừa gặp lại nàng tôi cũng thế, nhìn người xưa như là trong mộng, không cầm được nỗi xúc động. Tuy, nàng bây giờ đổi khác hơn xưa nhiều quá, so với tôi như núi cao, biển cả. Nếu không nghe tiếng anh Linh thì chắc hẳn không có cuộc gặp gỡ nầy. Vừa thấy nàng, mừng, tôi định hỏi han nhiều lắm ? Nhưng tự nhiên bị tắt nghẻn giữa chừng. Chỉ biết ừ ừ đôi ba tiếng rồi vội vã ra đi.

 

      Ngày hôm ấy trên cánh đồng đầy cỏ, lòng tôi chao động, bồi hồi, khó chịu như cơn sét đánh trước giờ trời sắp đỗ cơn mưa. Chẳng cuốc bẩm được gì cả, cứ nao nao muốn đi về để nhìn nàng thêm lần nữa. Nhưng thửa ruộng còn đây và nàng chắc có đợi mình nơi đầu cầu lúc sáng? Đau lắm, nỗi đau dằn vặt của một kẻ đã yêu thương thầm lặng gần cả hai chục năm trời.

 

      Tôi năm nay cũng hơn nửa đời người và nàng cũng thế. Cái tuổi luôn ăn sâu những kỷ niệm, khó mà quên được. Gặp lại nàng, bỗng dưng trí óc tôi thức dậy ngay cái đêm chia tay đầy nước mắt dưới tàng cây Mù u cuối xóm, để nàng phải theo gia đình đi xứ khác. Những hình ảnh ấy vẫn còn hiện rõ trong tâm trí như vừa đã xảy ra ngày hôm qua.

 

      Thời gian- rồi thời gian mỗi người có cuộc sống riêng. Người may mắn, kẻ sa cơ, đương nhiên là điều ai cũng cần phải chấp nhận, dù có đau thương đến mấy. Nhưng tôi luôn tiếc một điều khi tình yêu đang đẹp, đang dịu dàng rồi bỗng dưng lại ngã đỗ để cả hai phải ôm lấy nỗi sầu miên man mà mình không bao giờ muốn.

 

      Ngày gặp lại Lan. Ngày sung sướng, ngày đau khổ nhất trong cuộc đời của một người đàn ông ngoài năm mươi tuổi. Tuy, trong khoảnh khắc, tuy, trong vội vã, tuy, chưa nói được lời nào, nhưng cũng đủ bù đấp lại hai mươi năm trời thương nhớ. Dẫu biết rằng tình ấy đã phôi phai.

 

 

Gặp lại em trong phút giây b ngỡ

Lòng nghẹn ngào chẳng nói được một câu

Đau lắm em, Kẻ mang mối tình sầu

Mong em hiểu, thế là anh diễm phúc

Gặp lại em, anh rưng rưng nước mắt

Giọt lệ tình bng hiện rõ trên mi

Biết rằng em cũng chẳng sướng ích gì

Chắc có lẽ ! Cũng đau thương nhiều lắm

Thôi thì cứ cho tình mình là bạc phận

Ta gói lòng xin hẹn lại kiếp sau.

 

Thủy Điền

06-09-2017

 

 

 

 

210- Nương Tựa

 

  Liên tiếp sáu căn nhà người Việt nam và một căn nhà ông bà người Đức nằm dọc theo con đường Alexander Strasse. Chiều nào họ cũng xúm nhau ngồi dưới tàng cây to tâm sự, kể nhau đủ thứ chuyện trên đời. Họ thường hay thấy ông bà láng giềng khoảng 17.00 giờ chiều ăn mặc rất chĩnh tề, ôm eo ếch đi ngang qua trông rất tình tự và khoảng hai tiếng sau trở về cũng giống như thế, có khi họ còn gắn bó hơn lúc ban đầu.

 

      Mấy ông đàn ông hay trêu các bà, ở con đường nầy tổng cộng là sáu căn nhà mà chưa thấy bà nào thể hiện đúng nghĩa như bà Anna cả. Nếu ông nào mà được quan tâm như thế thì rất là diễm phúc và có lẽ năm bà khác sẽ học hỏi theo.

 

      Sáu bà áp nhau bảo: Các ông hôm nay điên lên cả à? Rồi cùng nhau ôm bụng cười một trận.

 

      Thật tình, chuyện ông bà láng giềng , già, thể hiện phong cách yêu thương đi ngoài đường là chuyện bình thường, không có gì đặc biệt cả. Chuyện nầy người Việt nam sống trên đất Đức ba mươi năm nay họ cũng thể hiện hàng lố, nhưng họ thể hiện ở nơi khác, chứ còn ở con đường Alexander nầy họ chưa bao giờ làm như thế. Chắc có lẽ họ mắc cở hay ngại ngùng vì đó.

 

      Một hôm có một người gặp bà Anna dọc đường. Ông ta hỏi? Thưa bà Anna, xin lỗi bà trước nhá, nếu câu hỏi làm cho bà không hài lòng hay có gì sơ sót mong bà bỏ qua. Ông cứ hỏi tự nhiên.

-Sống ở đây lâu năm, ngày nào chúng tôi cũng nhìn thấy ông bà rất là tình, vậy bí quyết nào bà có thể kể cho chúng tôi nghe được không, để chúng tôi có thể học hỏi ở ông bà được phần nào.

-Vâng, cảm ơn anh. Tôi sẽ trả lời những bí quyết của chúng tôi mà anh đang yêu cầu. Thật ra thì chẳng có gì gọi là bí quyết, mà là thói quen của chúng tôi từ khi mới lấy nhau đến giờ. Nếu tính đến nay là khoảng năm mươi năm rồi chớ có ít đâu. Mà câu chuyện cũng khá dài, mong anh cố gắng nghe.

 

     Thuở ấy chúng tôi còn trẻ, độ 20. 21. Giờ 70 quên hẳn rồi, chiều nào sau giờ làm việc, về nhà rồi đến quán bia nhậu cho khuây khỏa tinh thần, khoảng vài ba tiếng xong, về đi ngủ và  ngày mai đi làm việc tiếp. Tôi quen rồi yêu nhà tôi từ đấy, mỗi khi đến quán bia chúng tôi ăn mặc rất lịch sự, tay bên tay trông rất phấn khởi. Nhưng khi về cả hai đều say cả, quần áo te tua, không còn thẳng nếp nữa, tôi ngả nghiêng, ông nhà tôi cũng nghiêng ngả, phải mất một thời gian dài đi bộ thì mới mò đến nhà. Hồi ấy phải nói cũng vì bia rượu nhiều lúc thấy xấu hổ vô cùng. Có lúc say quá không còn biết vì cả, nhưng sáng hôm sau thức dậy người ta hỏi, ngại ngùng và quyết định xin thôi, không đến quán bia nữa. Nói thì nói vậy, nhưng cứ đúng chiều là con sâu rượu trong người bật dậy, thúc phải đến đó cho bằng được.

 

      Thưa anh.

Qua nhiều năm đi nhậu, tôi và nhà tôi rút ra được kinh nghiệm rằng. Trước khi đi thì vẫn giữ y như lúc ban đầu, nhưng khi về là phải gắn bó ôm thật chặt nương tựa vào nhau để giảm bớt và tránh được tình trạng té ngã dọc đường cũng như người ngoài sẽ không nhìn thấy những tánh xấu của mình bộc hiện. Một thời gian ngắn thử nghiệm như thế chúng tôi thấy có kết quả rõ rệt và cứ thế mà thực hiện cho đến ngày hôm nay. Ngoài ra tôi cũng nói thêm là chúng tôi có yêu nhau thật, có yêu thì mới sống chung, hạnh phúc đến ngày hôm nay. Nhưng không có dữ tợn đến thế đâu anh, chúng tôi già rồi năm nay tôi và nhà tôi đã 72 tuổi, có ít chi đâu.

 

      Cảm ơn bà Anna đã chia sẻ, thế là tôi đã hiểu. Xin cầu chúc cho ông bà luôn mạnh khỏe, sống bên nhau và ngày ngày được nhìn thấy sự nương tựa của tuổi già.

 

Thủy Điền

20-08-2017

 

209- Nhìn Người, Mà Nhớ Chuyện Ta

 

    Cả tháng nay, ngày nào cũng thế. Đúng 17 giờ 00 chiều, khi bước ra khỏi cổng là tôi cũng đều thấy cô Ysin ngồi bẹp dưới nền gạch như ăn vạ trước cửa chánh của Tổng Cục Địa Chất để chờ anh chàng Qian. Bỗng dưng tôi nhớ lại cách đây bốn mươi năm hoàn cảnh tôi cũng thế. Nhưng tôi và Ysin khác nhau ở chỗ nàng là con gái đang đợi chàng còn tôi là chàng con trai chận đầu, chận ngõ nàng con gái. Nói chung thì cả hai đều có mục đích là muốn cùng  người mình yêu đi suốt đoạn đường về.

 

      Nhớ ngày ấy, tôi yêu vợ tôi cũng khá vất vả lắm. Vì chúng tôi cùng học chung một khóa, một ngành dưới mái trường Xã hội Chủ Nghĩa. Như ai đã từng trải qua thời kỳ ấy thì cũng đều biết. Việc yêu đương trong trường học là bị cấm ngặt, nếu không chấp hành những luật lệ của nhà trường thì bị kiểm điểm và sa thải ngay. Một khi bị thải hồi rồi, về nhà thì chẳng biết mình phải làm gì, vã lại còn gây gánh nặng cho gia đình nữa là khác. Tôi biết rõ điều ấy hơn ai hết. Nhưng vì quá yêu nàng nên tôi tìm đủ mọi cách để được gần nàng và sẽ chiếm được trái tim nàng với bất cứ giá nào.

 

      Nàng là người quê quán gần trường nên mỗi chiều được về nhà ngủ, riêng tôi là người xứ khác đến như bao người khác đều phải ở nội trú tại trường. Bởi thế khi tiếng chuông vừa đỗ, tan học là tôi phải đi nhanh ra cổng trường thật sớm để đứng chờ nàng và cùng đèo nhau đi suốt đoạn đường hơn năm cây số, khi đưa nàng về đến nhà, tôi tạm chia tay và đi bộ ngược trở về trường năm cây số nữa, cộng lại một ngày tôi phải mất mười cây số và khi về đến trường thì trời đã nhá nhem tối. Cứ thế và cứ thế liên tục 730 ngày mà chẳng có chuyện gì xãy ra thật là may mắn vô cùng (cũng có lúc người ta tình nghi tôi và nàng đang yêu nhau, muốn đem chúng tôi ra kiểm điểm, nhưng không có bằng chứng rồi dần dà họ cũng bỏ qua luôn) Và, cuối cùng tôi cũng được nàng đáp trả lại một tình yêu chân thật để rồi chúng tôi trở thành đôi chồng vợ hạnh phúc cho đến ngày hôm nay.

 

      Những kỷ niệm thời tươi trẻ ấy tuy, có vất vả thật, nhưng. Ôi ! Sao đẹp vô chừng, mà tôi đã gói trọn và giữ mãi nó trong tâm trí suốt bốn mươi năm qua.

 

      Hôm nay và trước đây một tháng Ysin và Qian đã vẽ lại bức tranh ấy trước mặt tôi, khiến lòng tôi không khỏi chao động với tuổi đời ngã dần theo vầng trăng khuyết.

 

      Qian là một Kỹ sư vừa tốt nghiệp ngành Địa chất và cũng vừa được nhà nước Trung Quốc đưa sang Đức học tiếp Thạc sỹ, thời điểm nầy anh ta phải vào Tổng cục Địa Chất để thực tập, nghiên cứu cho Đồ án tốt nghiệp, còn Ysin là một Cử nhân Kinh tế. Hai người cùng học chung một tỉnh. Qua những lần giao lưu, họp bạn, họ đã yêu nhau và trở thành đôi tình nhân thật sự. Ysin học Kinh tế nên có rất nhiều thời gian, Qian tuy mang tiếng thực tập, nhưng phải cùng chúng tôi làm việc đúng tám tiếng mỗi ngày. Bởi thế từ ngày yêu nhau chiều nào nàng cũng đến chờ chàng về chung một thể.

 

      Qua hai khoảng thời gian xưa và nay. Mặc dù nó có khác nhau ở điểm nầy, điểm nọ. Nhưng nói về tình yêu tuổi trẻ thì nó cũng giống hệt, tương tự nhau thật đậm đà, tha thiết. Chính vì sự tích lũy ấy mà nhiều cuộc tình được trọn vẹn đến trăm năm.

 

Thủy Điền

 

05-08-2017

 

208- Nơi Bến Sông Xưa

 

   Còn độ khoảng hơn ba chục mét nữa là đò sẽ đến bờ. Trên bến lố nhố năm ba nàng con gái, tiếng lanh lảnh, giơ tay phất phất như chào đón và cất  tiếng “Anh Điền em nè “. Tôi đoán chắc là giọng con Thủy chớ không còn ai vô đây và vẫy tay chào lại.

 

      Thật đúng. Vừa đến bến, là nó nhào vào ôm chặt lấy tôi mà không ngượng ngùng. Mọi người đứng nhìn nỗi mừng nó đã dành cho tôi sau bao ngày xa xứ cũng muốn cảm động theo. Đoán giọng nó được là vì ngày còn ở nhà chơi chung với nó và mấy đứa bạn, nó là người lớn giọng nhất. Nhớ hồi ấy, lúc thấy nó vui tôi hay trêu, Thủy mà cứ cái đà nầy là ế chồng mất. Nó không giận mà chỉ hả miệng cười. Tại tính em vậy đó, ai ưng thì ưng, còn chê thì em ở vậy. Tôi cũng cười, Thủy nói thế là không được. Tính nầy cũng dễ sửa thôi mà.

 

      Hồi đầu khi xa quê, nó và mấy cô bạn cũng giận tôi nhiều lắm. Vì không một lời từ giả. Nhưng thời gian rồi nó cũng hiểu dần và thông cảm. Bỡi, đi vượt biên mà làm sao ăn mừng từ giả được ch, đi trong lén lút, trốn tránh lúc giữa đêm hơn nữa ngày ấy ai tin ai, lỡ vui miệng thì chết cả đám, nên đành lặng thinh và âm thầm ra đi. Bước lên tàu mà trong thân tâm thấy buồn và đau xót lắm, nhưng đành phải chịu.

 

      Qua những năm sống nơi xứ người, mỗi lần gởi thư về thăm nhà, tôi cũng hay gởi kèm để thăm bọn nó. Tôi nghiệp, mỗi lần nó viết thư sang thăm hỏi và hay rủ về một chuyến, đọc xong, thấy ray rứt vô cùng. Thú thật, trong đám bạn thì tôi quí mến Thủy nhiều nhất. Tuy bu lô, bu la, nhưng lòng rất tốt.

 

      Ngày qua ngày, công việc cứ lấn dần công việc, tự dưng tôi quên hẳn hai chữ Ngọc Thủy trong đầu. Tôi biết Thủy và các bạn cũng trách tôi nhiều lắm. Nhưng phương xa người ta quên mình, thì mình cũng chẳng để tâm làm gì.

 

      Cách đây hai năm vào dịp tết, tôi có về thăm quê nhà. Trước khi về tôi có cho gia đình hay trước, nhưng không biết sao những tin tức ấy đã lọt vào tai của Thy và các bạn ngày xưa.

 

      Mặc dù không có cơ hội đi đón tôi tại Phi trường Tân Sơn Nhất, nhưng các nàng đã chờ tôi từ lúc sáng nơi bến Đò Tân hội. Sự bất ngờ khiến tôi không cầm được những giọt nước mắt thâm tình. Gặp lại nhau trong nghẹn ngào, nhung nhớ Thủy chỉ biết ôm tôi và khóc như vừa tìm được cái gì mình đã đánh rơi.

 

      Không nỗi mừng nào bằng nỗi mừng hội ngộ, bao phiền giận tôi bấy lâu bỗng dưng tan biết mất. Thủy xem tôi y như những ngày nào còn tuổi trẻ, thân thiện và cùng tôi sát cánh suốt đoạn đường về đến nhà. Tôi cũng thế, vì mừng quá, tự nhiên quên mất cái gia đình bên cạnh. Mọi người cứ chăm chú cái tình anh em bất diệt mà dường như cũng xúc động theo.

 

      Qua ba mươi ngày làm Việt kiều về thăm quê, tôi cảm nhận ngoài gia đình không ai cho tôi cái tình thắm thiết như Thy đã dành riêng cho cá nhân tôi trong suốt cuộc hành trình. Cảm ơn Thủy nhiều lắm, cảm ơn người bạn bé nhỏ của tôi.

 

      Ngày trở lại xứ người, là ngày tôi lại phải xa Thủy lần thứ hai, thương Thủy nhiều lắm. cô bạn dễ mến. Và, ngẫm lại rằng dù ở đâu, phương trời nào ta cũng vẫn còn những người bạn cũng như mối tình đẹp mà suốt cuộc đời họ luôn luôn là kẻ chân tình trước sau như một dành riêng cho ta.

 

Một chiều

Gặp lại em

Nơi bến sông xưa

Giọt lệ đỗ như mưa

Tấm chân tình hiện diện

Đời còn thấy dễ ưa........!

 

 

Thủy Điền

 

01-08-2017

 

207- Đổi Chai

 

    Nó đang ngồi trên thềm ba nhà, tay cầm hai bịch kẹo, miệng nhai lia lịa, không thèm nhìn ai.

 

      Mẹ nó đi lễ nhà thờ về đến, thấy nó đang bận rộn với bịch kẹo. Hỏi ?

-Marc ! Kẹo ở đâu mầy ăn và có cả hai bịch thế?

-Con vừa mua ở Kios (Quán cóc) gần bên.

-Tiền đâu mầy mua?

-Con vừa đổi 10 cái chai mũ không mẹ để trong nhà bếp (Ở Đức mỗi chai nước uống phải thế chân 0,25 €).

-Hôm nay Chúa nhật, ai đổi cho mầy. Con nói láo với mẹ phải không ? Mà ai đổi cho con chứ ?

- Ông Nội.

 

      Khi nghe nó nói đến ông Nội xong, bà cười bà bỏ vào nhà.

 

  Thằng Marc có bản tính rất thích ăn kẹo, ăn đến nổi năm nay mới có sáu tuổi mà chỉ còn vài ba cái răng thưa thớt. Bởi thế khi biết được mẹ nó nhất định không mua dự trữ trong nhà sợ nó và thằng em nhỏ sẽ không còn cái nào. Chính vì thế mà nó lúc nào thấy ai ăn kẹo cũng thèm thuồng đến chảy nước vảy.

 

      Nhà nó ở gần chợ, thường ngày hay theo mẹ đi Siêu thị mua hàng và đổi chai, nó để ý và cũng tự đi đổi vài ba lần nên khá quen. Hôm nay thèm kẹo quá, chờ mẹ đi lễ nhà thờ, nó lén vào nhà bếp lấy mười cái chai định đi đổi, lấy tiền và mua kẹo. Nhưng nó quên mất hôm nay là ngày Chúa nhật Siêu thị đâu có ai làm việc đâu mà đổi. Đi thì cứ đi…..!

 

      Ông Nội nó đang làm cỏ trước sân, bỗng dưng thấy nó đi lơn tơn xách hai bịch mũ chai không đi về hướng Siêu thị. Ông bảo.

-Marc cháu đi đâu thế?

-Thưa ông cháu đi đổi chai.

 

Ông cười.

 

-Hôm nay Chúa nhật đâu có ai đổi chai cho con.

 

Nó bảo .

 

-Tại sao?

-Thì ông đã bảo là Chúa nhật, đâu có ai làm việc kia mà.

 

Thấy nó gương mặt sú sị, không vui, muốn khóc. Ông bảo tiếp.

-Thôi được, vào đây ông đổi cho, lấy tiền đi mua kẹo đi về ăn nhớ giấu mẹ, mẹ thấy sẽ bị đánh đòn nghe chưa.

 

      Cầm trong tay hai đồng rưởi, mừng quá chạy u sang quán Kios bên cạnh mua hai bịch kẹo và chạy một nước về nhà ngồi ăn ngon lành.

 

      Sáng hôm sau chờ nó đi học, ông Nội nó xách hai bịch mũ chai không sang trả lại cho m nó và bảo: Lâu lâu bây cũng mua cho nó ít kẹo ăn cho vui, con nít mà hay thèm ngọt, không mua luôn tội nó lắm. Hư răng- rồi sẽ mọc răng khác chúng còn nhỏ không sao.

 

      Và, chuyện xãy ra ngày hôm qua là điều vợ chồng con cần chú ý. Thôi ba về đây.

 

Thủy Điền

30-07-2017

 

 

 

206- Trứng Mà Sao Hơn Vịt ?

 

    Trên đường từ Siêu thị về nhà, hắn tấp vào quán rượu quen mua một chai rượu mạnh Napoleon. Gương mặt còn đang giận dữ, tay run run cầm tờ giấy bị đuổi việc, miệng lầm bầm: Té ra con quỷ cái chủ Siêu thi Việt Nam nầy cũng khá thâm độc nhỉ.

 

      Hắn là một người Việt gốc Hoa đi sang Đức theo diện đăng ký hồi năm 1978. Phải công nhận hắn là một con người rất siêng năng, đáng phục. Từ ngày sang Đức, sau khi học khóa sinh ngữ cơ bản là chín tháng, nhẩy ra hắn đi làm luôn đến hôm nay. Nói chung hắn chưa một ngày nào bị thất nghiệp. Trong khi những người khác cùng học chung với hắn xong, họ tà tà ở nhà lãnh tiền trợ cấp độ vài năm hay ít nhất là một năm thì mới chịu đi làm.

 

      Thời gian gần bốn mươi năm, hắn đã trải qua biết bao nhiêu công việc và công việc cuối cùng là người bán hàng tại một Siêu thị Á đông lớn do người phụ nữ Việt nam làm chủ.

 

      Nhân viên trong Siêu thị kể cả bà chủ là sáu người, mỗi người chịu trách nhiệm một bộ phận. Sau mười năm làm việc, Siêu thị càng ngày càng khá dần mà chẳng thấy bà chủ cho ai thêm một đồng bạc lương bổng nào cả. Nhiều lần hắn đại diện anh em nhân viên xin bà chủ lên lương, nhưng bà tìm mọi lý do khước từ lời đề nghị. Giận quá, một hôm hắn điều động anh em đình công, nghỉ ở nhà, không đi làm việc. Thế là Siêu bị bị đọng vì không có người làm việc, đành phải treo bảng trước cửa Siêu thị “ Cáo lỗi tạm đóng cửa một thời gian ngắn, diện lý do Siêu thị đang trong tình trạng sửa chữa “

 

      Mọi người ở nhà suy nghĩ, thế nào bà chủ cũng sẽ phải gọi đi làm lại và chắc chắn sẽ tăng lương, không còn cách nào khác. Nếu không bà xem như bị mất khách và sập tiệm ngay.

 

      Tiếng điện thoại reo từng nhà, giọng bà chủ rất ngọt ngào như không có chuyện gì xảy ra.

 

      Bà mong mõi mọi người hãy đến làm việc bình thường và sẽ có cuộc họp thống nhất chung.

 

      Đúng thế, khi mọi người đến làm việc trở lại, bà tỏ vẻ rất vui và tổ chức ngay cuộc họp để anh em nhân viên yên lòng. Trong cuộc họp bà nêu rõ những khó khăn của Siêu thị nên chưa giải quyêt ngay được những vấn đề mà anh em đã yêu cầu từ bấy lâu nay và hứa hẹn đúng sáu tháng sau bà sẽ làm cho mọi người hài lòng. Bà con khoái chí, vỗ tay. Thế là ta đã thắng rồi. Và, sáu tháng sau ta sẽ có đồng lương khác ngay.

 

      Hai ngày khi cuộc họp được thống nhất, bà trưng ngay một tấm bảng thật lớn trước cửa Siêu thị “ Cần tuyển nhân viên bán hàng “ Khi vừa trưng xong thì có người đến xin việc (Khá đông) Bà chọn chỉ một người, còn những người khác bà hẹn tháng tới. Bước đầu bà lựa người nào kém nhất trong Siêu thị bà cho nhân viên mới đến học hỏi người ấy, khi người mới có thể thay thế người cũ được phần nào, bà mời người cũ lên Văn phòng tìm mọi lý do và sa thải ngay. Thế là bà loại được một mũi nhọn.

 

      Qua tháng thứ hai bà nhận tiếp người khác và cứ trình tự loại từng người. Đến tháng thứ năm bà bắt đầu tìm mọi cách loại hắn. Lần loại nầy tuy khá khó khăn, nhưng bà có rất nhiều lý do như: Siêu thị bà đang trên đà dùng những máy móc hiện đại nhằm phục vụ kịp thời cho lượng khách đông mà hắn là người không có khả năng làm những việc nầy. Cuối cùng hắn cũng phải chịu thua và cầm tờ giấy bị đuổi việc ra về.

 

      Thế là năm móng tay nhọn trong vòng năm tháng bà lần lượt bẻ gãy và những nhân viên mới phải phục tùng dưới sự chỉ huy của bà như những người cũ khi Siêu thị vừa mới thành hình. Bà nói: Nếu có xảy ra như năm tháng trước thì mười năm sau mới được lập lại.

 

      Qua những ngày thất nghiệp. Hắn mới nhận ra trứng mà làm sao hơn Vịt được chứ.

 

Thủy Điền

26-07-2017

 

 

 

 

 

205- Chuyện Chiếc Cầu Đã Gãy

 

   Nguyên một tuần nay, ngày nào hắn cũng từ trên triền đồi chạy xuống đầu cầu, nhìn qua bên kia con suối lớn, khóc và bảo: Thế là mình lại dốt nữa rồi. Rồi quây lưng chạy một mạch về nhà, trông rất là tội nghiệp.

 

      Sau ba mươi năm giải phóng, cái buôn nơi hắn ở được nhà nước quan tâm và xây dựng cho cây cầu cây dài bắt ngang qua con suối rộng hơn năm mươi mét. Nơi đây xưa nay từ buôn nầy, muốn sang buôn khác người ta (Nói chung là người lớn) hay lội, bơi qua hoặc dùng những chiếc xuồng đẽo chèo bọc trên đầu suối thì mới qua được và ngược lại thì cũng làm y như thế. Riêng các trẻ em thì bó tay, đành đứng bên nầy nhìn sang bên kia mà cả thời thiếu niên chẳng biết bên ấy là cái gì. Thê thảm thật. Bởi thế, các em chẳng được học cao, chỉ võn vẹn hết bậc tiểu học mà thôi.

 

      Đúng ra thì người ta cũng muốn làm cây cầu nầy lâu lắm rồi, nhưng gì số hộ dân sống nơi đây quá ít, rải rác, nên họ cứ dùng dằng cho đến ba mươi năm sau mới thực hành.

 

      Hắn may quá, được lớn lên vào thời điểm nầy, nên sau khi hết bậc tiểu học, hắn được sang buôn bên cạnh để học tiếp bậc trung học. Ngày ngày hai buổi lần theo cây cầu cây qua suối đề tìm thêm ít vốn liếng chữ  nghĩa và có dịp, cơ hội được gặp gỡ nhiều bè bạn hơn.

 

      Suốt một năm dài qua cầu đi học, hắn ngỡ cuộc đời mình đã xa lánh được những ngày u tối. Thậm chí cả mấy em, những người trong buôn nay mai cũng thế.

 

      Nhưng không may, đời đâu có để yên, hôm tháng sáu vừa qua, khi trời bắt đầu vào mùa mưa, những trận mưa dầm xối xả kéo dài cả tuần, lượng nước lớn tuôn chảy từ những sườn đồi, lôi cuốn cả vùng đất gần chân cầu, trốc móng, sập ngả, gãy đỗ và cuốn theo dòng suối đi về một phương trời vô đnh.

 

      Trong ước mơ, hy vọng của tuổi trẻ đã tan tành theo mây khói. Cảnh cũ xưa đã hiện về trước mắt. Hắn và bao người bạn cùng buôn phải đành đứng bên nầy con suối mà trông về phía bên kia, nơi ấy có bạn bè và mái trường thân thuộc.

 

      Ngỡ năm ba ngày người ta sẽ xây lại và được tiếp tục đi học lại bình thường, nhưng cứ chờ mãi đến nay mà chẳng thấy. Nói thì nói vậy. Sự thật đâu có dễ, muốn làm lại phải có kinh phí và đòi hỏi thời gian chứ.

 

      Khi nghĩ đến những điều ấy, hắn tự dưng rơi nước mắt và tự nhũ lòng. Thế là, lại một lần dốt nữa. Có lẽ? Trời đã sắp đặt sn “Người bản thượng sẽ trở về với bản thượng “

 

Thủy Điền

23-07-2017

 

 

 

204- Xực Cháo Lậu

 

   Mặt trời gần đứng bóng. Mụ sẩm Muối mặt đỏ, hầm hầm, đi tới, đi lui tức giận. Cái lão Bành nầy chỉ có đi xực bát cháo lậu, dẫm ly Cà- Phê thôi, mà từ lầu sáng lến giờ vẫn chưa thấy về. Vậy là một  thúng giò cháo quẩy và mấy thùng cải chua của ngộ chắc phải tự xực hết quá, trưa trờ, trưa trật như thế nầy ai mà mua nữa.

 

      Vào những năm 77- 80 của thế kỷ trước, khi đất nước đã thâu về một mối, chiến tranh đi qua. Nói chung là hoà bình được lập lại. Lẽ ra hồi ấy tất cả cái gì cũng được tự do thì dễ thở hơn. Nhưng ngược lại, tất cả đều bị cấm. Mà hỡi càng nghiêm cấm, thì người ta lại càng làm chui nhiều hơn. Đó là sự cân bằng của cuộc sống. Nếu không làm chui, làm lén thì lấy gì mà nhai, chẳng lẽ ngồi chịu chết sao?

 

      Bởi khi có những lệnh ấy được ban ra, các người dưới cấp thi hành một cách rất tích cực, luôn luôn nghe ngóng, tìm tòi những ai đã làm sai những luật lệ nầy. Hầu bắt bớ, tịch thâu và lập thành tích.

 

      Lão Bành là một người Hoa kiều được sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, nhưng giọng nói vẫn còn người Hoa chánh cống luôn nói lợ lợ chữ nào dường như cũng có chữ (L) Đi đầu nhất là chữ Đ lão hay đọc thành chữ L và lão là một nạn nhân trong vụ việc như sao:

 

     Gia đình lão có cái nghề làm Giò cháo quẩy và muối Cải chua gia truyền. Ngày nào cũng thế, đúng tám giờ sáng là lão mang những thứ nầy ra chợ bỏ mối cho các tiệm nhỏ. Thấy công việc rất đơn sơ, nhưng lão kiếm được khá lời và nuôi sáu đứa con khỏe re. Trong khi một người Công chức hay một anh Nông dân làm lụng cả ngày mà nuôi hai đứa con rất là vất vả.

 

      Sáng nào cũng thế, khi phụ vợ chiên Giò cháo quẩy xong, chờ nguội, rỏ dầu để đi bán là lão ra đầu chợ ăn bát cháo đậu đen dưa mấm và uống ly Cà-phê rồi mới về mang hàng đi bỏ mối.

 

      Trên đường về, lão gặp ông Trưởng thôn và vài ba Du kích đang đi tuần tra đêm .

Bác Trưởng thôn hỏi ?

-         Ông Bành, ông đi đâu về sớm thế ?

-         Ngộ đi xực Cháo lậu

-         Cháo lậu bán ở đâu vậy?

-         Thì gần gần đây nè.

Bác Trưởng thôn nghĩ lão đi ăn cháo lợn về và gần đây hình như có người đang làm lợn lậu, định đến bắt và tịch thâu.

-         Xin ông vui lòng đưa chúng tôi đến đó được không?

-         Ngộ mậu thì giờ ló, ngộ phải về phụ a phò ở nhà ló. Nị có muốn xực thì cứ lến ló mà xực, nị lâu phải con lít lâu mà bắt ngộ lẫn lường.

-         Tôi bảo anh phải đưa chúng tôi đến đó ngay.

   Lão nổi nóng. Cự lại !

-Nị muốn xực thì nị li tìm mà xực. Tại sao nị bắt ngộ phải chỉ nị chứ. Nị cha ngộ à. Rồi bỏ đi một nước.

Ông Trưởng thôn càng nghi lão thêm

-Anh Bành, anh đứng lại, anh không khai và không hợp tác với chúng tôi, anh ngoan cố. Vậy mời anh về Trụ sở ấp làm việc.

-Li thì li Ngộ lâu có sợ, ngộ lâu có tội gì, muốn li xực cháo lậu, thì tự li mà xực. Tại sao bắt ngộ phải lẫn lến ló chứ, ở ló ai mà không biết. Rồi tự dưng bắt ngộ về bót, vô lý thật.

 

      Hai tay Du kích kè lão về trụ sở, bắt lão viết lời khai, lão đâu có biết viết tiếng việt đâu mà viết, chỉ biết nói  sơ sơ. Bởi, xưa nay lão chỉ được học ở trường tàu mà thôi.

 

      Chờ mãi đến trưa, ông Trưởng thôn chẳng thấy lão viết chữ nào nên hỏi?

-Anh Bành, anh định ngoan cố, che đậy người làm lợn gian đến chừng nào?

-Nị nói cái gì ?

-Ông Trưởng thôn đập bàn, tôi muốn anh khai, ai là người bán cháo lậu ngày hôm nay. Anh hiểu ý tôi chứ ?

 

      Lão ngồi im ru và nói thầm: Trời lất ơi, thét rồi xực cái gì cũng phải khai cái người bán, may mà lão A Tỷ ở gn lây, phải lão A Tỷ ở Chợ lớn chắc chết cha ngộ rồi.

 

      Sẩm Muối ở nhà trông đứng, trông ngồi chẳng biết lão đi đâu nên cùng các con đi kiếm. Thì té ra lão bị bắt và giam tại Trụ sở ấp.

 

      Vào đến, sẩm hỏi lão: Nị làm cái gì mà người ta bắt nị vậy?

Ngộ có làm cái gì lâu, trên đường về họ hỏi ngộ li lâu về sớm vậy. Ngộ cỏn, ngộ li xực cháo lậu về, thì bị bắt vậy thôi.

 

Sẩm quây qua hỏi?

-Ông Trưởng thôn ? Chồng ngộ li xực cháo lậu cũng không được sao, vậy mỗi sáng chồng ngộ lược xực cái gì ?

-Cái gì cũng được, nhưng không được ăn cháo lợn, ăn cháo lợn là tiếp tay cho ngững người mỗ lợn lén bà biết không?

 

      Thưa ông, chồng ngộ không có xực cháo lợn mà chồng ngộ xực cháo đậu đen, tại chồng ngộ nói tiếng việt không có rành , giống y ngộ vậy ló.

Thì ra, tôi hiểu.

 

      Vậy chúng tôi xin lỗi ông bà và ông Bành có thể ra về được rồi. Lần sao tôi hỏi xin ông từ từ giải thích cho tôi nghe để tránh phiền hà như hôm nay.

 

Dậu.

 

Thủy Điền

19-07-2017

 

 

 

 

 

203- Đêm Miên Man

(Hay Xem Như Là Của Ta)

 

    Sau đêm miên man. Sáng thức dậy, Casar đã chuẩn bị cho nàng một mâm nhỏ ăn sáng và bình Cà-phê sẵn, rồi vào phòng nằm nghỉ tiếp. Vừa ăn sáng, vừa uống Cà-phê , nàng bảo thầm: Mình có ác với ông ta không thế? Đã như vậy, mà ông ta vẫn lo cho mình chu toàn. Trong chuyện nầy ông làm ngơ hay là ông không biết ?

 

      Khi bà qua đời, là lúc ông cũng vừa được nghỉ hưu. Ông lúc ấy 67 tuổi đời, chẳng có con cái chi cả. Với căn nhà rộng thênh thang một mình, một bóng, thật cô đơn, ngày ngày chỉ biết ăn và ngủ hoặc đi dạo vòng quanh các ngõ là cùng. Hai năm sau khi bà mất ông cảm thấy cuộc sống rất cơ cực từ mọi phía. Ngồi nghĩ định tìm một người bạn gìa để níu kéo lẫn nhau vào lúc xế chiều, nhưng đợi mãi chẳng thấy bóng ma nào ve vãn đến với mình.

 

      Trong một tiệc rượu chiều, tình cờ ông được một người bạn có vợ người Thái Lan, giới thiệu cho ông cô em vợ đã một lần qua cầu, trẻ, xinh nhỏ hơn ông 30 tuổi. Nghe có người đàn bà muốn đến với mình, lòng ông thấy cũng vui, nhưng ngặt có điều cô ta còn trẻ quá, ông hơi lo và cuối cùng thì ông cũng chấp nhận.

 

      Người đàn bà Thái hiện đang ở Bangkok, lỡ dỡ chuyện tình, có một đời chồng và một cậu con trai còn đỏ hỏn,  cô muốn xa lánh cảnh đời đen bạc mà đi xứ khác. Được tin người chị từ Đức điện về, cô ta liền chấp nhận- lập thủ tục và được sang Đức sống với Casar.

 

      Mấy năm đầu nàng có vẻ trung thực yêu Casar, dù ông ta tuổi đáng cở cha mình. Hai người yêu thương, hạnh phúc. Sau hơn một năm sống với nhau nàng sinh được một cậu tây lai Marcus thật khá khỉnh và xinh đẹp. Song song, nàng cũng bảo lãnh được cậu con trai riêng của mình lớn hơn Marcus một tuổi rưởi cùng sang Đức. Thế là gia đình Casar từ chỗ cô đơn bỗng dưng biến thành nhộn nhịp.

 

      Càng lúc Casar càng gìa đi, tuổi đời của nàng cũng dâng theo, nhưng khoảng cách thì vẫn còn y. Những ngày già Casar chỉ biết ngồi trong phòng lặng lẽ, để mặc cho bà vợ muốn làm gì làm, ông chẳng hề đá động. Miển hàng ngày ông có hai buổi cơm và có người chăm sóc cho ông là đủ rồi. Ngoài ra ông cũng chẳng cần thứ khác.

 

      Sống càng lâu trên mảnh đất quê người, nàng dần dà quen biết được rất nhiều những cô bạn đồng hương. Trong những lúc buồn bã họ thường hay tập trung nơi quán Karaoke của người Thái để khỏa khuây và nàng đã quen được anh chàng bồi bàn cũng người Thái. Qua những lần giao du tình cảm nàng đã có thêm được một cậu con trai nữa, thế là nàng được cả ba. Nhưng đặc biệt hơn cậu con trai nầy hoàn toàn chánh tông người Thái không như anh chàng thứ hai đầu vàng mũi tẹt.

 

      Ngày sanh Nobert, Casar tuy không nhìn thấy rõ hết, vì đã tám mươi sáu tuổi rồi. Nhưng chàng rất vui mừng, vì mình từng tuổi nầy mà lại thêm được cậu con trai thật là diễm phúc và hiếm có. Chàng luôn tự nhũ, nếu mình có qua đời đi nữa, thì cũng còn lại trên đời nầy những giọt máu của Casar và chúng có thể và còn cơ hội để lo cho mẹ nó trong những lúc xế chiều.

 

Thủy Điền

16-07-2017

 

 

 

202- Người Tình Trong Ngắn Ngủi   

 

    Sau đêm ân ái, nàng chợt nghĩ ra mình không thể tiếp tục với Dieter được nữa, phải chấm dứt ngay là biện pháp tốt nhất. Bởi, chàng đã có cô con gái riêng cùng Ela. Dù quyết định hơi sớm và có vẻ ích kỹ, nhưng sẽ tránh được những phiền phức về sau.

 

      Giữa khuya, đêm dạ hội cuối tuần trở nên ồn ào hơn, Karin nhìn thấy một người đàn ông lạ đang ngồi gục đầu bên chai rượu, trông có vẻ buồn thảm và sầu đời lắm. Đang nhẩy với người bạn gái, nàng xin lỗi, rồi bỏ ngang và tìm đến người đàn ông lạ, làm quen. Hai ly rượu được rót đầy, tâm sự đến suốt gần hai tiếng đồng hồ. Họ dường như đồng cảm và kể cho nhau nghe tất cả về mình. Đêm dần sáng- dần sáng, rượu cũng cạn dần, tay liền tay dìu nhau lên chiếc Taxi và phóng thẳng về nhà chàng. Trong giây phút quây cuồng theo men rượu và tình yêu, nàng chẳng nghĩ gì ngoài chuyện ái ân. Chàng cũng thế và xem như nàng là vị cứu tinh khi cuộc đời đang lỡ bước.

 

      Qua đêm- sáng thức dậy, chàng còn say ngủ, nàng tỉnh táo trở lại. Tay để vào trán. Tuy biết chàng là người cũng rất đáng thương và cũng đáng dâng tình. Nhưng không thể được, phải chấm dứt ngay và chỉ xem như người bạn bình thường là hay nhất. May mà còn tránh hậu họa về sau, khi yêu nhau rồi, chàng mỗi tuần lại bảo “Hôm nay anh bận phải đưa con đi phố mua sắm hay chăm sóc con sau những ngày xa vắng. Để nó còn nhớ và biết đến bố.

 

      Thật tình thì nàng nghĩ cũng đúng, nàng sợ Dieter sẽ chia xẻ tình thương của chàng dành cho nàng và cô con gái. Dầu biết thế, nhưng nàng quyết định quá vội cũng như tỏ ra mình quá ích kỷ trong tình yêu. Trước khi quyết định nàng quên rằng nàng cũng là người đàn bà vừa xa chồng cách đây gần hai tháng, chớ nàng có nguyên vẹn gì đâu.

 

      Hai sợ dây bị đứt đã được nối lại trong đêm dạ hội, ánh sáng phòng trà đã chứng minh điều đó và hy vọng sợi dây ấy dù không nguyên thủy, nhưng cũng sẽ tồn tại được dài lâu. Ai ngờ ! Phía bên đứt kia lại còn một gút mắt mà không sao tháo gở được. Thật trớ trêu.

 

      Dieter là người bạc số thật, sau năm năm lập gia đình với Ela và sanh được cô con gái khá khỉnh hơn ba tuổi, rồi nàng bỏ đi. Để lại cảnh nhà cô độc chỉ có hai cha con võn vẹn. Ngỡ cuộc sống sẽ kéo dài theo năm tháng. Nhưng một hôm lại gặp được Karin, người cùng cảnh ngộ, tưởng cuộc đời sẽ qua đi những ngày đen tối. Nhưng rồi……….!

 

      Sáng thức dậy, nàng đi mất, chỉ để lại những dòng chữ đau đớn nơi bàn khách “Peter, xin lỗi anh, chúng ta không thể tiếp tục, và chỉ xem nhau như bạn mà thôi “ Em vì bận việc phải về sớm, chúc anh ngủ ngon.

Ký tên Karin

Người tình trong ngắn ngủi.

 

Thủy Điền

12-07-2017

 

 

 

 

 

 

201- Căn Nhà Cuối Bãi

 

   Gần hai năm nay, khi ông bà Robert đột ngột qua đời, căn nhà bổng nhiên bị bỏ hoang, trống vắng, cây lác mọc um tùm, không lối vào. Thật là hoang uổng.

 

      Ông bà Robert là một thương gia giàu có, cách đây mười năm trước khi về nghỉ hưu, ông bà đã mua miếng đất gần cuối bãi và xây một căn nhà lộng lẫy để hưởng già cùng hai người con trai. Khi căn nhà được cất xong, chiều cuối tuần hay những ngày lễ nào họ cũng thường đưa gia đình đến đây để hưởng những làn gió mát, trong sạch một cách đều đặn như đi nghỉ hè. Sau đúng mười năm như dự định họ bán tất cả những cơ sở cố định và dọn hẳn về cuối bãi nầy để ở. Cuộc sống họ rất hạnh phúc và an nhàn với những ngày còn lại.

 

      Trong những giây phút ấy, họ ngỡ những đứa con họ học xong sẽ làm việc ở quê nhà và sống chung cùng họ. Nhưng khi thành đạt xong, chúng mỗi kẻ mỗi nơi không như ý muốn lúc ban đầu. Mỗi năm chúng chỉ về lại ba lần đó là ngày Sinh nhật bố mẹ và ngày Giáng sinh, còn bấy nhiệu là bật tâm cá, nhạn.

 

      Thế thì ông bà đành phải ở cu ki một mình nơi đèo heo hút gió. Tuy, không có con gần bên, họ cũng thấy buồn, cô đơn. Nhưng ngược lại họ cảm thấy thích thú với khí trời tươi mát, không ồn ào và không nhìn thấy những gì mình không muốn thấy đang diễn ra và hiện hữu phía bên ngoài.

 

      Khổ thay hơn, khi vừa ra ỡ được năm năm thì bà Robert trở bệnh nặng và qua đời sau những ngày cơ cực ấy. Căn nhà chỉ còn lại một bóng cô đơn. Buồn, nỗi buồn tràn dâng, nhiều lúc ông muốn bán đi căn nhà và trở ngược về thành để ở, hầu còn hưởng được chút vui vẻ của cuộc đời hay khi bệnh hoạn thì cũng có nhanh người cứu giúp. Cứ nghĩ đi, nghĩ lại những tháng dài và cuối cùng ông quyết định ở lại, bởi tuổi đã già rồi ở đâu cũng thế. 

 

      Thật cái gì rồi cũng đến. Thời gian- thời gian cứ liên tiếp qua mau vùn vụt. Số mạng con người đâu cưỡng lại được trời và ông đã theo bà sau mười năm xa vắng. Ngỡ cha mẹ qua đời các con không ở tiếp, sẽ bán đi. Ai ngờ! Chúng vẫn để y và không chịu nhường lại cho ai cả. Cứ để cho mặc gió mưa, cây cỏ tha hồ hôn hít, đã gần hai năm nay mà không một bóng người lui tới.

 

      Không hiểu chúng thương cha mẹ để làm kỷ niệm hay mặc xác trời.

 

Thủy Điền

14-07-2017

 

200- Người Ăn Mày Tiến Bộ

 

   Trước tháng tư năm 1975. Không phải riêng tôi, mọi người ai cũng thế. Nếu có dịp đi từ lục tỉnh lên Sài gòn- Chợ lớn và ngược lại đều cũng phải đi ngang qua cầu Bến lức. Chắc hẳn vẫn còn trong tâm trí hình ảnh, tiếng hát, tiếng đàn của cha con người hát dạo ven đường.

 

      Mỗi khi xe dừng lại để hạ khách hoặc rước khách lên cũng đều nghe những bài ca quen thuộc như: Mưa rừng “Mưa rừng ơi ! Mưa rừng, hạt mưa nhớ ai mưa triền miên, phải chăng mưa buồn vì tình đời, mưa sầu vì lòng người, duyên kiếp không lâu” Và vài câu vọng cổ “Mỗi khi có dịp xuống Hậu giang và đi ngang qua cầu Bến lức, tôi vẫn thường nghe não ruột của em bé ngây thơ hát dạo ở bên…. đường. Cầm chiếc gậy tre em dắt theo một ông lão tật nguyền” Rồi dăng dẳng thêm câu “ Họ nhạc sỹ, tôi cũng là nhạc sỹ. Đời của họ rày đây mai đó, còn đời của tôi thì sương gió lâu rồi “ Nghe rất là hay, rất là buồn. Chính vì lẽ ấy mà ai cũng động lòng và đành phải móc túi voan.

 

      Hồi ấy cha con ông chỉ võn vẹn có cây đàn Gitarre cũ kỷ, một cây gậy tre, một cái lon kiếm sống, lây lất qua ngày. Người qua đường ai cũng thấy tội nghiệp và phải đành nhũ lòng bố thí cho vài đồng. Nhiều người cộng lại thế là cha con ông đã sống được một ngày, có khi còn dư chút đỉnh để hậu họa khi trời giông tố.

 

      Ngày nay lại khác, tiến bộ hơn. Năm 2014 tôi về thăm quê và gia đình. Cũng con đường ấy, cũng tuyến đường ấy, nhưng không phải là cầu Bến lức, mà là một ngã tư để rẽ vào đường cao tốc. Bây giờ những người nầy tiến bộ lắm, về cách ăn mặc thì vẫn như xưa cũ có điều kỹ thuật hát dạo thì tối tân hơn như: Họ dùng đàn điện, gắn hai cặp loa thật lớn treo trên cây cổ thụ, hát vang dậy cả làng. Đặc biệt họ không cần phải hát miệng cho mệt hơi, nhiệm vụ cứ ngồi chờ, khi xe đến- dừng lại là mở CD lên là có tiếng nhạc được thâu sẵn ngay. Song song có những đàn em cầm lon đi dọc theo hai hông xe với gương mặt thiễu não hay đội chiếc nón bành gục mặt để  những người khách qua đường nhìn thấy sự khổ sở của cuộc đời mà không thể nào bỏ lơ được, rồi cứ quyên vào cái lon đó thế là xem như mình đã cứu vãn được phần nào nỗi đau của xã hội. Mỗi ngày, mỗi tháng có hàng  trăm, hàng ngàn chiếc xe dừng lại và họ đều làm như thế. Đến chiều tập họp lại là họ đã có số tiền to. (Tóm lại người ăn mày bây giờ chẳng phải cực khổ chi hết. Họ giống như những nhân viên thâu thuế cầu may.

 

      Xe đi qua- đi qua nhiều ngã tư và bến dừng khách khác, tôi nhìn thấy nơi nào cũng có những tổ hợp nho nhỏ như thế và họ làm ăn có vẻ chuyên nghiệp lắm.

 

      Vì ở nước ngoài nhiều năm, tôi hay có thói quen là hỏi “Được phép hay không được phép “ Xoay qua người đồng hành tôi hỏi? Làm như thế có được phép không hay làm đại, làm liều. Người ấy trả lời họ không biết. Nhưng ở đâu cũng có chủ cả. Thử người xứ khác lại hát, đàn để kiếm cơm coi . Có lẽ và chắc chắn chiều khó mà về lại quê nhà và nếu có về được thì thân xác chẳng còn nguyên vẹn.

-Thật hãi hùng thế à ?

-Thử đi là biết liền.

 

      Nghe qua thì mới hiểu, có nhìn thì mới thấy. Người ăn mày bây giờ tiến bộ lắm và dường như họ không phải là những người hành khất nữa mà là một cái nghề để sống.

 

Thủy Điền

06-07-2017

 

 

 

 

 

199- Đu Đủ Mõ Vịt

 

   Gần đến giờ cúng rồi, chỉ còn một món gỏi đu đủ tép nữa là xong. Thế mà không biết con nhỏ Lan nầy nó mua tận nơi đâu mà từ sáng đến giờ chẳng thấy về. Mọi người làm bếp cứ chắc lưỡi, hít hà trông đợi.

 

      Xưa nay mỗi lần đình đám, việc lớn, việc nhỏ trong nhà kể cả việc đi chợ đều có mẹ lo hết, bà ít khi nhờ vả đến ai. Riêng Lan và các em chỉ biết ăn, vui chơi, đi học chớ đâu có biết gì về ba cái bếp núc và tệ hại hơn là mẹ chưa hề cho cầm giõ tự đi chợ một lần. Không phải là bà chê vụng về, bởi bà sợ người ta thấy không biết, gạt gẫm bán hàng không tốt, đắc giá. Nhưng không hiểu sao hôm nay tự dưng mẹ đưa mười đồng bảo ra chợ mua đu đủ mõ vịt. Chắc có lẽ nhà thiếu người hay bà muốn chứng minh cho những người thân và láng giềng biết rằng con gái bà cũng rành rẽ việc nội trợ lắm.

 

      Thật lòng thì từ nhỏ- đến lớn Lan thường hay nghe thoáng qua danh từ đu đủ mõ vịt, nhưng nàng cứ lơ đi và chưa nhận thức rõ nó như thế nào. Hôm nay đụng chuyện, trước khi nhận tiền mẹ đi chợ, nàng hồi hộp vô biên, giữa đám đông nàng giả bộ tỉnh bơ, tuân lệnh rồi xách giõ ra đi.

 

      Đến chợ. Nàng đi tới, đi lui cả bao nhiêu bận, cả bao nhiêu lần mà chẳng thấy quả đu đủ nào có cái mõ hình con vịt, nàng vô cùng bối rối . Lẽ ra nàng phải hỏi trước mẹ hay người bán hàng, may ra còn biết và người ta giúp được điều gì. Nhưng vì quên và ngại, nên nàng cứ quanh quẩn gần cả buổi trời ngoài chợ và cuối cùng mua được mấy quả đèo đẹt có hình thù như con vịt mang về. Bao người bán hàng thấy cũng lạ, nhưng bán được số vụn vặt là họ đã mừng rồi và không cần hỏi tới, hỏi lui cho phí thời gian.

 

      Mọi người ở nhà cứ trông đứng, trong ngồi chờ nàng về để kịp làm cho buổi cúng, nhưng chẳng thấy đâu đâu. Ai ai cũng chắc lưỡi, hít hà không biết nàng mua tận chốn nao.

 

      Về nhà. Nàng trưng ra một giõ, toàn là những quả đèo đẹt, ngoằn ngoèo, những thứ người ta có thể vứt đi. Cả nhà ai ai cũng chưng hửng và cũng chẳng biết phải nói thế nào. Bà thấy thế nên chạy lại đỡ cho con gái vài câu. Có lẽ hôm nay chợ không có đu đủ nên cháu mua tạm thế. Thôi, ta có gì dùng nấy, ông bà không chấp đâu. Rồi khều nhẹ Lan vào phòng và bảo:

-         Lan nầy ! Đu đủ mõ vit là loại no tròn phía đầu quả có màu ửng vàng (Tóm lại quả đu đủ già và vừa bắt đầu chín, chứ không phải hình thù ngoằn ngoèo như con vịt. Lần sao con nhớ để ý.

-         Sao mẹ không nói trước cho con biết, đến giờ mẹ mới nói.

-         Xin lỗi con, vì mẹ quá bận nhiều việc cho ngày giổ hơn nữa mẹ nghĩ con đã biết từ lâu.

 

Vâng, cảm ơn mẹ.

 

Thủy Điền

 

02-07-2017

 

198- Sau Đêm Phi Vụ

 

      Đang ngồi ăn trưa. Bỗng có tiếng Điện thoại reo. Kathie nhấc máy. Đầu máy xin thưa: "Đây là chương trình tìm kiếm thân nhân ". Dạ, cô chờ cháu nhé.

-Mẹ ơi ! Mẹ có Điện thoại đây mẹ. 

-Vâng, mẹ đến ngay.

-Chào chị.

-Chị đang có tin vui đây. 

   Rồi hai người cùng trò chuyện với nhau gần hai mươi phút. Khi điện thoại xong, bà trở lại bàn ăn với gương mặt khó chịu. Vừa ăn, vừa nói:

-Phải biết trước, tao chả thèm tìm bố mầy làm gì cho mệt thân và phiền hà tới nhiều người khác quá. Nhục ơi là nhục.

-Sao mẹ lại nói thế. Hồi đầu chưa tìm được bố thì mẹ khóc, bây giờ mới vừa tìm được thì mẹ lại mắng bố. Con chẳng hiểu mẹ như thế nào.

 

      Ngày ấy, tao ngỡ bố mầy nhớ quê, muốn về, nói ra sợ tao ngăn cãn nên âm thầm về và mười mấy năm nay tưởng ổng ở lại luôn bên ấy luôn. Ai ngờ ! Ông ta ngồi tù bên Đức mà không hay và mới được trả tự do gần mấy tháng nay. Thử hỏi có chịu thấu không? Mà bảo tao đừng nổi điên lên chứ.

 

      Năm 1988 Tín được nhà nước cho sang Tiệp Khắc theo diện "Hợp tác lao động " Sau một năm hắn quen Monika- lấy nàng làm vợ và sanh được cô con gái Kathie.

 

     Chiều mùa hè năm 1991, khi ăn buổi cơm chiều với vợ xong, Tín bảo vợ, em để  anh đi cùng với vài người nữa sang Berlin thăm lại số đồng đội cũ, lâu nay không gặp anh nhớ quá, nay sẵn có cơ hội, khoảng đôi ngày là anh về lại với em ngay. Monika chìu chồng và để chàng ra đi.

 

      Thật lòng thì Tín cũng chẳng nói giấu gì với vợ, hắn dự định thực hiện xong phi vụ rồi sẽ quây về.

 

      Hoàng hôn hôm ấy hắn cùng ba người bạn đi trên chiếc Auto sang Đức, ước lượng sáng sớm sẽ đến Berlin. Khi đến nơi các Thủ lãnh giao nhiệm vụ là phải trót lọt nguyên một xe thuốc lá Marlboro từ biên giới Ba Lan về Berlin là xem như hoàn thành nhiệm vụ và trở về Tiệp Khắc ngay. Những lần trước chuyến nào cũng đều lọt cả, nhưng không biết sao lần nầy có hắn tham dự lại gặp một tai nạn rất lớn. Đó là bọn cướp chận đường phỏng tay trên giữa xa lộ. Trước tình thế nguy ngập để cứu chuyến hàng, Tín và đồng bọn đã nổ súng và đối phương đành phải ngã gục. Sau vụ việc, cả bọn chạy thoát thân, nhưng Cảnh sát Đức đã bao vây các ngõ, Tín và đồng bọn bị sa lưới và chuyến hàng xem như mất trắng.

 

      Ngày ra toà, Tín không phải là kẻ chủ mưu nên lãnh án hai mươi năm tù còn lại những người khác từ ba chục năm đến chung Thân về tội sát hại năm người cùng một lúc.

 

      Thế là hai ngày hôm sau Tín không về lại với Monika nữa, chàng nhất định không khai nơi chốn mình ở. Monika ở nhà chờ mãi- chờ mãi, chờ từ lúc con Kathie một tuổi mà nay nó đã mười tám tuổi đời. Mười bảy năm xa vắng nó muốn gặp cha và hối thúc mẹ phải đi tìm cho bằng được.

 

      Một hôm có người quen chỉ bảo chương trình "Tìm kiếm người thân" Monika nạp đơn xin họ giúp đỡ và họ đã hết lòng. Suốt gần một năm dài tìm kiếm. Họ đã tìm được Tín sau ba tháng được trả tự do và hiện ở chung với gia đình người bạn tại Thủ Đô Praha - Tiệp Khắc.

 

      Khi cuộc hẹn được gặp gỡ nhau, Monika nửa mừng, nửa giận, con Kathie nhào đến ôm chặt lấy cha, khóc nức nở, Tín chỉ biết gục đầu xin lỗi. Monika nói:

 

      Anh à ! Giờ con Kathie nó đã có cha rồi, còn em anh khỏi lo, em đã có Bern người thay thế anh gần năm năm nay. Chúc anh luôn được mạnh khỏe.

 

 

Thủy Điền

27-06-2017

 

 

197- Dường Như Là Thế

 

Tín ton…tín ton. Tiếng chuông nhà vang lên, Thúy chạy ra tay vừa mở cửa, tay vừa gạt nước mắt. Chào bố mới về, chào con.

 Hắn hỏi?

-         Thúy nầy ! Có chuyện gì mà con khóc vậy Thúy ?

-         Không có chi đâu bố, con khóc là bởi xem phim mà xúc động thôi.

-         Phim gì mà ghê gớm thật ?

-         Phim nói về gia đình vậy mà, rồi nàng đứng dậy, tắt Ti vi và đi xuống bếp lo cơm chiều cho bố.

 

      Thông lệ, chiều nào cũng thế, sau giờ ôn tập xong, khoảng 16 giờ là Thúy hay ngồi trước màng hình nhỏ vừa đợi bố đi làm về, vừa xem phim tập hàng ngày của đài truyền hình. Bỗng hôm nay có chiếu một tập nói về gia đình cũng khá hay nên nàng cứ chăm chú xem. Nội dung nói về người đàn bà ngoại tình và cuối cùng bỏ cả chồng, lẫn con rồi đi theo người khác. Trước cảnh nhà đơn chiếc, gà trống nuôi con và người đàn bà ấy đang tha hồ sung sướng nằm gọn trong vòng tay người mới . Hai cảnh đời khác biệt đã hiện lên trước mắt nàng. Chính vì thế nàng không sao cầm nổi những giọt nước mắt khi thấy sự đời quá éo le và bội bạc.

 

      Trước đây 18 năm cũng thế, hồi ấy nàng mới lên ba, chưa biết gì, chỉ nghe bố kể sơ sơ về cái chết của mẹ. Và, dần dần lớn lên thì nàng mới rõ ra là chuyện khác. Tuy biết bố đã dối mình, nhưng nàng không bao giờ trách bố. Có lẽ  lúc ấy vì thấy con còn quá nhỏ nên không muốn nói những điều gì.

 

      Câu chuyện rất buồn và khá dài dòng đã rơi vào một căn nhà đang êm ấm giữa đêm mùa hè tháng tám năm 1999. Không biết vì lý gì mà Linh đã bỏ đi, không một lời từ giả, nàng lặng lẽ để lại hắn và con Thúy vừa tròn 3 tuổi giữa canh ba khi hai cha con còn đang ngon giấc . Sáng thức dậy, không thấy vợ, hắn bàng hoàng và chỉ biết ôm đầu gục khóc và cũng chẳng biết tại sao. Nhưng rồi ngày tháng ngược, xuôi, tìm hiểu ra, thì mới hay vợ mình đã và đang có cuộc sống mới nơi phương trời khác.

 

      Sau những giây phút đau thương ấy, hắn trở về với cuộc sống đơn côi, gà trống nuôi con suốt 18 năm dài đăng đẳng . Cái gì rồi cũng quen đi, nỗi nhớ nhung nào cũng sẽ dần tan, con Thúy giờ đã lớn 21 tuổi đang học Đại học, hắn nghĩ số cha con hắn là như thế, nên cũng chẳng còn buồn giận gì nữa cả.

      Không ngờ ! Hôm nay, bổng dưng người ta lại diễn lại khúc phim ấy trên màng hình trước mặt con Thúy làm cho nó phải xúc động, khóc nức nở và nhớ lại câu chuyện cũ, rồi đành vặn hỏi bố đến cùng. “Tại sao nàng mất mẹ ? “ Dù rằng câu hỏi nầy đã khơi lại nỗi đau của bố nhiều lắm.

 

      Thương con, dẫu có muốn giấu giếm đến đâu đi nữa rồi cũng phải nói toạt hết lòng mình.

 

      Thúy nầy ! Bố chỉ nói với con một lần thôi nhé. “ Những gì con đã xem phim ngày hôm nay là trước đây 18 năm gia đình mình cũng dường như là thế.

 

Thủy Điền

25-06-2017

 

 

 

 

 

 

 

 196- Họp Tiểu Hội

 

24 giờ khuya. Vừa về đến nhà, hắn đi ngay vào nhà bếp, mở tủ lạnh lấy chai bia, khui cái “Bụp “ Nốc một hơi và nói: Mình cứ ngỡ hôm nay về nhà gương mặt ; bộ quần áo sẽ toàn trứng gà hay ít nhất là hai con mắt bị bầm xanh. Nhưng không ngờ ! Ông Chủ tịch hôm nay lại còn khen mình nữa chứ. Đả thật là đả.

 

      Bà nhà thức dậy, mon men hỏi ?

-Ông làm gì mà có vẻ vui sướng thế.

-Vâng, có vui mới cười đây, buồn ai cười làm gì phải không bà?

-Ông được bầu làm Chủ tịch sao mà hớn hở thế ?

-Nếu được thì quí, đàng nầy vẫn là hội viên dự khuyết đấy bà ạ.

-Có thế mà cũng vui.

-Tôi vui vì chuyện khác.

-Vậy chuyện gì ?

-Dần hồi bà sẽ rỏ thôi.

- Tôi đi ngủ tiếp đây.

-Ừ.

 

      Cứ vào độ tháng bảy hàng năm, chờ lúc mọi người được nghỉ phép thường niên là người ta tổ chức ngay một đại hội người Việt, chủ đề “Hướng Về Quê Hương “ Với những ngày nầy, năm nào cũng thế, hắn đều có mặt cả như: Phụ giúp Ban tổ chức làm khán đài, tiếp khách và những vấn đề linh tinh. Nói chung là hắn rất nhiệt tình với cộng đồng người Việt nơi hắn đang sinh sống. Để đáp lại tấm chân tình, mọi người ai ai cũng đều thích hắn. Thiết nghĩ nếu hắn có trình độ một chút thì hắn sẽ được bầu vào Ban chấp hành lâu rồi. Nhưng tiếc thay vì trình độ văn hóa quá kém nên hắn vẫn còn lèn xèn phía bên ngoài.

 

      Trước giờ Đại hội khai mạc ông Chủ tịch tìm đến hắn bảo:

-Thịnh nầy ! Đại hội kỳ nầy tôi muốn chú nên có vài lời phát biểu. Chú nghĩ thế nào?

-Không được đâu anh ba ơi.

-Cả chục năm nay chú là người đã hiến dâng công sức lẫn tinh thần cho hội nầy nhiều quá, chẳng lẽ chú cứ ngồi nghe và gật đầu hoài sao ? Chú phải mạnh dạng đóng góp ý kiến với người ta chứ. Biết đâu, ý kiến của chú mọi người thấy đúng, còn sai thì thôi, anh em sửa chữa, góp ý. Ai làm gì chú mà chú sợ.

-Anh ba à, mấy lần trước có người phát biểu xong ra bị chọi trứng gà vào người, thậm chí còn bị đụt xưng cả mặt mày nữa đó anh.

-Tôi biết việc nầy, nhưng đã có thương lượng với họ rồi, tôi bảo; Nếu quá khích thì hội sẽ tan rã thôi và họ đã đồng ý nhượng bộ và hứa với tôi rồi. Chú yên tâm đi, có tôi bên cạnh đây.

-Ừ thế cũng được, em tin anh.

 

      Hắn nghĩ ông Chủ tịch vì thương hắn, động viên nói qua loa vậy thôi, nên hắn chẳng màng tâm. Không ngờ ! Khi Đại hội khai mặc, qua mấy lượt người phát biểu. Hắn hết hồn, khi anh ba giới thiệu tên mình. Hắn đứng dậy lên khán đài mà tứ chi run như cầy sấy. Vài phút sau, hắn lấy lại bình tĩnh và nói:

 

      Thưa quí vị

 

 Thật tình thì tôi cũng chẳng có ý kiến chi, cộng tôi chẳng hiểu gì thời sự nhiều. Nhưng ông Chủ tịch muốn tôi phát biểu thì tôi phải đành và thú thật tôi cũng chưa bao giờ đứng trước một lượng người khá đông Tiểu hội ba bốn chục người như thế nầy nói chuyện bao giờ. Nếu có gì thiếu sót mong quí vị thông cảm và tha thứ.

 

      Tiếng vỗ tay cả hội trường thật to để ủng hộ hắn “Nói đi, nói đi Thịnh “

 

      Kính thưa Quí vị

 

Tôi xin phát biểu vài điểm như sau:

 

1-ở Xã hội nào cũng thế, quốc gia nào cũng thế, đều có bề mặt, bề trái của nó, có cái tốt, cái xấu, cái đáng khen và đáng trách, chứ chưa có ai hoàn toàn cả. Gần nhất là chính bản thân ta cũng vậy. Qua mười bốn năm nay khi tham gia hội và tham dự mười bốn Tiểu hội nầy  với chủ đề hàng năm là “Hướng về quê hương “ Tôi chưa bao giờ nghe quí vị khen ai hoặc Việt nam mình gì cả, mà toàn là chỉ trích và chê bai. Tôi thấy rất là buồn, vì nghĩ rằng chúng ta chưa thật sự công bằng và một khi nhận xét không công bằng tôi thiết nghĩ Tiểu hội của chúng ta không có ý nghĩa.

 

2-Muốn chỉ trích, phê bình người khác ta phải tự hỏi mình đã làm được gì và đóng góp được những gì cho quê hương Việt nam chưa?

 

3-Ta nên nhìn nhận vào sự thật với hai chữ tự do và không tự do khi hàng năm hàng triệu người về Việt nam du lịch, thăm gia đình mà trở ra bình thường trong đó có chính ta và gia đình ta nữa.

 

      Thưa Quí vị

 

Với trình độ giới hạn tôi chỉ phát biểu thế thôi, nếu có gì quá đáng, sai sót, không hài lòng, mong Quí vị bỏ qua và thông cảm như tôi vừa nói ở phần trên.

 

      Vừa vứt lời, hắn thấy sao cả hội trường im ru, không tiếng vỗ tay, không lời chống đối. Hắn nói thầm trong bụng (Khó khăn rồi, nhanh chân chạy ra sau khán đài níu chân anh ba).

 

      May quá, anh ba đứng chờ phía sau chận lại. Thịnh nầy !

-Chú nói rất đúng, nhưng anh xin chú không nên phát biểu những lời ấy ở đây, lần sau cẩn thận, khéo lời một chút nha Thịnh.

-Em đã từ chối lúc đầu mà anh vẫn cứ giới thiệu, giờ anh trách em.

Thôi được, cảm ơn chú.

 

      Thấy ông Chủ tịch không nặng lời, hắn mừng quá và tìm cách vọt về nhà, trên đường ra bãi xe, hắn nhìn xung quanh, nhưng chẳng thấy con ma nào đeo theo chân. Thế là mình thoát nạn. Và, anh ba đã giữ đúng lời hứa.

 

Thủy Điền

14-06-2017

 

 

     

195- Cà- Phê

 

     Vừa dừng xe ngay cổng biên giới Pháp- Bỉ. Ngài Cảnh sát bảo: Xin anh và các người đồng hành trong xe cho chúng tôi xem Hộ chiếu. Hắn vui vẻ móc ví ra và xoay lưng ra phía sau, tất vả hãy trình giấy cho nhân viên Cảnh sát thì mới qua biên giới được. Mọi người ngoan ngoãn đưa giấy tờ tùy thân cần thiết cho hắn và hắn trao tiếp cho ông ta, rồi cùng nhau chờ đợi. Ngỡ kiểm tra xong ông sẽ trả lại và được đi tiếp tục. Ai ngờ ! Khoảng hai mươi phút sau ông mới lù lù ra, chẳng trả lại giấy tờ mà đứng im ru như không có vấn đề gì. Hắn hỏi?

-Thưa ông, giấy tờ chúng tôi ông kiểm tra xong chưa ạ?

Ông trả lời vắn tắt.

-Cà Phê.

 

     Hắn chẳng hiểu ông ta muốn cái gì, mình hỏi một đường, còn ông thì trả lời một nẻo, bực bội. Hắn hỏi tiếp? Nếu hợp lệ thì xin ông cho chúng tôi đi, còn không thì chúng tôi trở lại. Lằng nhằng như thế mất thời gian vô cùng hơn nữa bây giờ trời cũng đã khuya rồi. Ngài Cảnh sát gằn giọng.

-Cà Phê.

-Cà phê gì? Thưa ông.

-Anh chậm tiêu quá ông bạn à.

 

     Phía sau có một người lanh trí hô to. Ổng muốn hố lộ đó, chi cho ổng một trăm France là xong chứ gì. Hắn nghe lời ngưới phía sau và đút gọn vào tay ông một trăm Fance. Ông mở miệng: Đây giấy tờ các anh hợp lệ cả và có thể đi tiếp tục, chúc mọi người bình an, vui vẻ.

 

     Mùa hè, trời nắng đẹp, ấm, cuối tuần hắn chẳng biết làm gì với số thời gian rảnh rổi . Thôi, rủ mấy người bạn láng giềng đi Paris chơi vài ngày hãy về. Nơi đó mình ghé qua quận mười ba, khu China Town ăn hàng một trận cho đả miệng. Thiên hạ đồng ý và cùng nhau bỏ tiền ra mướn chiếc xe rồi nhờ hắn lái đi Paris.

 

     Chiều mười lăm giờ từ Đức khởi hành, dự định là đúng sáu hoặc bảy giờ sáng là sẽ có mặt tại Paris, còn sớm, dễ tìm chỗ đậu xe và ghé ăn hủ tiếu hoặc phở điểm tâm rồi tha hồ đi vòng quanh Paris thăm điện Élysée- Khải hoàn Môn- Tháp Aiffel v...v...một thể.

 

     Khi đi ai cũng ngỡ giấy tờ mình hợp lệ, đến biên giới Pháp họ chỉ kiểm tra sơ và cho đi, chứ chưa ai nghĩ trong đầu sẽ có những chuyện gì khác xãy ra.

 

     Nhưng than ôi, khi đến biên giới thì mới vỡ lẽ ra cái xứ tây nầy cũng chẳng thua kém gì với cái xứ Việt nam ta. Xứ ta nghèo, nhân viên nhà nước lương không đủ sống nên người ta sanh ra tánh xấu, làm mọi cách để kiếm tiền thêm. Biết, chuyện ấy là chuyện không hay, nhưng thỉnh thoảng cũng còn thông cảm và châm chế được. Đàng nầy xứ Âu châu và là nước Pháp giàu nhất, nhì, ba thế giới mà vẫn còn có những vụ việc Cà phê- Thuốc lá vụn vặt nghĩ cũng nực cười. Dù biết nực cười, nhưng họ vẫn làm gì một đêm có năm, bảy xe ngoại quốc đi ngang qua là họ kiếm được cử ăn sáng mà không cần đụng đến số tiền lương cố định và người đi qua đường được dễ dàng hơn mà chẳng mất bao nhiêu tiền.

 

     Trong đời hắn từ lúc ở Việt Nam rồi sang định cư tại Đức hắn chưa bao giờ biết hố lộ hay lo lót cho ai. Thế mà hôm nay hắn bị lọt vào vòng tay ông tây bằng hai chữ " Cà phê " Mà hắn phải nhớ suốt đời và mỗi lần khi đi du lịch sang Pháp hắn đều để một trăm France vào lòng Hộ chiếu.

 

Thủy Điền

04-06-2017

194- Dị Ứng

 

     Trên đường về nhà hắn nói với người yêu. Hélene nầy! Hãy nghe anh nói, khi nghe xong em đừng giận anh nhé Hélene. Có lẽ, anh đến đây là lần cuối đó Hélene à.

-Tại sao? 

-Anh có cảm nhận là như thế.

-Bố mẹ em đối xử với anh không tốt à.

-Không phải thế, ông bà là người rất tốt chứ, anh chưa bao giờ thấy họ đối xử tệ với anh lần nào.

-Thế thì sao không muốn đến nữa, ngộ nghĩnh thật hay là anh không còn yêu em nữa chứ gì.

-Anh lúc nào cũng yêu em, xin đừng nghĩ quẩn.

Vậy thì tại sao?

-Dần hồi em sẽ rõ.

 

     Tình cờ một ngày tháng tám, trong dịp nghỉ hè ở Paris, hai người quen nhau và vài tháng sau qua mấy lần thăm viếng, họ đã yêu nhau. Nhưng tình yêu của họ không được liên tục như bao cặp tình nhân khác, vì người ở tận Lyon, người ở tận Lille khoảng cách cách nhau hơn một ngàn cây số. Tuy xa, nhưng họ sắp xếp thời gian rất trình tự. Có nghĩa là chia nhau mỗi cuối tuần mỗi người phải đến một lần để tránh sự nhàm chán và hao tổn lẫn nhau.

 

     Mấy tháng đầu là như vậy, nhưng về sau thì dường như hắn phải đánh xe đến với nàng nhiều hơn như dự định. Tình cảm càng ngày càng thắm thiết và họ xin phép gia đình hai bên để tiện việc qua lại thăm viếng cho khỏi ngượng ngùng.

 

     Gia đình nàng nói chung là gia đình có học vấn cao. Nàng có ba anh em và người nào cũng có bằng Cử nhân cả. Còn hắn chỉ là một Sinh viên nửa chừng và xin vào hãng làm việc cho đến ngày nay. Nói chung là hắn chẳng có bằng cấp gì trong tay. Chính vì thế mà hắn thường hay tự ái vặt.

 

     Việc gia đình bên nàng người ta có con học cao, hiểu rộng, người ta treo trên tường những bằng cấp ấy là để làm kỷ niệm hay khoe khoang đó là chuyện của người ta. Nhưng với con rễ tương lai trong nhà dù thế nào, nhưng người ta đối xử với mình tốt và không phân biệt là được rồi. Nếu người ta có những ý nghĩ xấu ấy là người ta đã từ chối lâu rồi. Ngược lại hắn không hiểu thế, cứ tự mặc cảm rồi sanh ra những ý nghĩ thật vô cùng đáng trách.

 

     Mỗi lần hắn đến gia đình ông nhạc gia tương lai, khi mời vào bàn ăn là hắn nhìn lên cao trước tiên và nhìn thấy ba bằng cấp treo tòn ten là hắn nổi máu, nuốt hết vô, muốn ra xe đi về ngay và lần nào cũng thế. Cô bạn hắn Hélene ngỡ như hắn đang gặp điều gì bất ổn cứ theo hỏi hắn mãi gần cả năm trời thì hắn mới chịu trả lời.

 

     Té ra, hắn bảo: Hắn không muốn đến nhà ông nhạc gia tương lai nữa. Bởi, hắn dị ứng ba cái bằng cấp treo trên tường nhà.

 

Thủy Điền

01-06-2017

 

   

193- Dường Như Ta Đang Yêu

 

   Ngay đêm đi lễ chùa về hơn một giờ sáng, mệt. Lẽ ra Tân phải đi ngủ vội. Nhưng chàng cứ ngồi và thức trắng cho đến sáng. Bên ly Cà phê và điếu thuốc chàng suy nghĩ mãi và tự hỏi? Không lẽ mình yêu Vân rồi sao ta. Dường như là như vậy.

 

      Bấy lâu nay chàng cứng rắn, tự khắc khe với lòng mình là dù bắt cứ trường hợp nào cũng phải lựa lời từ chối, thời gian dành cho việc học trước cái đã, sau đó muốn tính chuyện gì thì hãy tính. Chuyện tình yêu xen lẫn vào lúc nầy chẳng biết việc học đến bao giờ mới kết thúc. Nói thì nói vậy, mèo nào thấy mỡ chẳng ham.

 

      Tình cờ trong một đêm lễ chùa, khi nhà Sư yêu cầu Tân và Vân làm hai hướng dẫn viên cho khách từ xa đến. Trong nửa thật, nửa đùa chàng vô ý để lọt tình cảm mình vào quả tim bé nhỏ của Vân. Khi khách ra về nàng nán chàng ở lại. Giữa đêm khuya khoắc dưới gốc Đa già nàng thốt tiếng yêu Tân. Trong bối rối chàng chỉ biết im lặng và chẳng nói lời nào. Và, nàng bắt đầu cũng thế, chỉ nhìn nhau và choàng lấy nhau chẳng chút ngượng ngùng. Bao cứng rắn bỗng dưng trở thành mềm yếu khi vòng tay càng lúc, càng được siết chặt hơn.

Trời về khuya, cảnh chùa bắt đầu vắng vẻ.

-Thôi mình cũng về Vân, để các Sư còn nghỉ nữa.

-Vâng, thôi mình về anh.

 

      Đoạn đường từ cổng chùa ra bãi xe không xa mà đôi chân dường như nặng trĩu, cứ trì quảng gần nửa tiếng đồng hồ mới bắt đầu cho máy nổ. Hai người hai hướng trực chỉ về nhà. Vừa chạy mà tâm hồn cứ để đâu đâu "Suýt " Mấy lần nguy hiểm.

 

      Về đến nhà chàng như người nửa say, nửa tỉnh, nằm ngã nghiêng trên bộ Salon, mắt hướng trần nhà. Chết mất, bao cố gắng giờ tan theo mây khói. Mà Vân cũng dễ thương và đáng được mình thương, yêu lắm chứ. Nhưng vội vàng quá khi nàng đã thốt tiếng yêu. Từ chối có nghĩa là mình phụ lòng Vân một cách ác độc. Còn chấp nhận thì................!

 

      Khó quá, khi tình yêu đến bất chợt. Thôi thì cứ lặng câm, không chấp nhận, không từ chối. Cứ để nó lăn tròn theo thời gian. Có lẽ nàng sẽ hiểu và không giận. Hy vọng tình bạn vẫn mãi mãi bền lâu.

 

      Và, đêm nay khi về đến nhà chắc Vân chỉ nghĩ về một hướng. Rằng, nàng đã yêu và người ấy cũng đã yêu mình.

 

      Tội nghiệp nàng quá.......và dường như ta cũng đang yêu.

 

Thủy Điền

24-05-2017

 

192- Chú Đạo Ổi

 

 

 Hơn hai tháng nay, cuối tuần nào mấy nhà lân cận cũng thấy thằng Khánh vác về nhà hai Carton nước ổi. Ai cũng ngạc nhiên và hỏi?

-         Chú Khánh, bộ dạo nầy muốn làm ông Đạo Ổi sao mà toàn uống nước ổi không vậy chú ? Còn bia và rượu mạnh bỏ cho ai.

-         Đâu có, thì trộn qua trộn lại cho vui. Bia, rượu mãi oải quá.

 

     Kể từ ngày sang Đức cho đến nay, nếu đem ra mà so thì thú thật chưa có ai làm việc nhiều giờ bằng Khánh. Không biết Khánh làm để phục vụ vào trường hợp gì thì cũng chẳng ai biết cả. Bởi, Khánh chưa bao giờ thố lộ. Phải nói Khánh cừ thật. Sáng sáu giờ thức dậy tới hãng làm việc cho đến bốn giờ chiều về, ăn vội, chạy đến MacDonalds làm suốt đến hai mươi bốn giờ khuya, về nhà ăn gói Mì gói, ngủ, sáng thức dậy đi làm tiếp, cứ thế từ thứ hai đến thứ bảy. Và, trọn ngày Chúa nhật là Khánh có mặt tại nhà hành Hong Kong từ mười giờ sáng cho đến hai mươi ba  giờ đêm. (Nói chung trừ những lúc đi ngủ, Khánh chẳng có một giờ nào rảnh rang như mọi người.

 

     Ai cũng bảo: Có lẽ, thằng Khánh nầy định cất nhà hay mua nhà gì đây. Trong nghi vấn, người ta cứ chờ mãi xem anh chàng nầy sẽ bao giờ thực hiện. Nhưng tiếc thay, cả hai mươi mấy năm nay có thấy hắn cất, mua cái gì đâu- rồi bắt đầu chuyền tai nói nhỏ, vậy là hắn giàu lắm, có một khối tiền.

 

     Bây giờ Khánh đã bốn mươi chín tuổi. Qua hai mươi tám năm làm việc, Khánh tự thấy sức khỏe mình yếu dần, nay bệnh, mai đau cứ đến thăm Bác sĩ liên tục mà vẫn không thấy thuyên giảm và Khánh đang tìm cách ngăn ngừa để khỏi xảy ra những điều đáng tiếc.

 

     Một hôm Khánh đọc được một bài văn của một Tác giả Việt ở Úc châu viết. Ông ta viết một bài truyện ngắn tản mạn vui, nửa đùa, nửa thật. Bài văn có một đoạn ngắn“ Nếu ai muốn khỏi bệnh và sống lâu thì hãy nên chú ý những điều kinh nghiệm của những nhà nghiên cứu về đời sống trên thế giới như sau „:

1-    Theo người Đại Hàn mỗi ngày nên ngậm mười gram sâm Cao ly thì năm chục năm mới đến Bác sĩ một lần.

2-    Theo người Ấn Độ mỗi ngày chỉ cần uống một lít nước ổi thì mười  năm mới đến Bác sĩ một lần.

3-    Còn người Việt Nam thì đơn giản hơn, chỉ cần uống một cốc thuốc rầy là khỏi đến Bác sĩ luôn.

 

     Trong câu chuyện nửa đùa, nửa có lý. Khánh thấy ông nhà văn nầy nói nghe cũng được tai. Và, Khánh bắt đầu làm theo. Nhưng nếu thực hành như điều một thì tốn kém và khó ngậm vì đắng. Nên anh ta chọn điều hai vừa túi tiền và dễ thực hiện.

 

     Khi quyết định xong, Khánh chạy ra cửa hàng Việt nam tận trung tâm thành phố và đặt hàng. Ông chủ nhận, theo lịch trình cứ thế đúng cuối tuần là Khánh mang về nhà uống thay nước.

 

     Ròng rã hơn hai tháng nay, ngỡ mình bớt bệnh và trong tương lai sẽ hết bệnh. Nhưng rồi bao hy vọng đã tan tành theo mây khói. Cơn bệnh không bớt đi phần nào mà càng lúc càng tăng thêm và còn bị xóm giềng ghẹo trêu là ông Đạo ổi. Trong thất vọng, Khánh tìm đến một Bác sĩ chuyên khoa để tìm hỏi căn bệnh gầy còm của mình.

 

   Ngỡ Bác sĩ nói điều gì. Ai ngờ ! Bác sĩ bảo: Anh về bỏ bớt hai ca và ăn ngủ đầy đủ thì sẽ hết ngay. Khỏi cần mỗi cuối tuần phải ra tiệm Á châu vác è ạch mấy kết nước ổi về cho mệt. Và, xin nói thêm nếu anh không nhường bớt công việc cho người khác, dù anh có ngậm một ngàn tấn Sâm hay uống một vườn ổi thì cũng chẳng có tác dụng gì.

 

Thủy Điền

21-05-2017

 

 

 

 

191- Đời Tôi Luôn Có Thánh Nhân

 

    Giữa tiệc nhậu hắn đứng dậy, đỏ mặt, vỗ bàn "Các bác im đi " Sống mà không biết Trời cao, Phật độ, Chúa cứu sinh thì hãy ra Nghĩa địa mà sống. Đừng nói thêm nữa. Mọi người ngồi trừng mắt nhìn hắn rồi im lặng nhậu tiếp cho đến khi tàn tiệc.

 

     Sau chiến tranh, hắn trở về với đôi nạng gỗ. Tuy, một phần thân thể nầy đã hiến dâng cho quê hương tổ quốc, nhưng lòng hắn rất vui khi nhìn thấy đất đất nước đã thanh bình liền về một cõi. Cảnh chết chóc không còn nữa, cảnh mẹ xa con, cảnh vợ xa chồng, cảnh con cái thiếu bóng cha, tiếng khóc thê lương ngày nào không còn chảy dài trên mảnh đất Việt hình chữ S.

 

    Trong làng, từ lúc hắn đi biết bao người không trở lại, mà dẫu trở lại thì cũng chẳng vẹn nguyên. Hắn là người may mắn còn nhìn lại quê hương sau mười năm lên đường chiến đấu. Trong gian khổ hắn từng trải qua những thăng trầm của cuộc chiến. Có lúc hắn nghĩ đời mình sẽ bị vùi sâu nơi phương nào có lẽ. Liên tiếp và liên tiếp nỗi bi quan. Hắn thầm bảo, muốn chống chọi với cuộc sống nầy chỉ còn cách nhờ Trời cao, Phật, Chúa độ trì thì còn hy vọng. Ngoài ra không còn cách nào khác. Chính vì thế, đêm nào hắn cũng luôn nguyện cầu, lâm bâm luôn miệng như một kẻ điên cuồng.

 

     Một đêm bị càn quét, đồng đội, anh em đã hy sinh. Riêng hắn dù hai chân đẩm máu, nhưng cố lết vào chánh điện một ngôi chùa, nấp dưới chân Đức Phật chờ trời sáng được các Sư ông giúp đỡ băng bó và giấu kín cho đến khi lành bệnh rồi trở về đơn vị. Qua những ngày nguy hiểm ấy, hắn được cứu sống và càng tin tưởng hơn. Hắn tâm nguyện, sống không hướng về Trời , Phật là hắn đã chết mất rồi, chớ đừng nói chuyện được nhìn lại quê hương. Mấy lần hắn kể cho bao người nghe, hầu cứu rổi phần nào về mặt tinh thần và những lời ấy đều bị gạt ngang và còn lôi ra khiển trách khi thiên hạ đang thực thi "Chủ nghĩa Vô Thần " Lòng rất buồn, oán hận những lời chê trách ấy, nhưng giữa rừng người hắn là kẻ thế cô và đành câm lặng.

 

     Khi chiến tranh kết thúc, hắn được giải ngủ và trở về nhà với chức vụ cuối cùng là thương binh với đồng lương khiêm nhượng, hắn phải nhờ vả vào gia đình. Hàng ngày hắn thường hay đây đó để nhìn lại những hình ảnh xa xưa mà hắn một thời cùng bè bạn sớm hôm nơi đầu sông, vách núi.

 

     Nhân ngày cổ một người thân, hắn được mời sang đá chén. Đang nhậu ngon lành, tình anh em thắm thiết. Bổng dưng có mấy tay từ làng khác cũng được mời sang thốt lên những lời trái ngược đối với hắn. Đó là: Chủ nghĩa vô thần. Lúc đầu hắn bỏ yên. Kệ, ai nói gì nói, không phải chuyện của mình. Nhưng dần lâu càng đi sâu vào vấn đề, hắn không thể cầm lòng và đứng dậy quát cho mấy lão một trận tơi bời. Ngỡ mấy lão chống trả lại. Ai ngờ! Mấy lão trừng mắt và lặng thinh rồi tiếp tục nhậu tiếp cho đến khi tàn mâm cổ.

 

     Và, kể từ đó hắn không còn nghe người ta nói đến bốn chữ dị hợm ấy nữa.  Bằng chứng là đã bao năm nay người ta đã nhìn thấy rõ Trời, Phật, Chúa là những Thánh nhân luôn kề cận con người và những ý nghĩ của hắn dường như mọi người đều chấp nhận.

 

Thủy Điền

19-05-2017

 

 

190- Những Quả Nhàu Già

 

   Sau tết Nguyên đán đúng một tuần. Hôm nay là ngày hạ nêu, mấy ông bố trẻ trong thôn xúm nhau nhậu một trận rồi cùng bàn tán: Hôm tết sang nhà thằng sáu Mận xông đất thấy một điều rất lạ kỳ. Thuở thời tết người ta cúng mâm ngũ quả hoặc là những thứ trái cây khác mà xưa nay ông bà mình hay cúng. Ngược lại hắn không làm thế mà chỉ cúng toàn những quả Nhàu già mà hắn bẻ sau vườn. Thế mà vợ và ông Nhạc gia hắn chẳng nói lời nào  mới hay chứ.

 

     Thằng sáu Mận tên thật là Anh Tuấn, vì hắn thích ăn quả mận nên người ta đặt cho hắn cái biệt danh chết là sáu Mận. Hắn là dân gốc gác Gò vấp- thành phố Hồ Chí Minh. Nói dân thành phố nghe xôm tụ chớ hắn sống trong một hẻm nhỏ rất nghèo nàn. Gia đình hắn sống bằng nghề vác mướn, học hành thì ít. Tuy nghèo, nhưng hắn luôn mang hoài bảo là một ngày nào đó hắn sẽ trở thành một ông nhà giàu to tát.

 

     Một hôm trong tiệc nhậu vĩa hè, hắn được một người bạn rủ rê về miền tây làm đồng mướn, cơm nước và chỗ ở đều có chủ lo hết. Nghe xong, hắn khoái quá và đi theo bạn. Thật đúng thế, hắn được một gia đình nông dân tương đối khá, nhận hắn làm việc cho nhà ông. Cơm nước ông lo hết, tiền lương cũng giống như người khác, nhưng tối về ở nhà trọ.

 

     Qua nhiều năm làm việc ông chủ thấy hắn hiền, làm việc tốt hơn nữa hắn có cái mả đẹp trai nên cũng được nhiều cô trong làng quí mến. Và, cuối cùng hắn được cô con gái ông chủ ngã lòng yêu thương. Hai người yêu nhau gần một năm và được ông chủ gã con gái. Sau khi cưới nhau xong, hắn được ông chủ cho ba công đất có hoa lợi sẵn để tự sinh sống. Buồn ngủ gặp chiếu manh, hắn thừa cơ hội trồng trọt thêm đủ thứ và nuôi rất nhiều gia súc nên đới sống gia đình hắn càng ngày, càng ăn nên, làm ra khá khỉnh thấy rõ.

 

     Hắn có bản tình tin dị đoan và hay nghe ngóng thiên hạ nói những điều gì nếu thấy hay là để trong đầu rồi làm theo. Ngày xưa còn nhỏ hắn thường nghe mấy bọn nhậu nói dần lân có một câu mà hắn cứ giữ mãi trong tâm trí và hứa sẽ thực hiện khi mình có cơ hội.

 

     Sau vườn nhà hắn được trồng đủ thứ các trái cây miền tây nam bộ như: Lôm chôm , Vú sữa, Xoài, Mận , Chanh, Bưởi v...v...Nhưng đặc biệt chỉ thiếu loại cây Nhàu. Vì thích trồng cây Nhàu nên hắn đi khắp xóm để xin được giống và mang về nhà trồng. Chỉ trong vòng hai năm sau vườn nhà hắn có cả chục cây Nhàu thật tốt và quả rất nhiều. Có mấy lần người ta đến mua để làm trà Nhàu uống trị bệnh, nhưng hắn nhất quyết không bán dù giá cả bao nhiêu. Hắn nghĩ bán nó đi là bán sự may mắn của hắn.

 

     Mấy năm vào ngày tết hắn không có Nhàu để cúng là trong dạ hắn cũng chẳng mấy được vui. Năm nay vườn nhà có quá nhiều quả Nhàu hắn lựa toàn những quả già bẻ mang vào nhà cúng từ trước đến sau. Nghĩa là nơi nào có bàn thờ là hắn đều cúng cả và không cúng những thứ khác. Vợ hắn bất bình, nhưng hắn cứ cương quyết. Bố vợ hắn cũng chẳng mấy hài lòng khi thấy hắn làm toàn những điều trái ngược phong tục tập quán xưa nay, nhưng cũng phải đành chịu thua hắn.

 

     Đúng mùng một tết có nhiều người đến nhà hắn xông đất, ai ai cũng  đều ngạc nhiên và hỏi? Hắn chỉ trả lời võn vẹn: Cúng để vái van đừng bệnh tật vậy mà, hàng ngày thay vì mình nấu nó với nước để uống thế trà, nhưng làm sao mình uống cho nổi chứ, bằng cách cúng cho ông bà chứng dám lòng mình còn tốt hơn. Khi nghe hắn nói mọi người chỉ biết lặng thinh mà chẳng hiểu hắn nghĩ và muốn điều gì.

 

     Khi tết xong, Nhạc gia hắn cho mời hắn sang để hỏi rõ tường tận. Đúng ra thì hắn chẳng nói điều nầy với ai kể cả vợ hắn. Nhưng gì nể tình cha vợ người mà hắn mang ơn suốt cả một đời nên hắn phải đành thú thật.

 

     Thưa ba. con cúng quả Nhàu già là ý con muốn trở thành một nhà giàu trong nay mai đó ba. Ông già té ngữa ra cười. Thế là đã hiểu "Nhàu già là Nhà giàu " Chí lý. Một con người có tâm quyết thì rất được đáng khen. Vậy năm sau ba cũng sẽ làm như con và khuyến khích cả làng nầy đều làm như thế..

 

Thủy Điền

15-05-2017

 

 

189- Nghề Đào Rác   

 

   Mặt trời vừa đứng bóng, hắn bảo: Thôi, hôm nay có bao nhiêu ăn bao nhiêu, nghỉ xã hơi một chút, hút điếu thuốc, hớp bụng nước rồi đào tiếp, cứ như mấy lần trước tham công, tiếc việc về bị đau bụng hoài.

 

      Vì nhà nghèo, cơm không đủ no, áo cũng không đủ ấm, gia đình chẳng có dư xu nào để đi học, nên từ lúc năm tuổi là hắn bắt đầu theo cha đi đào rác để kiếm sống. Hồi đầu hắn chỉ đi theo sau để lượm lặt những bao mũ cũ phụ cha và dần dần lớn lên ông sắm cho cái Bồ cào nhỏ để tập bươi, móc lần lần, rồi ngày tháng đi qua hắn đã trở thành chuyên nghiệp và kiêm luôn ông chủ một bãi rác nhỏ.

 

      Mỗi ngày hắn ra bãi cùng cha thật sớm để chận trước những xe rác từ các nơi đỗ về để lụm lặt một số hàng có thể bán được khá tiền và sau khi không còn xe rác nữa hai cha con hắn bắt đầu đi xa hơn để đào tiếp.

 

      Công việc đào rác phải nói rất mệt nhọc, luôn luôn phải dùng sức để đào. Kết quả tùy thuộc vào rủi , may. Có hôm trúng mánh đào được rất nhiều hàng như: Nhôm và sắt vụn. Có hôm chỉ được một ít bao mũ cũ. Bởi thế ngày nào làm được nhiều thì phải để dành cho những ngày thất bát. Nói chung nghề đào rác của hắn rủi thì nhiều, may thì ít, nên cuộc sống cứ vất vả mãi. Nhưng vì quen từ nhỏ nên hắn không thể bỏ mà đi làm việc khác được.

 

      Có những lúc tìm được khá nhiều hàng, vì tham công, tiếc việc, hắn quên mất giấc nghỉ trưa và ngược lại với những lúc không tìm được hàng hắn cố gắng hết sức để được lợi tức trong ngày rồi cũng quên ăn luôn, chờ cho đến khi nào xong việc thì mới ăn. Nên khi ăn xong hắn thường hay bị trở bụng và phải nằm ngoài bãi một hồi lâu mới trở lại bình thường.

 

      Sau mười mấy năm làm nghề đào rác, cha hắn qua đời. Hắn nhiều lần định nghỉ và đi tìm việc khác để sống. Nhưng rồi nói thì nói, ngày mai thức dậy hắn cũng vác Bồ cào đi đào tiếp, cứ thế và cứ thế- thời gian qua nhanh thật, mới đây mà hắn đã ba mươi sáu tuổi đời, chẳng vợ con, ngày hai buổi gắn bó với cái Sở rác to lớn nầy.

 

      Một hôm đang làm quá mệt mà cũng chẳng có kết quả gì, hắn nghĩ hôm nay xem như đói rồi. Dù biết sẽ đói nhưng hắn suy nghĩ. Kệ, tới đâu thì tới, ngưng việc ngồi giải lao một tí, hút vài điếu thuốc, uống ly nước rồi làm tiếp còn như kiểu nầy chắc có ngày sẽ vùi thây nơi đống rác hoang tàn nầy quá.

 

      Có nhiều đêm hắn tự hỏi ? Chẳng lẽ trời sinh mình ra- lớn lên chỉ biết làm cái nghề đào rác nầy để sống sao ta. Khốn nạn thật. Và, số hắn dường như là như thế.

 

Thủy Điền

08-05-2017

 

188- Cha Mẹ Khó Khăn, Con Sanh Dối Lòng

 

   Bà cứ thắc mắc mãi. Tôi và ông đâu phải là kẻ bị xã hội trách chê, mà thằng Quãng nhà mình cũng đâu đến nổi. Thế thì tại sao? Kể từ lúc lên mười cho đến bây giờ nó lại sanh cái bệnh nói dối cha mẹ thường xuyên chứ. Thật khó hiểu và bực bội vô cùng.

 

      Bà thì sống rất thanh bạch đàng hoàng, mẩu mực, đâu ra đó biết kẻ dưới, người trên tình láng giềng, thân thuộc. Luôn coi trời phật là đấng anh linh, rằm nào bà cũng đi chùa cúng phật, bố thí người nghèo, dạy con cũng thế. Còn ông thì một một, hai hai chân thành, hiền hậu, luôn mang tâm đạo rộng lòng ra giúp kẻ thế cô. Cả hai lúc nào cũng được những người xung quanh quí mến,

 

      Đặc biệt lối dạy con trong gia đình cũng vậy, tất cả phải ngăn nấp, nề nếp, quí trọng người khác là điều trước tiên.

 

      Ông thì mãi lo tấp nập với cuộc sống hàng ngày, ngoài chuyện gia đình dạy dỗ con cái dường như để bà quán triệt tất cả. Luôn cứ sợ con hư nên bà rất khó khăn, cái gì bà cũng rầy la, rào đoán trước, hầu ngăn ngừa phòng khi chúng làm những điều tổn hại đến bản thân và người khác.

 

      Thuở nhỏ, chúng nghe lời bà răng rắc, bà bảo sao chúng cũng làm thế, trong sinh hoạt có chuyện gì vui, buồn đều kể cho mẹ nghe tất, mong được mẹ khen hay bênh vực. Nhưng từ lúc càng lớn khôn - biết suy nghĩ cũng là lúc bà càng khó khăn hơn. Chính vì lẽ ấy, chúng bắt đầu nói dối dần vì biết khi nói ra điều gì mẹ ưng lòng thì thôi, còn không bà sẽ quát cho một trận tơi bời. Những khi bị mẹ mắng chúng thấy tự mắc cỡ trong lòng và với bè bạn chúng càng lại thấy xấu hổ hơn. Ngày lại ngày, mỗi câu chuyện, mỗi vấn đề dường như chúng ém nhẹm luôn để cho mẹ được yên tâm và không mắng nữa.

 

      Một hôm vì ham vui, chúng bạn rủ nhau ra đồng đào Chuột, bắt Dế bỏ học, về trễ. Chúng dối mẹ cô giáo bảo ở lại học bù. Bà ở nhà đâu có biết và vẫn tin là như thế. Ít hôm sau gặp cô giáo giữa đường, cô giáo hỏi? Thì té ra mọi chuyện.

 

      Và, tiếp theo. Chiều về, muốn đi chơi cùng bè bạn mà không dám xin, sợ mẹ từ chối,  đành lừa đi thăm bạn bệnh. Ai ngờ ! Giữa đêm khuya đang ngon giấc, Công an đến nhà gõ cửa, báo bị tai nạn và hiện đang được chữa trị tại nhà thương. Tiếp nối- tiếp nối biết bao chuyện lừa dối, chúng làm cho ông bà phải đau đầu sau những cơn sóng gió.

 

      Qua bấy lần trên bà luôn tự hỏi ? Thế mà không tự thoát cũng như không có những câu trả lời thích đáng. Tại sao nguyên nhân dẫn đến những tình trạng khó hiều vô cùng?

 

      Với những hành động trên bà càng lúc càng gắt gao hơn, hầu muốn giảm đi được những tệ trạng ấy. Nhưng rồi kết quả vẫn là con số không. Cuối cùng chỉ biết lê la than phận, may mà ai giúp được điều gì.

 

      Thiên hạ bên ngoài vì thương ông bà mà nói, không biết ông bà có hiểu hay là không chịu hiểu „Bởi khó khăn quá nên chúng mới dối lòng „Đấy thôi.

 

Thủy Điền

07-05-2017

 

 

 

 

 

 

 

187- Chậu Cá Lia Thia

 

 

    Sau chín năm, sáu tháng hắn được trở về đoàn tụ gia đình và cũng chẳng biết làm gì ngoài việc ăn, ngủ để dưỡng sức. Hàng ngày hắn thường hay ngắm ngía cái chậu cá Lia thia của thằng Mẫn rồi bảo: Mẫn à.

-         Thả mấy con cá trong chậu đi con, tội nghiệp chúng nó quá, chúng nó tội gì mà nhốt qua năm nầy, tháng nọ. Thôi cho nó về với sông, với bè bạn thiên nhiên để được đoàn tụ chung sống thảnh thơi. Có được không con ?

-         Không được đâu bố à, con đã dầy công nuôi chúng nó gần hai năm nay rồi, con thương và quí chúng nó vô cùng.

-         Biết, con đã mến tay, mến chân và là nguồn vui thú sau những giờ học tập. Nhưng bố khuyên con hãy thả nó đi Mẫn. Nghe lời bố đi con.

 

      Thấy thằng Mẫn mang ra hồ thả ba con cá Lia thia thật đẹp, lòng hắn nửa vui, nửa buồn vì nghĩ rằng chúng nó cũng như mình vừa ra khỏi trại và buồn lúc nhìn thằng Mẫn chẳng mấy vì vui khi mất đi tình bạn hàng ngày suốt mấy năm qua.

 

      Hắn hồi ba mươi sáu tuổi là một ông cốm to, từng đeo trên cổ áo hai bông mai bạc, từng giữ chức Trung đoàn trưởng, từng chỉ huy cả ngàn người, tiếng hét của hắn biết bao người khiếp sợ. Nhưng sau ngày đất nước thống nhất hắn được triệu đi Du lịch xa, không thời hạn gần mười năm trời, khi trở về hắn là một kẻ khờ câm, ít nói, lầm lì, dường như thói quen muốn tránh né những người xung quanh. Lòng hắn luôn luôn lúc nào cũng sợ ai rình rập bên mình.

 

      Lúc hắn được mời đi, vợ hắn chỉ ba ba tuổi, còn thằng Mẫn mới lên hai, mà giờ nó đã gần mười hai tuổi rồi. Khi hắn về, hắn không nhìn ra thằng Mẫn và thằng Mẫn cũng chẳng biết hắn là bố của mình. Hai kẻ lạ hòa nhau gần mấy tháng trời mới rõ ra tình bố con.

 

      Một hôm, thừa cơ hội, hai bố con khi thân thiện bên nhau, hắn mới dám mở lời khuyên thằng Mẫn và giải thích rất cặn kẽ về số phận con cá. Rồi kể sơ sơ về số phận của mình. Sau khi kể và giải thích xong, hắn đem so sánh giữa hắn và mấy con cá thì thằng Mẫn mới chịu mang con cá ra hồ để thả. Lúc Mẫn về, hắn gọi Mẫn lại gần hắn một lần nữa để bày tỏ nốt lòng mình. Rằng ! Bố rất vui khi con đã trả nó về với thiên nhiên, trả nó về với thực tại, tự do và cũng rất đau buồn khi nhìn thấy con mỗi ngày sau khi đi học về không còn nhìn thấy mấy người bạn của mình gần hai năm trời bên nhau.Vừa nói xong gần hết câu, hắn cảm động, tự dưng nước mắt hắn bắt đầu rơi… rơi dài trên má. Hắn nghẹn lời và không nói nữa.

 

      Cũng may, là thằng Mẫn đã lớn, hiểu được hắn, khi nghe hắn kể và so sánh giữa hai cuộc đời gần như giống nhau và sau mấy ngày buồn bả ấy Mẫn trở lại bình thường, không một chút gì lưu luyến về cái bể cá Lia thia nữa và luôn tỏ vẻ yêu thương bố mình hơn. Khi chàng hiểu ra ông là người đã chịu nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Và, kẻ đã làm điều ấy cũng giống như chính  mình đang nhốt mấy con cá Lia thia xinh đẹp gần hai năm trời trong bể. Chỉ có khách hơn một điều là Mẫn luôn thương yêu những con cá và cho ăn, thay nước rất đầy đủ nên con cá dù bị nhốt, nhưng vẫn mập mạp và không chết. Còn riêng bố mình cũng giống như con cá ấy và mọi điều dường như ngược lại. Thật đáng tiếc cho một kiếp người.

 

Thủy Điền

 

07-05-2017

 

186- Mười Năm Tái Ngộ 

 

   Khi lão Tạch vừa lái xe ra khỏi cổng nhà, Dartmann đứng nhìn theo chăm chú. Tự hỏi? Tại sao Tạch lại làm thế mà chẳng nói với mình lời nào, câu chuyện mười năm nay hắn vẫn giữ yên phăng phắc. Có lẽ……..! Nhưng không sao. Té ra Tạch là một con người nhân đức, vô lượng.

 

     Dartmann là một nông dân, anh ta có một trang trại nuôi gà khá lớn cả ba đời nay từ lúc ông bà nuôi bằng chuồng rơm và bây giờ toàn là nuôi bằng máy Công nghệ. Năm 1979 khi vừa đến Đức công việc đầu tiên của Tạch là ở trang trại nầy với nhiệm vụ là mỗi ngày theo dõi tình trạng sức khỏe của mấy con gà, sáng sớm phải đi một vòng xem anh nào ngấc ngư, cú rũ thì bắt bỏ sang chuồng riêng có người chữa trị và chiều cũng thế phải đi qua một vòng nữa. Chỉ trong hai vòng đi theo dõi là Tạch mất hết một ngày làm việc.

 

     Trang trại cũng chẳng có đông người làm việc, nên Dartmann thường hay cận kề những công nhân và xem những người nầy như anh em ruột. Có nghĩa ai muốn làm gì thì làm, tùy ý. Dartmann chưa hề ngó ngàng hay để ý đến. Miển công việc của mọi người hoàn thành thì thôi.

 

     Vì tiếp cận với thú vật hàng ngày, nên Tạch cũng có lòng thương yêu chúng và anh nghĩ ra là nuôi một con chó Yarsi để khi làm việc về có mà hủ hỉ cho vui. Thường thì tuổi thọ con chó cũng khoảng 13-15 năm. Nhưng không may con Yarsi của Tạch mới tám năm là đã qua đời sau một cơn bệnh nặng.

 

     Tiếc thương con Yarsi, mến tay, mến chân tám năm bên cạnh, Tạch không đành bỏ nó và mướn người ta hỏa táng, lấy cốt đem về nhà. Hắn suy nghĩ nhiều đêm, nếu mang đến Nghĩa địa chôn cất thì phải mất rất nhiều tiền hơn nữa không được gần gủi con Yarsi thường xuyên. Và, chỉ có cách là mang đến trang trại của Dartmann chôn lén dưới gốc cây cổ thụ nơi hắn thường hay đậu chiếc xe để được hàng ngày nhìn thấy nó và cúng cho nó một ít thức ăn cho lòng nó khỏi đói và lạnh.

 

     Nghĩ xong, Tạch xem lịch, chọn ngày tốt và mang cốt Yarsi đến gốc cây cổ thụ trong trang trại Dartmann chôn, trong lặng lẽ và không ai hề biết . Ròng rã gần mười năm trời ngày nào hắn cũng cúng đều đặn và khi cúng xong, hắn tẩu tán thức ăn ăn cũ của ngày hôm trước ngay, tránh Dartmann thấy là hỏng hết.

 

     Sau mười hai năm làm việc, cơ sở của Dartmann đóng cửa và Tạch cũng mất việc, nên phải tìm việc khác và con Yarsi từ đó phải đành nằm lại một mình nơi gốc cây cổ thụ cô đơn và cũng chẳng có gì ăn hàng ngày. Thật là tội nghiệp vô cùng. Không phải Tạch bỏ phế, nhưng vì sợ bị lộ, sợ Dartmann biết được bảo mang đi nơi khác.

 

Theo dòng đời vì công ăn, việc làm, Tạch lưu lạc nơi nầy, nơi khác gần mười năm trời. Sự giao tiếp giữa hắn và Dartmann dường như bị cắt đứt.

 

     Một hôm Tạch trở về chốn cũ và ghé thăm Dartmann, người bạn- ông chủ ngày xưa giờ đã gìa theo thời gian. Đang ngồi ăn trưa cùng mọi người. Tạch không còn gì phải giấu giếm nữa, phải đành nói thật cho mọi người biết, dù có ra sao thì ra. Rằng hắn về đây trước là để thăm gia đình Dartmann sau là thăm con Yarsi và xin phép Dartmann cho hắn cúng con Yarki một ít thức ăn. Giữa bàn, Dartmann và mọi người ai cũng chưng hửng. Tại sao lại có chuyện nầy?  Rồi tất cả đành lặng im như đang ngưỡng về con Yarsi và cũng chẳng biết nói thế nào về câu chuyện vừa qua.

 

     Khi chia tay, Tạch về, Dartmann đứng nhìn theo tiễn bạn mà cảm phục tấm lòng nhân đức của một con người và tự hứa trong lòng là ông sẽ tiếp tục những gì mà ngày xưa Tạch đã dành cho con Yarsi.

 

Thủy Điền

03-05-2017

 

 

 

 

 

 185- Tháng Tư Nào Năm Xưa

 

   Hôm nay thứ bảy, mới sáng sớm mà trời đã mưa như thác đỗ. Thường thì ở Đức vào đầu tháng năm chỉ còn sót lại những cơn mưa nhỏ để chuyễn mùa. Đang ngồi uống Cà- Phê với bà xã, nhìn qua song cửa thấy một người đàn ông mặt áo mưa trùm phủ, đi thẳng vào nhà. Ngỡ ai, té ra là ông bạn nhà thơ Bửu Tùng của tôi. Lật đật mở cửa- vào đi Tùng.

 

- Đi đâu mà mưa gió cực thế, sao không chờ hết mưa rồi sang có khỏe hơn không.

- Cũng định vậy.

-Uống Cà- Phê nhé.

Ừ.

- Hỏi thật sao nay đến sớm thế ?

- Buồn mầy ơi.

- Tôi đâm hơi Tùng. Bộ bà xã đòi ly dị sao mà sáng bỏ nhà sang tao sớm thế mà còn bảo là buồn.

- Mầy quên ngày mai là ngày gì sao ?

- Xin lỗi mầy. Chắc mầy tưởng có mình mầy biết buồn, còn mấy triệu người ly hương và tám chục triệu dân Việt Nam vui lắm sao?

- Tao đâu nói thế. Điền nầy ! Mau nhỉ, mới đây đã bốn mươi hai năm rồi, nhớ hồi nào anh em mình mười tám, hai mươi. Bây giờ cộng trừ sáu chục cả. Ngỡ mấy mươi năm hòa bình, đất nước mình êm ả, kẻ ly hương còn có ngày trở về, xã hội sống trong cảnh thanh bình, an lạc ai ngờ ! Xa quê thì vẫn mãi cứ xa, ở quê nhà thì tin tức phơi đầy trên mạng, báo chí, hình ảnh cấu xé, rối ben như chùm giẻ rách, tranh nhau từng tất đất, tiền bạc chia rẽ lẫn nhau. Tệ trạng xã hôi càng ngày, càng lan tràn khắp chốn, mấy ngày nay càng nghĩ, càng buồn không chịu nổi, trong đến gần ngày nầy sang tâm sự với mầy cho vơi đi phần nào.

 

Thấy Bửu Tùng là người cũng có chút lòng với quê hương đất nước thật cũng đáng khen và đáng phục. Bởi xưa nay hắn lúc nào cũng thế. Ăn cơm nhà mà lo chuyện người ta nên cái nghèo cứ đeo đuỗi ngần mấy chục năm nay mà vẫn không buông. Cũng thời đi vượt biên như thiên hạ, cũng thời hai vợ chồng ngày nào cũng đi làm như mọi người, mà ai ai cũng cất nhà riêng, xe đẹp, sống cuộc sống vinh hoa còn hắn thì ở nhà mướn, đi chiếc xe thời Hitler chưa làm Thủ lãnh Đức Quốc Xã chẳng hiểu hắn thế nào. Nhưng được một cái không riêng cá nhân tôi mà tất cả những người khác cũng thế, hắn rất tốt và thương yêu vô cùng, nên cả ngàn người Việt sống ở tỉnh nầy từ đứa trẻ cho đến người già đều qúi hắn. Khi nghe nói đến nhà thơ Bửu Tùng là chỉ có biết khen mà thôi. Ngày xưa quen- bạn cho đến bây giờ hắn thỉnh thoảng cũng hay làm thơ- thơ tình rất hay, nhưng nhất định không gởi và nhờ ai đăng cả, chỉ âm thầm tặng vài người quen biết mà thôi.

 

Nói chung vào những ngày nầy, ngày Lịch sử sang trang, ngày u buồn nhất của người dân Việt và nhất là những người Việt tha hương. Không riêng bạn tôi Bửu Tùng mà cả triệu người đang ngậm ngùi, khóc thương cho nước Việt, cho dân tộc Việt nam cứ thăng trầm trong nỗi khổ khi ngước lên vách tường nhìn tờ lịch cũ.

 

 

Ngày ba mươi tháng tư

Nhìn chăm tờ lịch cũ

Mà đôi mắt chảy ròng

Ôm mặt tiếng hu hu

 

Ôi ! Thương thời quá khứ

Thương người lính đi tù

Mười mấy năm thăm thẳm

Nơi miền bắc xa mù

 

Ôi !Thương đời viễn xứ

Hàng triệu người ly hương

Chết- sống giữa trùng dương

Lìa quê, xa Tổ quốc

 

Khóc…. khóc và cứ khóc

Thương nhớ những anh linh

Những người đã hy sinh

Vì giống nòi. dân tộc

 

Ba mươi tôi ngồi khóc

Tháng tư nào năm xưa.

 

Thủy Điền

28-04-2017

 

 

 

 

 

 184- Đêm Màu Hồng

 

   Trời đã gần bốn giờ sáng rồi, thế mà hắn vẫn chưa chịu đi ngủ, cứ vẫn để điện phòng khách sáng trưng như ban ngày, cứ ngồi lì bên chai Wihsky dang dở, chắc lưỡi tiếc hoài, sao đêm vội qua nhanh quá để ta được mặn nồng bên nàng thêm tí nữa.

 

      Thường thì tối thứ bảy nào hắn cũng hay đến những phòng trà quen thuộc, uống vài cốc Wihsky, nhìn ngắm xung quanh thấy cô nàng nào đẹp, đi một mình rồi mò đến mời rượu, làm quen. Nói chung những người đến đây đa số là độc thân, ham vui hay những người có gia đình đang gặp vấn đề mang tâm sự buồn đến để giải khuây. Trong số nầy cũng có người tốt, thật tình và cũng có kẻ năm trời, bảy nước, tám lênh đênh.

 

      Bản thân hắn nằm trong ba hạng người ấy, nhưng thuộc dạng ham vui, đã bao lần hắn muốn tìm cho mình một cô bạn đẹp, dễ thương, thật tình. Nhưng hắn toàn gặp thứ mà làm cho hắn sau khi tan tiệc về nhà phải điên đầu gần mấy ngày dài. Hể gặp cô nàng đẹp hồi đầu chưa vô rượu rất dễ thương, khi thấm dần là bỏ hắn và tìm người khác ngay. Còn gặp những cô đàng hoàng thì trong bỗng chốc sẽ biến dạng mất. Bởi họ chỉ đến đây để uống rượu vui rồi về ngoài ra họ không cần những thứ khác. Đặc biệt có những cô muốn ở lại với hắn suốt đêm thì lại xấu còn hơn Thị nỡ.

 

      Đêm nay may quá, sau ngần mấy năm trời lui tới phòng trà "Đêm màu hồng " Hắn tình cờ gặp được một người cùng cảnh ngộ. Vừa ngồi uống rượu, vừa ngắm ngía xa gần, hắn thấy có một cô gái xinh đẹp, mặt chiếc váy đỏ ngồi một mình tận mãi đến mười hai giờ đêm mà chẳng có ai vò vè thăm hỏi. Hắn mang đến mời rượu làm quen, vỡ ra cô ấy đã ly dị chồng gần tháng nay và đang tìm một nửa phần đời mới. Thừa cơ hội hắn tiến gần và tấn công. Và, cô ta cũng đáp lại hắn một cách chân tình, vừa uống rượu, vừa nhẩy, vừa tâm sự nàng mãi miết đắm say bên hắn như đôi tình nhân. Hắn cũng thế, dìu nàng trong vòng tay tình ái. Hai người vui say bên tiếng nhạc thật dịu dàng, ấm cúng. Nhưng tiếc thay, những giây phút ấy thật ngắn ngủi vô cùng.

 

      Bây giờ trời đã ba giờ khuya rồi, phòng trà phải đóng cửa, hắn phải đành chia tay cô bạn mới ra về trong nuối tiếc và cũng chẳng biết họ còn nói những lời gì mật ngọt................ sau cái bắt tay tạm biệt ấy.

 

Thủy Điền

01-05-2017

 

 

 

183- Giờ Nầy Anh ở Đâu ?

 

   Ròng rã 39 năm dài, cứ đến ngày 30-4 là bà Trang làm cái đám giỗ nhỏ rồi mặc chiếc áo dài đen đứng trước bàn thờ chồng hai tay vừa xá, vừa nói nho nhỏ: Cúng anh thì cúng, nhưng tôi không tin anh qua đời anh Quang à. Nói xong bà lấy tay lau giọt nước mắt và đi thẳng vào buồng.

 

     Ông Quang ngày xưa là Trung úy Phân Chi khu trưởng của một xã ven biển ở miền trung, khi Giải phóng vào ông bỏ về quê miền tây lẫn trốn, đến năm 1978 ông có cơ hội vượt biên cùng bao người khác. Trước khi đi ông bảo bà nên ở lại trừ hậu họa và lo nuôi nấng hai con thơ và chờ vào cơ hội khác. Bà thấy ông nói cũng đúng, nếu đi hết, lọt thì không nói gì, còn lỡ..... thì chết chùm. Thôi đành để mình ông đi trước, có gì thì cũng có bà bên cạnh.

 

     Đêm chia tay buồn lắm, kẻ đi, người ở. Hồi ấy cả hai còn son trẻ, dưới màn đêm lệ đỗ như mưa, hỡi ai thấu hiểu. Chuyến tàu càng xa- xa dần- khuất bóng bà trở lại căn nhà mà cõi lòng tan nát, chẳng biết có qua cơn sóng gió hay không, bao nỗi sợ giăng đầy trong trí. Ông đi mà ruột dạ chẳng yên, bỏ lại sau lưng một giàn trách nhiệm nào chồng, nào cha, thật thê thảm vô cùng.

 

     Sau một tuần- một tháng- một năm bà cứ đợi chờ- đợi chờ tờ Điện tín từ phương xa gởi về, nhưng rồi cũng chẳng thấy. Khóc...khóc suốt năm dài không biết ông có mệnh hệ gì, bà nghĩ nếu còn sống đương nhiên là ông phải nghĩ đến vợ con là điều trước nhất. Vậy tại sao? Câu hỏi được đặt ra gần mấy chục năm trời mà chẳng có câu trả lời, chuyện vô cùng ngộ nghĩnh.

 

     Qua những năm mở cửa, thỉnh thoảng có người về thăm quê, bà thường hay lê la thăm hỏi về ông. Người ta không nói một cách chính xác mà quanh co, lòng vòng khiến bà đăm nghi đủ thứ. Có lúc bà nghĩ ông đã chết dọc đường bởi tai nạn sóng biển. Có lúc bà nghĩ ông bị bắt và chết trong ngục tù, nếu bị bắt và chết trong ngục tù thì nhà nước cũng báo cho bà biết mà đem xác ông về chớ chẳng lẽ nào. Có lúc bà nghĩ ông đã phụ bạc bà mà có vợ khác và đành im lặng luôn cho đến ngày nay. Bao nhiêu suy đoán, nghi vấn đã làm cho bà càng ngày càng héo mòn thân xác, các con càng ngày, càng lớn- trưởng thành. Và, vẫn luôn tự hỏi ? Giờ nầy anh ở đâu.

 

     Nhớ ông, thương ông dù sống hay chết, dù chung thủy hay bội bạc, năm nào cứ đến ngày 30-4 là bà mặc chiếc áo tang đen và lấy ngày ấy để giỗ cho ông. Nhưng lòng luôn tin rằng, ông vẫn còn hiện diện trên cõi đời nầy.

 

Thủy Điền

30-04-2017

 

 

 

182- Cái Khéo, Cái Khôn

 

 

    Ông bà mình thường hay nói: Tháng năm chưa nằm thì sáng. Thật đúng vậy, chỉ còn mấy ngày nữa là đến tháng năm, gần hai mươi mốt giờ đêm mà trời còn sáng trưng và bình minh mới sáu giờ là trời bắt đầu sáng rực.

 

    Thường thường thì vào ngày thứ bảy hàng tuần, nếu không bận việc gì tôi, nhà thơ, nhà văn Lê Thanh, nhà thơ Bửu Tùng hay tự đi chợ mua món gì đó về ba anh em làm hết chai Whitky rồi chia tay về ngủ. Mùa đông thì lai rai trong nhà, mùa ấm thì ngồi sau vườn. Hai tuần nay trời ấm dần nên chúng tôi đem ra vườn cho tự do.

 

     Sáng sớm thằng Thanh đánh xe chở Bửu Tùng đến rước tôi đi chợ Á Đông mua Lươn làm sẵn về nấu canh chua. Đến tiệm đi lòng vòng định mua thêm vài rau cải bổ xung, thì bỗng nghe bà chủ tiêm đang đứng cầm hủ chao Cò của mấy ông Trung Quốc cằn nhằn “ Tham chi mà làm một Karton đến bốn mươi tám keo vừa nặng, vừa bán không kịp, hết hạng, vứt bỏ lỗ vốn hoài. Nếu không lấy về bán thì thiên hạ hỏi không có hàng rồi bỏ sang tiệm khác, mất khách, chán ơi là chán. “ Sao không chịu học mấy ông Nhật Bổn, người ta làm cái gì cũng thế ít, vừa phải thôi, ăn hết người ta sẽ mua tiếp có gì đâu mà lo. Nói xong bà đi tiếp cầm mấy món hàng Trung Quốc khác, lật qua, lật lại mà trông có vẻ không hài lòng.

 

     Thằng Thanh lanh trí, khều nhẹ. Bà chủ tiệm nói đúng đó tụi bây. Tôi và Bửu Tùng ngơ ngẩn mình biết gì chuyện mua bán. Hai thằng tôi chưa đi Nhật Bổn và Trung Quốc lần nào nên cũng không rành rẽ gì mấy, có chăng lâu lâu  xem Ti Vi một vài lần mà cũng không để ý đến. Riêng Lê Thanh thì có dịp đến Nhật hai lần vì anh ta có cô em ruột định cư ở Tokyo và du lịch bên Trung Quốc một lần, nên anh ta có vẻ am tường hai xứ nầy lắm. Thanh bảo: Người Nhật khéo lắm, họ làm cái gì là ra cái đó, gọn gàng và vừa đủ, chất lượng cao, sạch sẽ, lối sống của họ cũng rất trật tự. Từ thôn quê đến thành thị nơi nào cũng như nơi nấy thật đáng khen và cần phải học hỏi ở họ thật nhiều. Còn bên Tàu thì ngược lại. Tôi bảo phải thông cảm cho người ta chứ, vì dân đông quá hơn tỷ người, làm sao tránh khỏi những bê bối được. Thanh nói tiếp. Đó không phải là vấn đề, rồi anh ta xoay ngang tay cầm chai nước tương Kikoman và nói đây các bạn hãy nhìn, rất sạch sẽ và trong sáng và mỗi Karton người ta chỉ đóng thùng rất ít (Mỗi Karton chỉ sáu chai mà thôi và các mặt hàng khác cũng đều như thế không quá ba kí lô rất dễ bưng bê và vận chuyễn). Còn Karton Chao hay Bún tàu, Bún gạo, Bột của Trung Quốc nặng gần hai mươi lăm kí lô rất nặng nề và bề bộn, ai bê, ai khuân cho nổi nhất là đàn bà thường hay đi chợ, miệng nấp chao thì đầy muối trong khó nhìn vô cùng. Bao nhiêu đó cũng đủ chứng minh cho ta thấy người Nhật rất khéo, nước tương là món ăn hàng ngày ta đâu cần ép, gã bán một lần năm ba chục chai/ Karton, chỉ ít thôi, khi họ ăn xong, họ sẽ tìm mua chai khác ngay. Còn người Trung Quốc thì cũng không dỡ họ muốn bán tấn, bán ép một lần cho thật nhiều để được lợi nhuận cao, nhưng cuối cùng người dùng thì chỉ thế thôi, số thừa còn lại lâu ngày sẽ qua hạng thì coi như vứt bỏ và sau đó chán không thèm mua nữa. Điều nầy sẽ đi đến tình trạng bất lợi cho cả hai. Ngược lại giữa người Nhật và người tiêu dùng thì tồn tại lâu dài. Bởi cái gì cũng thế khi ta ăn ít thì sẽ thấy ngon và muốn ăn tiếp. Còn ăn nhiều quá hôm sau sẽ không muốn nhìn món ấy lần hai.

 

     Qua câu chuyện nhỏ dọc đường, ngoài chợ, trong tiệm trên, cho ta bài học kinh nghiệm về cái khéo, cái khôn. Tuy hai cái đều tốt cả, nhưng theo tôi cái khéo theo lối người Nhật nó sẽ tồn tại lâu dài bởi trong đó có hình dáng cái khôn đang hiện lờ mờ bên cạnh. Còn cái khôn theo lối người Trung Quốc nó chỉ nhất thời và nó lẩn quẩn cái hình bóng lợi nhuận ban đầu rồi sau đó biến dạng luôn.

 

     Nhìn người ta, rồi nhìn lại mình và tự hỏi? Biết bao giờ dân ta được như người Nhật Bổn thì hạnh phúc biết dường nào.

 

Thủy Điền

26-04-2017

 

 

 

 

Bút Ký: Thủy Điền

 

 

Bildergebnis für my tho xưa

 

181- Như Mới Vừa Hôm Qua

 

 

   Lâu lắm, 42 , 43 năm rồi. Thời gian đâu phải là ngắn, trên dưới nửa đời người. Vì cuộc sống bôn ba nơi hải ngoại, dường như đã làm cho tôi quên mất những cảnh cũ, xưa mà tuổi xuân tôi từng trải. Nhưng trong tiềm thức thì còn. Bởi nó là kỹ niệm. Hôm nay Chúa nhật, đường phố vắng lặng, lộ ít xe chạy, mọi người gần bên hình như còn ngủ nướng. Bỗng tiếng chuông nhà ngân lên- mở cửa, thì ra bạn tôi Nhà văn, Nhà thơ Lê Thanh mang đến tặng tôi hai bức ảnh về Mỹ Tho xưa (Quê hương của chúng tôi) Đó là ảnh một bến xe Lam nơi mà thời học sinh tôi và Thanh mỗi ngày lên và xuống để về một quận lỵ cách Mỹ tho 12 cây số và ảnh cây cầu Quây được bắt ngang qua sông Bảo Định là cầu nối giữa thành phố Mỹ tho và xã Tân Mỹ Chánh nơi chúng tôi theo học. Nơi ấy chính là trường trung học Nông Lâm Súc Định Tường.

Tôi vui mừng chào Thanh và hỏi ?

-Hôm nay mầy ngủ không được sao mà tìm đến tao sớm thế ?

Thanh cười.

-Ngủ ngon, nhưng tao vừa tìm được hai bức ảnh hay quá, chẳng lẽ xem một mình nên vội mang tặng mầy để cùng xem cho vui.

-Thế thì tuyệt, vào đi Thanh. Tao làm hai cốc Cà- phê tao với mầy uống nhá.

-Ừ.

 

     Hai thằng vừa uống vừa ngắm ngía hai bức ảnh rất vui thú, như hai thằng nhóc con không khác. Thanh thì nhận diện một đường, còn tôi thì nhận diện một ngã thật buồn cười. Nhưng cuối cùng cũng đi đến kết luận chung và chính xác nơi chúng tôi thường qua lại.

 

     Suốt ba năm dài, khi hai tôi chuyển từ trường Nông Lâm Súc Tân Hiệp về NLS Định tường để học, ngày nào hai thằng cũng cho hai chiếc xe đạp lên mui và đi xe Lam đến Mỹ Tho, rồi từ đó chạy tiếp hơn bốn cây số nữa để đến trường và chiều về ngược lại cũng y như thế.

 

     Hồi ấy còn trẻ cũng khá vui, bạn bè thường gọi tôi và Thanh là hai nhà thơ “Bồ Đề “. Nhiều lúc cũng giận, nhưng nhiều lúc tôi nói với Thanh họ nói cũng đúng. Từ hai đối lập ấy hòa lẫn với nhau nên chúng tôi lờ đi, ai gọi gì thì gọi, tùy họ. Tại sao họ lại gọi chúng tôi như thế ? Bởi, dân học Nông Lâm Súc là dân mặc áo màu nâu hơn nữa đoạn đường từ thành phố Mỹ tho về trường hồi ấy hai bên đường có rất nhiều quán Hủ tiếu chay của người đạo Dừa từ cồn Phụng Bến Tre sang, bán rất rẻ khoảng 150 đồng (Thời ấy) Một tô còn mấy quán Hủ tiếu thịt thì mắc hơn, nên tôi và Thanh thường hay vào ăn Hủ tiếu chay vào những buổi trưa để cầm hơi và vào học tiếp cho mãi đến chiều. Ngoài ra những lúc thực tập nông trại ngoài hiện trường tôi và Thanh hay làm những bài thơ tình trêu ghẹo những cô bạn gái cho vui. Trong nhí nhỏm nầy chúng tôi chưa bao giờ nhận được lời phiền trách mà ngược lại họ rất thích vô cùng nên họ ban tặng cho chúng tôi cái tên khá hay đó là nhà thơ “Bồ Đề” Danh hiệu nầy suýt chút nữa nếu không đi vượt biên ở nhà chắc hai tôi ế vợ luôn.

 

     Qua Tây rồi cũng thế, thằng Thanh có bản tính đùa dai, hay gợi lại chuyện cũ ngần mấy năm trời và vô tình để lọt vào tai một ít người. Tôi thấy ngại nên bảo: Thanh mầy làm ơn chuyển hướng và tắt cái đài mầy giùm tao không khéo nơi mơi nó lan tràn hết nước Đức có môn hai thằng xin vô chùa ở luôn. Nó hỡ là cười. Thì đâu có sao đâu, vào đó bọn mình còn sướng hơn, khỏi lao động và còn gặp rất nhiều Tài tử- Giai nhân nữa là khác. Và, ta tha hồ làm thơ ca tụng.

 

 

     Nói chung chuyện xưa, tích cũ nếu kể thì kể sao cho hết. Nhưng ấn tượng nhất là khi nhìn lại hai bức ảnh mà Thanh mang tặng, tự dưng cảm giác tôi  nghĩ về nó như vừa mới hôm qua.

 

Thủy Điền

 

23-04-2017

 

 

Bildergebnis für my tho xưa

 

 

 

 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

Ähnliches Foto

 

180-Chị Ba Hiến Với Chiếc Áo Bà Ba

 

Thằng Hoàng khều nhẹ tôi hỏi ?

-         Ê Điền, nãy giờ mầy ngồi uống Cà- phê với tao, mầy có thấy gì không ?

-         Có.

-         Cái gì ?

-         Thì tao và mầy cùng hai cốc Cà- phê.

-         Lãng nhách, mầy vô duyên thật.

-         Tao hỏi mầy đàng hoàng.

-         Thì tao cũng trả lời với mầy thật nghiêm túc đây.

-         Thôi không giỡn nữa, cái người đàn bà mặc bộ đồ bà ba, tay cầm chiếc cặp táp đi vào Ngân hàng. Mầy biết đó là ai không ?

-         Mầy thế nào, ở Tây Đức lạnh thấy mẹ ai mà mặc áo bà ba ra đường mầy ơi. Mắt mầy hôm nay lé hay có vấn đề rồi đó.

-         Có thật đó mầy, mầy nhìn kìa, bà ta đang ra khỏi Ngân hàng, mầy nhìn kỷ  xem.

-         À ! Chị ba, vợ anh ba Hiến, chủ Nhà hàng Long Phụng. Cũng lạ thật, sao hôm nay chỉ ăn mặc thuần túy Việt nam, bà nầy rẳm rẳm mà bảo tồn Văn hóa Việt dữ dằn quá ta.

-         Tao thấy chỉ nhiều lần như thế. Mới nhìn chỉ tao chợt nhớ hồi mới giải phóng, ở xứ tao cũng có nhiều bà Cán bộ mặc đồ bà ba, tay xách cặp táp màu nâu, hông đeo súng ngắn trong oai vệ lắm. . Mấy ông Sĩ quan ngụy thấy mấy bả là muốn té đái trong quần. Vì sợ mấy bả mời đi học.

 

 

     Gia đình anh chị ba là một gia đình đi vượt biên, rồi được sang định cư tại Tây Đức theo diện nhân đạo. Khi học tiếng đức xong, anh ba chưa có việc gì làm và xin vào nhà hàng tàu do người Hồng kông làm chủ để làm kiếm tiền. Chị ba và các cháu thì ở nhà. Hồi đầu anh ba mới vào họ sắp xếp cho làm nghề rữa chén và xắt rau- lâu ngày anh ba lên chức phụ bếp- rồi lên bếp chánh. Đúng ba năm sau, thấy rành nghề và kiếm được ít tiền, anh nghĩ mình tự tìm một cái tiệm làm chủ, hơi đâu làm công cho thiên hạ hoài. Ngoài ra cái nghề nầy cũng chẳng khó khăn chi. Nghệ thuật chung quy chỉ xào xào, nấu nấu mà thôi.

 

     Anh ba thì ít học, nên nhận công tác phần bếp núc. Còn chị thì kha khá nhận phần bồi bàn, tính tiền, rót nước và kiêm luôn mặt hành chánh như: Giao dịch Ngân hàng, Ty Thuế vụ và các vấn đề linh tinh liên quan đến cái nhà hàng Long Phụng.

 

     Thật tình anh chị ở Việt nam là người nhà quê, nên việc mặc chiếc Váy hay chiếc quần Jean da bò đối với chị là một điều khó khăn, còn hơn bắt chị gánh năm mười gịa lúa ở quê nhà. Bởi thế trong năm bảy năm đầu, tiếng tuy ở Đức, Châu âu chị toàn mặc những bộ đồ bà ba được mang từ Việt nam sang, sau đó khi cũ, hư hết thì chị mới chuyển sang mặc đồ tây dần dần.

 

     Trong những lần đi giao dịch hay mua sắm ở đâu chị toàn mặc bộ đồ bà ba và xách theo chiếc cặp táp đựng những hồ sơ cần thiết. Có nhiều lần chị đi ngoài phố rất lắm người tây ngắm nhìn, vì thấy hơi là lạ. Họ không cười và nghĩ đây là Văn hóa của một dân tộc cũng giống như người Ấn độ họ quần tròn khi ra đường mà cũng có sao đâu. Riêng chị ba cũng thế, chị chẳng biết mắc cở hay ngại ngùng và cứ xem xã hội nầy giống như Việt nam thôi.

 

     Có nhiều lần anh ba cũng khuyên chị nên thay đổi cách ăn mặc cho hợp với người ta. Nhưng chị bảo: Chị không quen, rồi anh cũng bỏ lờ luôn và cuối cùng thành thói quen.

 

 

     Mỗi khi chị đi ngang qua quán Cà- phê để vào Ngân hàng. Thằng Hoàng nó thường hay bắt gặp và hồi tưởng lại những ngày đầu khi nó vừa tròn mười tám tuổi. Sáng, chiều nào cũng hay nhìn thấy những nữ Cán bộ cầm loa, đeo súng phóng thanh mời đến ngôi chùa gần nhà để họp.

 

Thủy Điền

22-04-2017

 

 

 

 

 

 

Bút Ký: Thủy Điền

 

 

 Ähnliches Foto

 

 

179- Chiếc Lá Muộn Màng

 

Chiều hôm qua đi dạo một vòng về. Bỗng dưng lòng tôi có cái cảm giác lạ thường hơn mọi khi, uống ly nước lả, ngồi trầm ngâm một chút. Tôi tự hỏi ? Sao lại thế kìa.

 

    Tôi và Thanh Thanh là đôi bạn từ thuở nhỏ, học cùng lớp, cùng thôn. Ngày ngày chúng tôi thường qun quýt bên nhau rất là thắm thiết và lớn lên từng ngày- từng giai đoạn cũng thế. Mỗi khi gặp nhau thường hay kể chuyện nầy, chuyện nọ, cười đùa trong thật là nhí nhỏm, lý thú vô cùng.

 

     Rồi đường đời càng xa hơn, lớn lên ai ai cũng có một công việc riêng, đời sống và tình cảm riêng, nên thỉnh thoảng những cuộc gặp nhau cũng thưa dần hơn lúc thời còn bé. Dù bận bịu rất nhiều, nhưng hai đứa rất cố gắng khoảng hai ba ngày là nàng sang hoặc tôi sang rủ nhau đi dưới hành cây gần nơi chúng tôi ở, tâm sự, chia sẻ đủ điều những chuyện vui, buồn trong cuộc sống.

 

     Riêng tôi thì chưa có gì hết, chỉ ngày đi làm hai buổi rồi về, vô tư. Có chăng là ba chuyện lặt vặt, vớ vẩn nơi công xưởng mà thôi. Còn nàng thì nặng mối hơn nhiều như: Chuyện gia đình, tình yêu và công việc. Chuyện nàng hay kể cho tôi nghe nhiều nhất là chuyện tình yêu của nàng. Thật lòng thì tôi cũng chẳng muốn nghe chuyện của người khác làm gì và riêng nàng cũng không nên kể tôi nghe những gì riêng của mình. Sỡ dĩ nàng kể ra có lẽ nàng xem tôi là người quá thân thiện hơn cả ruột thịt của mình. Nhiều lúc tôi muốn cãn ngăn những lời kể ấy, nhưng sợ nàng buồn mà đành lặng im vừa đi , vừa ừ ừ, hử hử.

 

     Hôm nay đi dạo, nàng không kể hay vui đùa như những lần đi dạo trước, đi xa nhà một khoảng gần một cây số nàng vẫn bình thường, rồi bảo mệt và không đi nữa, ngồi bẹp giữa vệ rừng khiến tôi cũng phải ngồi theo luôn. Nàng lặng thinh chẳng nói lời nào, tay cầm hai chiếc lá vàng so đo. Tôi bảo sao Thanh Thanh lại ngồi ở đây, thôi ta đi một lúc rồi về, kẻo trời sắp tối.

 

     Trời càng lúc càng tối dần. Xung quanh bao phủ một màu vàng óng ánh, tiết trời mùa thu răm răm lạnh, nàng ôm chặt thân tôi rồi thì thầm „Em yêu Anh „ Và, vất đi một chiếc lá vàng. Tôi ngơ ngác nhìn nàng, người như chết đứng. Tại sao nàng lại nói ra điều nầy chứ? Rồi cũng chẳng rả lời, trả vốn gì cả, mặc cho nàng làm gì thì làm. Một lúc lâu tôi bảo còn Ngân. Nàng bảo Ngân là Ngân, em sẽ trả Ngân về với cuộc sống bình thường. Khi nghe nàng thốt ra những lời ấy, tôi bắt đầu bực bội, nghĩ không tốt nàng ngay và cũng chẳng biết phải nói sao với người bạn đổi tính kỳ hoặc nhanh lẹ như thế  và tìm cách rẽ sang hướng khác. Thôi mình về Thanh Thanh, trời đã nhá nhem tối, hôm nao bọn mình gặp lại và tâm sự nhiều hơn. Nàng gật đầu và trong có vẻ vui mừng, hớn hở lắm. Còn lòng tôi thì rối như tơ vò.

 

     Tuy, không nói lời từ chối, sợ nàng giận. Nhưng tôi tìm mọi cách không đi dạo nữa. Càng đi dạo với nàng chính là càng giết chết Ngân, càng phá vở hạnh phúc Thanh Thanh và càng làm cho người tôi trở thành người bất lương hồi nào mà không hay biết.

 

     Qua mấy lần từ chối, thỉnh thoảng chiều chiều ngồi nhìn xuyên cửa sổ tôi nhìn thấy nàng đi dưới hàng cây vàng lá, tay cầm chiếc lá vàng mà trông thật đáng thương.

 

Thủy Điền

21-04-2017

 

 

 

 

Tùy Bút: Thủy Điền

 

 

Ähnliches Foto

 

178-Cũng Vì Nguyên Tắc

 

  Bà chấp tay đứng trước quan tài ông vừa lạy, vừa xá, vừa nói: Tại ông nguyên tắc quá nên người ta không để cho ông sống nữa. Thế thì ông cũng đừng hờn giận và trách móc ai cả. Tất cả do mình gây ra mà thôi và bây giờ còn kéo theo một bầy vợ con khổ sở khi nhà thiếu vắng cha, chồng.

 

     Trên đời chưa từng thấy ai khờ như hắn, năm mười tám tuổi hắn bị gọi động viên và thi hành quân dịch. Hắn được đưa vào Trung tâm huấn luyện, nơi đây hắn được đặt dưới sự chỉ huy của một viên Trung úy già rất khó tính và nguyên tắc. Nơi Quân trường hắn được dạy những điều cơ bản của người lính như : Sáng ngủ dậy tập thể dục, xếp chăn mền, cột giầy, đánh bóng giầy, chùi súng và cách chào khi viên Sĩ quan đến, thao dợt ngoài bãi tập, chạy, nhẩy, leo trèo, bò hỏa lực, bắn súng v..v…

 

     Đã là lính thì phải thành thạo những điều nầy, nhưng hắn cứ làm sai lên, sai xuống khiến viên Sĩ quan luôn luôn nỗi cáo, cứ phạt vạ hắn lên tục. Phạt đến nỗi hắn không làm nổi nữa, nhiều lúc phải bỏ ăn và ói ra mật xanh. Thấy thế, hắn có người bạn cạnh giường và cùng phòng luôn giúp đỡ hắn, hầu cho hắn bớt bị phạt. Nhưng nhiều lần hắn cũng chẳng thành công và cả người bạn của hắn cũng nỗi điên và quát hắn luôn. Nói chung gần ba tháng trong quân trường hắn chẳng làm được chuyện gì cả, chỉ toàn nghe tiếng phê bình, mắng nhiếc, phạt vạ của viên Sĩ quan chỉ huy.

 

     Hắn thì có thân hình béo mỡ, lúc nào cũng thèm ăn, cuối tuần hắn thường mua thêm đồ ăn giấu trong ngăn rương để tối khi mọi người ngủ hết và lấy ra ăn. Một ngày thứ hai đầu tuần viên Sĩ quan cho lệnh mở các rương xem lính sắp xếp có ngăn nấp không, tình cờ ông ta bắt gặp trong rương hắn có ba ổ bánh mì hình thoi, ông tức giận tịch thâu và bắt phạt hắn hít đất 100 cái, đồng thời phạt hắn lau chùi nhà vệ sinh một tuần dài, cuối tuần không được ra khỏi trại. Cơn phạt nầy quá nặng so với hắn. Hắn vừa cực nhọc, mất tự do, lại không mua được thức ăn thêm nên hắn rất bực bội mà không dám nói.

 

     Thấy anh em cuối tuần được rong chơi gặp gia đình cha mẹ, anh em và còn mua được ít thức ăn thêm, lòng hắn càng sôi sục và thù hận viên Sĩ quan đến tột độ.

 

     Một hôm đến giờ hắn gác. Lẽ ra hắn phải ra vọng gác ngồi gác, đàng nầy hắn đi ngược vào nhà vệ sinh, hắn hy vọng đêm nay thế nào vị Sĩ quan cũng đi vệ sinh, hắn sẽ trả thù viên Sĩ quan ngay tại nhà vệ sinh nầy, rồi mọi chuyện đến đâu thì đến. Sau một tiếng đồng hồ đổi gác, bạn hắn ra chồi canh sao không thấy hắn ở đó và bắt đầu đi tìm hắn. Vừa vào đến nhà vệ sinh thì thấy hắn đang ở đây, tay cầm súng chẳng quần áo gì cả. Bạn hắn vội mắng cho hắn một trận, hắn chẳng trả lời và chỉ biết ngồi khóc. Bạn hắn nhẹ giọng, khuyên hắn hãy mặc đồ vào và trở về ngay vị trí cũ. Hắn nhất định không chịu và còn lớn tiếng với bạn, súng lên nòng, lời qua, tiếng lại cả căn trại vang tiếng giữa đêm khuya. Viên Sĩ quan chạy đến, lẽ ra ông ta phải dùng lời ngọt nhẹ để ngăn cãn, hầu tháo gỡ được vấn đề. Ngược lại ông không làm thế, cứ nghĩ hắn có bản tính luôn luôn sợ ông và ra giọng mắng cho hắn một trận rất to tiếng. Hắn bắt đầu nỗi cáo lên, gương mặt như con hổ. Hận- càng hận thêm hắn chỉa súng vào viên Trung úy- bóp cò và viên Trung úy đả tử vong tức khắc. Tưởng hắn cũng vươn súng bắn luôn người bạn đã từng giúp đỡ hắn. Nhưng không ngờ ! Hắn để đầu súng vào miệng rồi bóp cò nghe cái „Rầm „ Rồi từ từ ngã xuống, súng một nơi; Hắn một nơi.

 

     Hắn và viên Trung úy nằm bất đng trên vũng máu. Và, người bạn chân thành chỉ biết ôm đầu khóc ngất trước cảnh tình thê thảm.

 

Thủy Điền

19-04-2017

 

 

      

 

 

 

Truyện ngắn: Thủy Điền

 

 

Bildergebnis für ẢNH MÙA HÈ HOA PHƯỢNG

 

177-Sau Bài Diễn Văn

 

    Vừa đọc bài diễn văn bãi khoá. Hắn chạy u ra sau hậu trường ngồi khóc. Bạn bè hắn thấy vậy bu lại an ủi, chia sẻ. Ngỡ hắn xúc động khi đọc bài diễn văn chia tay. Ai dè......!

 

    Hắn là một học sinh học bình thường, chẳng có gì nổi bật trong lớp, đối với các môn khác hắn luôn luôn điểm năm, điểm sáu và cao lắm điểm bảy là cùng. Nhưng riêng môn văn lúc nào hắn cũng đạt điểm mười. Đặt biệt trời sinh hắn có cái tài viết văn, làm thơ và đứng nói chuyện trước công chúng rất mạch lạc và lưu lót dù hắn chưa một lần học hỏi ở ai, nên mọi người đặt cho hắn cái tên là Hoàng MC.

 

     Ngoài giờ học hắn hay viết những bài văn ca ngợi các cô gái và làm những bài thư tình lãng mạn tặng người nầy, người kia nên có nhiều cô rất thích hắn.

Cũng nhờ cái mả khá đẹp trai và tài viết lách nên hắn chiếm được quả tim của một cô gái xinh đẹp nhất, nhì trong trường. Cô ta rất khoái hắn, bởi hắn luôn ca tụng cô ta bằng văn chương hết lời. Hai người rất khắng khít suốt mấy năm trời, tưởng đâu sẽ mãi mãi bền lâu.

 

     Mỗi năm hay mỗi khi nhà trường có tổ chức những buổi lễ  đều cũng phải nhờ đến hắn. Vì ngoài tài MC hắn còn có cái tài tổ chức rất hay và trận nào hắn cũng thành công và hoàn thành nhiệm vụ nên thầy Hiệu trưởng rất tin tương ở hắn.

 

     Năm nay hắn học hết lớp mười hai, cũng là năm cuối cùng, hắn phải rời khỏi nhà trường và bước sang ngưỡng cửa mới. Mỗi năm vào mùa nầy nhà trường tổ chức rất long trọng và hắn là một thành viên cũng không kém. Ngoài những bài diễn văn của các thầy cô. Hắn được mời làm đại diện cho tất cả học sinh toàn trường để đọc diễn văn cảm ơn, tri ân tấm chân tình của các thầy cô đã bao năm dầy công dạy dỗ.

 

     Trước những ngày nầy hắn cũng đã nghe phong phanh cô nàng của hắn đã lẹo tẹo với anh chàng khác, hắn tuy chưa rõ mọi chuyện, nhưng đã ghen tức trong lòng.

 

     Không may, ngày bãi khóa hắn đang đọc diễn văn ngon trớn. Tình cờ hắn nhìn xuống hội trường thấy cô nàng của hắn đang thân thiết, âu yếm, vui vẻ bên người mới. Vừa đọc hắn vừa tức giận hằn học. Bỡi thế hắn bị vấp đi, vấp lại mấy lần, phải xin lỗi qúi thầy cô và các bạn vì hôm nay hắn không được khỏe. Vừa đọc xong hắn chạy một mạch xuống hậu trường ngồi khóc hu hu như bé lên năm. Các bạn đang tô son, điểm phấn để chuẩn bị cho kịp buổi văn nghệ sắp tới, cùng nhau đến an ủi, chia sẻ với hắn. Ngỡ hắn quá xúc động vì lát nữa đây hắn và mọi người phải chia tay nhau sau những năm dài miệt mài nơi mái trường. Bao câu hỏi tấn công tới tấp, nhưng hắn chẳng trả lời trả vốn vì cả, cứ ngồi gục dầu lặng im.

 

Thế là hết, đường chia đôi ngã

Tình chúng mình theo nước, trôi sông

Giờ em xa mặt, cách lòng

Bỏ tôi, bỏ cả một chồng thơ yêu.

 

     Và, Lặng lẽ ra về trong nỗi niềm cô đơn đầy thất vọng.

 

Thủy Điền

18-04-2017

 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

Bildergebnis für ẢNH ĐÊM TRĂNG

 

 

Đêm Ấy Bên Em

 

    Giữa đêm rằm tháng tám, trời sáng như ban ngày. Hai đứa bên nhau, đứng nhìn xa vầng trăng như một quả bóng tròn vàng đang rơi xuống đất trong thật đẹp và hùng vĩ vô cùng. Nó như một khuôn ảnh lộng đôi tình nhân đang âu yếm giữa một góc trời yên tĩnh.

 

     Đêm ấy tôi và em hẹn nhau ra bãi cỏ sau vườn. Mùa hè tháng tám trời ấm áp, đêm cũng như ngày lúc nào cũng 25 độ trở lên, trăng trời sáng rực, đến nổi những cái gì nho nhỏ xa xa cũng đều hiện lên trước mắt. Với chiếc áo lót mỏng và chiếc quần Jean cụt tôi nghĩ em không thể nào ngồi bên tôi lâu được và có lẽ đêm nay tôi phải cỡi trần để lấy áo che đỡ thân nàng. Thỉnh thoảng ngồi bên em dăm ba phút tôi lại hỏi ? Có lạnh không. Em bảo không sao, trời vẫn ấm và ngồi bên anh lại càng ấm thêm. Tuy, nàng nói thế, nhưng lòng tôi vẫn ngài ngại vô cùng. Đêm càng khuya- càng khuya là lúc đôi mắt bắt đầu mệt mỏi. Cứ nhìn em và cứ nhìn. Nàng chẳng sa sút tí nào cả vẫn thao thao bất tuyệt trò chuyện bên tôi như đang tâm sự giữa ban ngày. Tôi thầm nghĩ chắc ngày hôm qua nàng ngủ nhiều, say lắm để đêm nay thức trọn cùng tôi. Trong khoảnh khắc tôi tự thấy mình xấu hổ vô biên. Làm con trai mà sao yếu đuối quá. Tôi cố gắng gượng người và chỉ biết ừ…ừ khi nghe em nói rồi cố nén, giấu sự mệt mỏi giữa đêm khuya. Lắm lúc muốn bảo em, thôi mình về, đêm đã tàn. Nhưng không đành, sợ nàng giận. Trời cũng sắp sáng- sáng dần, xa xa làng bên có một vài tiếng gà lạnh đít đang gáy ó o gọi bạn giữa đêm trường. Sương lạnh, hai đôi vai bắt đầu thắm ướt, em đứng dậy ôm chặt thân tôi như chia sẻ phân nửa cái tiết trời giá buốt, khiến lòng tôi cảm động vô cùng.

 

Và, khuôn ảnh trăng đêm cũng bắt đầu dần dần xa, bỏ lại chúng tôi, đôi tình nhân từng khoảng nhỏ để đi nơi khác. Tôi và em tay nắm tay nhau nhẹ bước………….nhẹ bước …… ra về!.

 

Thủy Điền

 

17-04-2017

 

 

 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

Bildergebnis für mùa hoa phượng đỏ

 

 

175-Chuyện Tình Buồn

 

 

Nầy Ngọc !

  Chỉ còn vài tiếng nữa, sau buổi văn nghệ bãi trường nầy buồn lắm Ngọc.

-Tại sao? Có gì đâu mà buồn, về nghỉ vài ba tháng xả hơi, rồi mình sẽ gặp lại nhau, chứ chẳng lẽ mầy thôi học luôn à.

- Không phải, cái con nhỏ nầy ngớ ngẩn thật, chẳng hiểu gì cả.

- Mầy bảo tao ngớ ngẩn thì tao chịu, tao chẳng hiểu ý mầy muốn nói gì.

- Phượng chưa tàn, mà cảm giác của tao dường như sắp tàn cái gì đó.

- À, tao hiểu rồi "Người yêu đi xa phải không? ". Chuyện có thế mà trầm ngâm than thân, trách phận. Có ai nói từ biệt mầy chưa mà bi quan thế. Giỏi mà tưởng tượng. Làm trai lớn lên- tới tuổi- trưởng thành là phải tòng quân, ai cũng thế, đâu riêng gì người yêu của mầy. Tao chưa yêu ai, cũng như chưa ai yêu tao. Nếu lâm vào hoàn cảnh của mầy tao rất vui vẻ và chấp nhận ngay. Bởi đó là bổn phận.

- Rồi mầy để coi, tao cố chống mắt nhìn mầy. Anh hùng lắm.

 

     Dù Ngọc an ủi, phân tích thế nào đi nữa Thắm vẫn luôn sợ hãi. Khi buổi văn nghệ chấm dứt mọi người ai về nhà nấy, chỉ còn lác đác xa xa, xót lại vài đôi nhân tình đang quấn quýt bên nhau trong số đó có Thắm và Hoàng. Chàng rất buồn khi phải nói lời tạm biệt và nàng cũng chẳng vui khi xa cách người tình mà thời gian cũng chẳng ai biết được. Những giọt nước mắt, những lời nhắn gởi, hứa hẹn cứ dùng dằng như chẳng muốn xa nhau.

 

     Hai năm xa cách là cả chuỗi ngày nhung nhớ, chờ đợi. Nàng chưa bao giờ nhận được tin tức của chàng thật là thê thảm và nàng cũng chẳng biết phương nào để gởi gắm tâm tư. Vì những lời hứa hẹn ngày xưa mà nàng đã từ chối biết bao cuộc tình cũng như bao lần có người dạm ngỏ. Thời gian- thời gian sự chịu đựng nào cũng có giới hạn. Thất vọng, nhiều lúc nàng cũng định.........! Nhưng rồi cũng không, cố gắng và cố gắng.

 

     Ngỡ ngày ấy sẽ đến sau bao năm chờ đợi. Nhưng không ngờ, một hôm nàng nhận được tin chàng trở lại, trong hạnh phúc đã biến thành đau khổ khi nhìn thấy chiếc quan tài đã ôm trọn đời anh.

 

Mùa thu chưa đến, phượng tàn

Tình yêu chưa trọn, sao chàng vội xa

Ngày về chưa tặng vòng hoa

Đành mang tang trắng lệ nhòa đôi mi

 

   Một lần khóc.....lại thêm một lần khóc....khóc hôm nay và.....khóc tận mai sau !

 

Thủy Điền

16-04-2017

 

 

   

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

 

174- Gương Sầu Trăm Năm

 

Cả nhà ai cũng bảo: Cái thằng hết nói nổi, tưởng nó đi xa, học rộng có vợ đẹp, con xinh. Ai ngờ ! Đi cho đã đời, bốn năm năm trời trở về, dẫn theo con nhỏ nhìn gương mặt là thấy nghèo trăm năm.

 

   Ngày nó đậu tú tài toàn phần- lên Sài gòn học Đại học cả nhà rất vui và đặt hết niềm tin vào nó như : Học thành tài và có vợ đẹp con xinh để khi trở về quê còn hãnh diện với bà con làng xóm. Trước khi đi nó hứa hẹn đủ điều và  tỏ vẻ cho mọi người an tâm. Thú thật thì trong lòng nó chỉ nghĩ đến hai chữ công danh, chớ chưa bao giờ nghĩ đến chuyện tình duyên, tình dáng gì cả. Bốn năm trời miệt mài cứ học- học để cố lấy được cái bằng cấp sau nầy hầu tìm được một công việc nhẹ nhàng và cuộc sống khá khỉnh hơn.

 

   Mỗi năm khi đến hè, nó thường hay về quê nhà để nghỉ ngơi và phụ giúp gia đình. Một tháng nghỉ hè nó luôn nhận những câu hỏi rất khó trả lời. Và, để làm vừa lòng mọi người, nó hay nói vòng vo tam quốc như mình đang có người yêu nhưng chưa chín mùi. Để mọi người an tâm và không hỏi nữa.

 

   Ngày lại ngày, cái gì rồi cũng đến. Lòng tuy chưa tính xa vời, nhưng bỗng dưng lại xuất hiện những mối tình bất ngờ mà nó không thể nào từ chối được.

 

   Lần đấu tiên nó yêu một cô gái khá xinh đẹp, lúc đầu nó ngỡ mối tình như thế cũng khá ổn và hy vọng trong tương lai khi ra trường sẽ có thêm những gì tốt đẹp hơn. Nhưng tình yêu học trò nào có bền lâu. Trong khoảnh khắc cô ta đã tìm bến mới. Thế thì nó là kẻ bơ vơ và bị gạn qua một bên. Trong sự tức tưởi và đau khổ, nó thề nhất định sẽ không bao giờ yêu ai nữa, dù bạn bè gán cho nó là kẻ vô duyên hay khó tính mặc, tùy.

 

   Nói thì nói thế, làm người mà. Ai cũng có trái tim, hơn nữa sống giữa môi trường tập thề cả rừng người thanh trẻ, không gặp, không quen người nầy rồi cũng sẽ gặp quen người khác, không làm sao tránh khỏi.

 

   Còn một năm nữa là đến ngày nó ra trường. Tình cờ trong một đêm Văn nghệ nó quen được một cô bạn tuy không đẹp bằng người, có gương mặt buồn, nhưng có giọng nói rất dễ thương nhẹ nhàng và trìu mến. Nàng luôn âu yếm, chăm sóc cho chàng từ li, từ tí. Với những thái độ và hành động chân thật ấy nó quên mất đi những cái gì mà bạn bè và người đời cho là xấu xa và cứ nghĩ nàng hiện tại cái gì cũng đẹp cả. Mỗi lời nói của nàng dường như cuốn hút vào trong tim chàng. Đêm nào cũng thế, nó luôn mơ tưởng và chờ ngày học xong sẽ đem nàng về gia đình để ra mắt cả nhà và nhất định sẽ lấy nàng làm vợ.

Sự yêu đương càng lúc càng lên tột đỉnh, dù ai nói thế nào đi nữa nó cũng gạt ngang và bênh nàng một mực.

 

   Sau khi tốt nghiệp xong, nó rất vui vẻ và hớn hở đưa nàng về quê. Nó nghĩ mọi người trong nhà ai cũng như nó sẽ yêu thích và chìu chuộng nàng và xem nàng như một thành viên không hơn, không kém. Nhưng ngược lại, không phải thế,  khi nó vừa đưa nàng về đến nhà một lúc sau tất cả mọi người đều hổi ơi và thất vọng tràn trề khi nhìn thấy tương lai của nó là cả một đời sầu.

 

   Nó rất bất bình, nhưng không làm sao để bênh vực và giải thích cho mọi người hiểu về nàng được, trong lúc mọi người đang có ác cảm với gương mặt buồn thảm của nàng. Với những đối kỷ ấy nó phải đành lặng lẽ đưa ngược nàng trở lại Sài gòn và từ đó dường như lâu lắm ……lâu lắm …….thật là lâu   ………..nó chưa về lại quê hương ; Dần quên nơi chôn nhau cắt rốn.

 

Thủy Điền

14-04-2017

 

 

 

 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

Ähnliches Foto

 

174- Lương Tâm Của Người Bội Bạc

 

  Khứa đang nhậu ngon lành với đám bạn làng, buổi nhậu hôm nay ngon lắm nào lòng lợn, mấm nêm, khế, chuối chát. Bỗng dưng khứa nhìn thấy vợ, con khứa đi đằng xa tay xách, tay bồng trông rất cực nhọc. Khứa đứng dậy và nói: Thôi tao đi nhá, tụi bây cứ nhậu một mình đi, đừng chờ tao, tao không trở lại nữa đâu. Cả đám bạn nhìn khứa ngơ ngắc, chẳng hiểu có chuyện gì. Và, hôm nay khứa lại đổi tính như thế.

 

     Khứa là con nhà khá giả nhất nhì trong làng. Ỹ cha mẹ giàu, có của khứa chẳng thèm đi học, cứ ở nhà ăn chơi lêu lỏng. Năm khứa vừa tròn hai mươi tuổi sợ khứa hư hỏng thêm nên cha mẹ khứa đi cưới cho khứa một cô vợ ở làng bên. Hy vọng có vợ rổi khứa sẽ đổi tính và lo làm ăn. Nhưng chứng nào tật nấy, cưới vợ là cưới, khứa cứ ngỡ như mình còn đang độc thân. Khứa muốn làm gì thì làm đừng hòng ai cãn ngăn được khứa. Với bản chất như thế lẽ ra đàn bà họ bỏ khứa tám đời dương rồi. Mà không biết sao khứa rù rì cách nào cứ mỗi năm đều lọt ra một đứa. Hiện tại khứa có tất cả là bốn đứa, hai gái, hai trai. Đã có một bầy con như thế đúng ra khứa phải có trách nhiệm và bổn phận nuôi và dạy dỗ chúng. Nhưng không, khứa bỏ mặc hết cho cha mẹ khứa, cứ tỉnh queo đi nhậu và bè bạn tối ngày. Vợ khứa biết chồng vậy nên chịu thua và để khứa muốn làm gì thì làm. Có những hôm khứa say về nhà còn mắng nhiếc vợ và đánh đập mấy đứa nhỏ thật là vô lý.

 

     Bảy năm sau cha mẹ khứa già, bệnh lần lượt qua đời, các con khứa bắt đầu lớn dần, khứa cũng già theo thời gian. Theo người ta khứa cũng nên bớt dần những tật xấu xa một chút để các con noi theo. Thế mà khứa cũng chẳng quan tâm. Tình cảnh gia đình càng lúc càng xa xút- đi đến nghèo nàn, vợ con vất vả nơi đầu đường xó chợ để chạy từng miếng ăn, cái mặt. Cảnh rách nát lại càng rách nát hơn. Khứa ngày hai buổi chỉ biết lo ăn nhậu. Sáng sớm mở mắt ra không có rượu là khứa đã thấy khó chịu trong người và chẳng làm được việc gì cả, tay chân rung rẩy như con gà mắt kinh phong trông thật thê thảm. Nhưng khi gặp bạn, vô vài ba xị là khứa tỉnh và minh mẩn lại ngay như người bình thường.

 

     Một hôm bạn bè khứa trúng mánh khao khứa một chầu nhậu linh đình nào lòng lợn, mấm nêm, rau cải đủ thứ. Buổi tiệc nầy lẽ ra khứa phải nhậu đến khuya hay đến sáng mai mới về.

 

     Nhưng vừa bày tiệc ra khứa chỉ mới uống có vài ly chưa thấm vào đâu. Chợt khứa nhìn thấy đằng xa có người đàn bà tay xách, vai mang, tay bồng, tay bế đứa trẻ khóc la, ngã lên , ngã xuống trông rất thê thảm giữa trời trưa nắng. Tự dưng lương tâm của khứa cắn rứt, không chịu nổi, đành bỏ buổi tiệc đứng dậy xin lỗi mọi người và chạy đến nơi để cứu đỡ vợ con và đưa cả hai về nhà. Vợ khứa thấy sao một điều kỳ lạ và đứng ngẩn ngơ chỉ biết nhìn khứa mà chẳng nói nên lời.

 

     Khi về đến nhà vợ khứa bảo khứa trở lại tiệc nhậu tiếp đi để bạn bè trông đợi.

Khứa trả lời: vợ con như thế…. cửa nhà như thế….. ly rượu, miếng mồi còn gì ngon nữa. Và, kể từ đó khứa bỏ rượu luôn và bắt đầu ở nhà phụ hợ vợ con làm việc nầy, việc nọ.

 

     Trong những buổi cơm chiều vợ khứa thường hay nói với các con “ Con người dù gì đi nữa, ai ai cũng có một lương tâm “ Mà cha của các con hiện tại là một điển hình.

 

Thủy Điền

 

11-04-2017 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

 

 

173- Những Giọt Lệ Héo Mòn

 

Sau khi nghỉ hưu, cũng là thời điểm bà có nhiều thời gian rảnh rổi như: Làm bất cứ những việc gì theo ý thích của mình mà bấy lâu chưa thực hiện được. Đồng thời ôn lại những kỷ niệm xa xưa của thời tuổi trẻ để làm những bài thơ hay viết vài bài truyện ngắn để con cháu sau nầy có mà đọc và hiểu về bà nhiều hơn.

 

    Thuở thời bà là một nữ sinh trường Lê Ngọc Hân, khá xinh đẹp, học giỏi và luôn mang trong hồn với những dòng thơ lai láng, lãn mạn, yêu thương. Chính vì thế mà sau nầy bà trở thành một cô giáo dạy văn khá nổi tiếng và là một nhà thơ được nhiều người biết đến.

 

     Năm mười tám tuổi vừa học hết lớp mười hai, trong dịp nghỉ hè, cấm trại cùng bạn bè tại một vùng quê hẻo lánh. Bà tình cờ quen được một anh chàng cũng cùng sở thích như bà. Hai tâm hồn mơ mơ, mộng mộng gặp nhau rồi yêu nhau giữa đêm trăng sáng. Những dòng thơ tình ái của anh ta đã cuốn hút bà vào một thế giới riêng. Với bao lời hứa hẹn, vội tin bà đã trao hết những ân tình thắm thiết của đời mình và nghĩ rằng cuộc tình ấy sẽ vĩnh viễn thuộc về nhau. Đêm trăng sáng, về đêm càng sáng thêm, bà như nửa say, nửa tỉnh, lâng lâng đầu ngã người trên tay chàng và thầm ước cuộc đời nầy luôn thật đẹp như vầng trăng sáng trên cao đang gieo bao niềm hy vọng vào lòng nhân thế. Và, chàng cũng thế. Những giây phút im lặng là khoảnh khắc để thưởng thức những mật ngọt yêu đương ấy, hai người dường như đã đạt đến đỉnh cao khoái lạc trong cuộc đời.

 

     Đêm hạnh ngộ nào dù vui hay buồn rồi đến lúc cũng phải chia tay, giọt nước mắt bùi ngùi lưu luyến, chỉ còn dẳng lại trong tai những lời hứa hẹn, rồi đường ai nấy đi. Hy vọng một ngày gần nhất ta sẽ bên nhau và bên nhau mãi mãi. Nhưng, xót đau bà cứ ngóng trông từng ngày mà chẳng thấy người trở lại. Còn người đi xa thì quên mất lời hứa ban đầu. Đêm tàn- đêm qua mau bà cứ trăn trở, sụt sùi, tuổi xuân thì dần dà héo khô, ngã mầu theo thời gian từng nhịp gỏ. Chịu đựng- chịu đựng ngần mấy chục năm trời, để rồi chỉ còn nghe hai tiếng phụ bạc và người ấy đã thành gia thất mà chẳng nói một câu.

 

     Thế thì đời xem như đoạn tuyệt, tình coi như dở dang. Biết vậy, nhưng bà vẫn cứ nuôi hy vọng dù hy vọng ấy rất mỏng manh và không bao giờ đến với bà. Đặc biệt với những năm tháng hận tình lẽ ra người đàn ông ấy bà không thể nào tha thứ hay nói cách khác là ghét cay, ghét đắng. Ngược lại bà cứ yêu chàng mãi mãi, yêu như yêu những ngày đầu nơi xóm vắng, yêu như yêu chàng giữa lúc dưới trăng, yêu cho tận đến ngày nay. Chính vì sự yêu ấy, với những lúc u buồn thầm nhớ, bà hay mượn những dòng thơ để an ủi khuây khoả lòng mình. Và, cho người mình yêu biết rằng bà vẫn luôn luôn chung thủy suốt cuộc đời.

 

     Ngần bốn mươi năm ấp ủ một mối tình, gần nửa đời người chung thủy với yêu thương, gần một quảng đời làm thơ tưởng nhớ, qua một kiếp làm thầy bà tự nhũ lòng, đời người là con số và sự may mắn. Ai ai cũng có cái số; Sự may mắn cả.

 

     Nhưng riêng bà như một áng mây đen và những giọt nước mắt héo mòn từ từ rơi trên má…….!

 

Thủy Điền

 

09- 04-2017

 

 

 

 

Truyện Ngắn: Thủy Điền

 

 

Ähnliches Foto

 

 

 172- Thành Phố Nhỏ Của Tôi

 

   Sáng đi làm, chiều tan sở về ngày nào cũng thế, tay trái xách chiếc cặp da, tay phải che cây dù đi ngang qua cái Nghĩa địa lớn của tỉnh gần nhà hắn. Hắn thường hay dừng lại một chút nhìn về phía cây cỗ thụ xa xa trong Nghĩa địa và thầm bảo:  Có lẽ ! Chắc cuối đời, mình phải nằm dưới gốc cây của thành phố nhỏ nầy quá. Và, chắc chắn là như thế.

 

     Hắn sang Châu âu nầy đến nay hơn ba mươi bảy năm rồi, được học hành đàng hoàng và có chỗ làm việc nhẹ nhàng như dân bản xứ. Hắn có một bà vợ tây, nhưng không có con cái gì cả. Cuộc sống của hắn rất thoải mái như một người tây thật sự. Nghĩa là hàng ngày chỉ biết đi làm tám tiếng, cuối tuần nghỉ, dẫn vợ du hí nơi đây, nơi đó và hàng năm được nghỉ phép thường niên cũng như những ngày lễ quốc gia hắn đều có một chương trình du lịch xa hẳn hoi. Chính vì thế mà hắn còn tồn tại với bà đầm cho đến khi qua đời. Còn như những anh chàng khác cũng lấy vợ tây và bắt bà Đầm mỗi ngày ngồi trước Tivi xem mấy ông chệt đánh Kung Fu thì hắn cô đơn lâu rồi.

 

     Năm nay hắn sáu mươi ba tuổi, chỉ còn hai năm nữa là đúng thời điểm hắn được nghỉ hưu. Số thời gian còn lại của cuộc đời sau đó,  hắn có thể làm bất cứ việc gì hắn muốn như: Về quê ở luôn hay đi du lịch vòng quanh thế giới mà vẫn có tiền xài cho đến khi qua đời. Ngược lại hắn không có ý định như thế mà cứ trầm ngâm suy nghĩ đâu đâu, rất nhiều lần bà đầm của hắn rất bực bội, thí điều muốn ly dị hắn. Nhưng bà nghĩ già rồi ai làm thế, đó là điều không nên. Vì bà không thể sống với một con người càng già, càng kỳ hoặc. Không bao giờ biêt nghĩ đến sự sung sướng, hưởng thụ mà toàn là là nghĩ đến cái chết và luôn chọn cho mình một chỗ yên thân thật tốt.

 

     Một buổi tối cuối tuần, hai vợ chồng đang ngồi ăn buổi ăn chiều muộn, vừa ăn xong. Hắn bảo: Mình nầy ta chọn một ngày nào đó mình sẽ đến thành phố đăng ký mua miếng đất nhỏ trong Nghĩa địa gần nhà để khi tôi qua đời có mà  chôn nhá mình. Bà đứng dậy nổi máu xung thiên quát cho hắn một trận: Ông có điên không? Ông thấy mình nói hơi lố, nên ngồi im lặng, mặc cho bà mắng thế nào thì mắng. Lẽ ra khi nói những điều mà bà không chấp nhận, ông nên dẹp bỏ những ý nghĩ ấy đi. Nhưng không ! Chiều nào vào buổi ăn xong, ông cũng điều bàn đến chuyện ấy. Nghe mãi nhàm tai, bà bỏ mặc. Kệ  ông, ông muốn làm gì thì làm, tùy . Đừng bàn chuyện nầy trước mặt tôi nữa.

 

     Và, để chìu chồng, một sáng thứ hai, hai ông bà đến Thành phố hỏi và đặt mua miếng đất trong Nghĩa địa, người ta đồng ý và đưa ông bà đến nơi để chọn lựa, ông không cần suy nghĩ rồi chọn ngay dưới gốc cây cỗ thụ mà bấy lâu nay ông hay đứng nhìn nó. Khi đã thỏa thuận giá cả ông chấp nhận và chỉ còn việc chuyển tiền trả vào tài khoản của Thành phố là miếng đất ấy thuộc quyền sở hữu của ông ngay..

 

     Khi ra về  ông rất là hớn hở, còn bà thì mặt bí xị như cái bánh bao chiều. Ông vừa đi, vừa gợi chuyện, nhưng riêng bà thì vẫn lặng thinh cho đến khi về đến nhà.

 

     Gần hơn một tháng trời hai vợ chồng chọi nhau như mặt trăng, mặt trời chẳng ai muốn đá động gì đến ai cả. Nhưng thời gian rồi cũng nguội dần đi. Bỗng một hôm bà nhớ lại chuyện cũ và hỏi? Sao ông lại làm thế ông Nhân? Ông vui vẻ trả lời: Tôi đã lấy bà hơn hai mươi lăm năm nay, bà là người sanh đẻ ở tỉnh nầy, cơ duyên tôi từ Việt nam đến đây tỵ nạn, gặp bà cũng ở đây, sống và làm việc trong thành phố lớn nầy và khi mất đi tôi muốn thu mình vào thành phố nhỏ thân yêu nầy để suốt một đời chung thủy với cả hai.

 

     Thật chuyện gì rồi cũng đến, sau khi nghỉ hưu được một năm, hai ông bà về Việt nam thăm quê được hai lần, rồi bắt đầu ngã bệnh và qua đời giữa một đêm trăng sáng. Để thoả nguyện lòng hắn bà làm y như những gì mà trước đó hắn đã dặn dò. Khi chôn cất Nhân xong bà bảo: Nhân thật là một con người chung thủy và đáng quý trên cõi đời nầy và than thở ….. còn mình mai mốt sẽ ra sao…….!

 

Thủy Điền

01-04-2017  

 

 

171- Những Ngày Đen Tối

 

Sau trận pháo liên hồi vọng từ hướng chùa Ông nhắm thẳng về Dinh Quận và Trung tâm huấn luyện ĐPQ và NQ Tân hiệp. Hơn nửa tiếng nằm chịu trận dưới thân cây Dừa cong bắt qua con kênh nhỏ và đìa cá Tra. Tôi và lão lò mò leo lên bờ. Thân tôi thì ướt đẩm, còn lão thì cả người được Bèo và Lục bình bám quanh.

 

     Lão là một Giáo chức và là Hiệu trưởng trường tôi theo học nhưng cũng là người hàng xóm với tôi gần năm nay. Nhà tôi cách nhà Lão chỉ một đìa cá Tra và con đường nhỏ khoảng hai mươi mét bề ngang. Thỉnh thoảng những lúc rảnh rổi tôi cũng hay thường sang lão tâm sự vào những buổi chiều. Đặc biệt lão cũng có cô em gái út khá đẹp, dễ mến hay rủ tôi sang nghe cô ta vừa đàn, vừa hát vào những đêm trăng.

 

     Những ngày tháng cuối tháng tư năm 1975 tình hình chiến sự ở quê tôi rất nóng bổng và ở nơi khác cũng thế. Hàng ngày vào những buổi chiều là dường như nơi đây phải hứng chịu ít nhất là năm quả pháo từ phương xa bay đến. Bởi thế, dân làng đã đùm túm tản cư đi làng khác gần cả tháng nay. Chỉ còn lác đác một vài thanh niên ở lại để trông nhà. Trong số đó có tôi và lão. Tuy biết chiều nào cũng có những đợt pháo rất nguy hiểm. Nhưng tôi với lão vẫn dửng dưng và cho việc gì đến sẽ đến. Hai thầy trò thường xuyên luân phiên nhau nấu nước trà rồi ngồi trên miệng giếng vừa uống, vừa tâm sự suốt cả buổi chiều và có khi kéo dài đến tối mới chịu về ngủ.

 

     Một hôm khoảng năm giờ chiều, trời còn sáng rực, vừa nấu ấm trà xong, định uống và vô đề tào lao. Tôi nghe từ xa vọng lại một cái “TOON ! Quen thuộc và đoán ngay là tiếng pháo kích. Tôi la lớn: Thầy ơi pháo kích. Lão bảo: Bậy bạ mầy, rồi tôi nhẩy ngay xuống con kênh nhỏ cạnh nhà tôi, nấp dưới lưng gốc Dừa. Lão còn ngồi đó nhịp đùi và khi nghe tiếng nổ cái “Rầm “ Cách đó gần ba trăm mét. Lão lao nhanh xuống đìa cá Tra, với bộ đồ tây bỏ vào quần hẳn hoi, lão không cần biết dưới cái đìa ấy có cái gì cứ nấp và cứ nấp dưới đám Lục bình để ẩn thân. Rồi cùng số phận như tôi chịu trận dưới nước hơn nửa tiếng đồng hồ. Nói chung nấp là nấp vậy, chớ rớt ngay hay gần bên thì cũng tiêu tán thoòng vì xung quanh chẳng có gì bảo vệ, chỉ có nước mà thôi.

 

     Khi lên bờ tôi thì ướt nhẹp, nhưng còn được, chỉ tấm nhẹ là sạch trở lại ngay. Còn lão thì hổi ôi, râu ria tùm lum và nhất là bộ đồ vía màu trắng bổng thành bộ đồ đen xám và phải tắm ít nhất ba ngày thì mới hết cái mùi thơm đặc biệt.

 

     Qua ngày sau tình hình yên ổn trở lại và cảnh trà chén cũng y như cũ. Khi đang ngồi uống trà, trời bắt đầu dần tối, lão cầm trên tay cây đàn của cô em gái khãy và hát bài “Giọt Mưa Trên Lá “ Lão đang hứng hát khúc “Giọt mưa trên trên lá, lác đác là đà………! Tôi ghẹo lão: Thầy ơi pháo kích. Lão không cần biêt ất giáp gì hết quăng cây đàn định nhẩy xuống đìa cá Tra lần nữa. Tôi ngăn lại và bảo: Thưa thầy em nói chơi và củng là tập cho thầy đoán trước sự việc, chứ như lần trước thầy nhẩy muộn quá, nếu quả pháo rớt ngay hay gần bên thì cô mồ côi đó thầy.

Lão cười…cái thằng vịt  vật và thụi nhẹ vào hông tôi một cái.

 

Thủy Điền

 

26-03-2017

 

 170- Cổng Đời

Vào Đã Khó, Ra Cũng Chẳng Dễ

 

Sau tám tuần nằm Viện về, chiều nào hắn cũng ngồi trước hiên nhà, tay phải thoa thoa phần tay trái còn lại và thầm bảo: Mẹ ! Đời cái gì cũng có giá của nó cả.

 

     Năm hắn vừa tốt nghiệp trường trung cấp Vật giá tức trường trung cấp Kinh tế. Lẽ ra, hắn phải lên đường về các tỉnh để nhận công tác như các bạn cùng khóa của hắn do nhà trường phân công. Ngược lại hắn không chấp hành và bỏ cuộc. Ý hắn là muốn tự kinh doanh chứ không muốn làm cho cơ quan nhà nước. Bố mẹ hắn rất bất bình điều nầy, nhưng không ngăn cãn được. Và, cuối cùng cũng phải bỏ ra một số tiền khá lớn để cho hắn kinh doanh. Phải nói hắn có đầu óc kinh doanh thật. Thời gian còn đi học, lúc sáu tháng đi thực tập để làm Đồ án tốt nghiệp hắn có cơ hội được tiếp xúc với nhiều nhà Kinh doanh như: Nuôi cá, chế biến thực phẩm, trồng cây rau sạch v.v…

 

     Khi tốt nghiệp xong, hắn bỏ ra gần hai tháng đi rong các nơi, hắn tìm hiểu đủ thứ và điểm dừng là miền tây để thực hiện phương án nuôi cá Basa. Bước đầu hắn mướn hai mẩu đất gần cuối nhánh sông Sở Hạ tại Đồng tháp và mướn Xáng đào mô hình theo ý hắn. Năm đầu tiên thực hiện hắn thâu được kết quả rất đáng kể (Xem như thành công) Thừa cơ hội hắn vai thêm tiền của ngân hàng phát triển Nông nghiệp tỉnh rồi mướn thêm năm mẩu đất khác cạnh gần đó và cũng làm y như mô hình ban đầu. Cuộc hành trình của hắn như Diều gặp gió. Chỉ trong vòng ba năm thực hiện hắn đã trở thành một Đại gia khi tuổi đời mới vừa hai mươi bảy.

 

     Nhưng không may, đến năm thứ tư không biết nhà Chế biến thực phẩm cá gặp khó khăn gì mà không trả tiền cá cho hắn. Đợi chờ- đợi chờ mãi gần một năm trời chẳng thấy đồng nào Công ty chăn nuôi của hắn cũng bắt đầu gặp khó khăn về mọi chi trả như: Công nhân, tiền thuê đất, tiền thức ăn, tiền vốn , lãi ngân hàng. Buộc hắn phải bán tất cả tài sản cố định mà chẳng đâu vào đâu. Ngân hàng càng lúc càng hối thúc và cuối cùng hắn phải vai tiền tư nhân tiền lãi rất cao để trang trải. Hầu hy vọng, chờ đợi nay mai nhà Chế biến sẽ thanh toán. Nhưng cuối cùng nhà Chế biến đã biến mất và hắn xem như là kẻ trắng tay.

 

     Số tiền nợ công nhân, ngân hàng, tiền mướn đất, thức ăn đã được giải quyết một ít nên không sao, nhưng tiền vốn và lãi tư nhân là điều quan trọng vì những số tiền nầy đều nằm trong tổ chức xã hội đen. Bởi thế hắn bị lọt vào thế đường củng.

 

    Sau những tuần lễ thương lượng với chúng, hắn có ba cách lựa chọn “Trả, chết và làm việc cho chúng, thì số nợ lớn ấy sẽ được xóa “ Kết cuộc hắn đành chọn phương án thứ ba. Phương án nầy là phải xem cái chết và tù tội như không và phải có máu mặt với hai mươi Đệ tử. Nói là phải làm, một một- hai hai không nói lời thứ ba. Khi hai bên đã thống nhất, hắn được giao nhiệm vụ tại tỉnh nhà của hắn. Nhiệm vụ của hắn là phải lo khâu thâu tiền lãi, thuế đen các tiệm, quán hằng ngày và giải quyết những toa hàng mà khách đã đặt sẵn như đánh ghen, thù hận v.v…

 

     Qua hai năm làm việc với nhập thu rất lớn, hắn được đàn anh cho xóa nợ và sau ngày ấy hắn được chính thức ăn lương và muốn cái gì cũng đều được cả. Cũng may cho hắn, là nhờ có chút kiến thức học vấn nên hắn chỉ nằm nhà tính toán và điều động đàn em làm việc mà không gặp khó khăn chỉ xãy ra vài vụ với băng nhóm khác không đáng kể.

 

     Từ một nhà Kinh doanh rồi trở thành trưởng Băng nhóm xã hội đen hắn luôn nghĩ đây đâu phải là cái nghề của mình. Đó chẳng qua là hoàn cảnh, khi nợ xong mình sẽ nghỉ và không làm nữa. Một hôm các chúa của các tỉnh về họp rút kinh nghiệm, hắn nói với đàn anh hắn xin thôi, không tiếp tục. Đàn anh cười cười mà chẳng trả lời. Khi trở về hắn tự động giao lại cho người kế vị rồi giải nghệ không tham gia vào giới giang hồ nữa.

 

     Đúng một tháng sau khi tự nghỉ, hắn trở lại bình thường và chẳng thấy ai nói động gì đến mình, hắn ngỡ là đã yên ổn mọi việc và nay mai có thể làm một công việc khác, tuy ít tiền, nhưng lương thiện hơn.

 

     Nhưng không ngờ ! Đêm ấy vừa đi uống Cà phê ngoài ngõ về, một nhát Dao chém lén từ phía sau bay tới đã cắt đứt nửa cánh tay trái của hắn rơi xuống đất máu chảy……và máu chảy lênh láng.

 

Thủy Điền

 

19-03-2017

 

 

169-Canh Vịt Tiềm

 

Bà sáu đứng ngoài lan can căn chung cư lầu bốn vọng xuống:

-         Hùng ơi Hùng, ngưng đá bóng đi cháu, mau lên nhà tắm rữa, ăn cơm, đi ngủ,  mai còn đi học . Trời tối rồi cháu. Bà đã dọn cơm sẵn. Mau lên! Mẹ cháu sắp về rồi đó.

-         Dạ, con lên ngay.

-         Ừ.

 

     Từ ngày ba mẹ nó mở cái quán ăn ngoài đầu phố, nó dường như thấy và sống gần bà ngoại nó nhiều hơn. Tối nó ngủ xong thì ba mẹ nó mới lò mò về, sáng nó dậy đi học thì ba mẹ nó còn ngái ngủ. Mọi việc ăn sáng, đưa đón đi học, cho ăn trưa, ăn chiều đều một tay bà ngoại làm hết. Bà già đâu có biết tiếng tây, nên mỗi khi nói chuyện với nó đều bằng tiếng việt, ngày nầy qua tháng nọ nó hiểu và nói tiếng mẹ đẻ rất rành. Những đứa trẻ cở nó sống bên tây nầy đều thua nó cả. Nó nói giọng người việt một trăm phần trăm. Đặc biệt nó chỉ biết ăn đồ việt nam còn những món đồ tây là nó không thích lắm. Mới tám tuổi mà ăn bún riêu thiếu rau muống hay mấm tôm là nó chê ngay hay ăn vịt tiềm thuốc bắc mà thiếu kim châm, núm mèo, núm Tonko, bún tàu là nó biết liền.

 

     Bà ngoại nó thấy nó có một mình, thiếu tình cảm cha mẹ nên bà rất thương và chìu chuộng nó đủ thứ. Hàng ngày nó hay nói với bà khi ăn cơm là nó thích ăn món vịt tiềm thuốc bắc bà nấu nhất. Nên cách một vài ngày là bà nấu cho nó ăn. Mỗi khi bà nấu xong là nó ôm hôn bà lia lịa. Bởi bà làm đúng ý nó.

 

     Một hôm đang ngồi ăn, nó thỏ thẻ với bà:

-         Ngoại ơi, cháu thì thích ăn món nầy, mà chưa bao giờ cháu thấy bà mút cho cháu miếng thịt vịt nào, toàn là bà mút nhằm xương cho cháu không? Ngoại nó cười.

-         Bà cũng không biết sao nữa, bà mút đại, chắc cháu xui đó, ngày mai bà để ý hơn, bà mút thịt cho cháu nha. Thôi bà mút lỡ rồi cháu ăn đi, bỏ thừa mang tội lắm.

-         Dạ, mai ngoại mút thịt cho cháu nha.

-         Ừ. Hùng của bà ngoan lắm.

 

     Thật tình thì trong nồi vịt tiềm thuốc bắc của bà làm gì có thịt mà mút. Bởi hàng ngày mẹ nó mua nguyên con vịt ở chợ về, rồi lóc thịt ra để dành bán cho khách, còn lại những bộ xương, ngoại nó tiếc nên mang về để trong đông lạnh và nầu từ từ hai bà cháu ăn. Bà nghĩ bỏ uổng, hơn nữa bộ xương nấu nước tiềm rất ngọt, hai bà cháu ăn qua ngày cũng được rồi. Ai ngờ ! Nó vô tình phát hiện và nói lên, khiến bà cũng thấy ái ngại vô cùng.

 

     Bà đêm ấy ngồi thức chờ ba mẹ nó về, lúc nó đang say ngủ, bà học lại tất cả câu chuyện. Rằng, thằng Hùng hôm nay nó nói, lâu rồi, nó chỉ toàn ăn xương mà không thấy thịt. Tao mắc cở với nó rối đành nói khéo và hứa với nó ngày mai cháu sẽ được ăn thịt vịt, vậy mai bây mang về cho tao nguyên một con để tao nấu cho nó ăn, chớ tao thấy bấy lâu nay mình có lỗi với nó lắm rồi.

 

     Dạ, được mai con làm theo ý mẹ. Nghĩ cũng xấu hổ cứ lo cấm cúi cái tiệm, kiếm ba đồng bạc mà quên chú ý đến con. Thật tệ . Con xin lỗi mẹ và thằng Hùng, từ đây về sau con sẽ quan tâm mẹ và thằng Hùng nhiều hơn.

-Thôi tối rồi mình đi ngủ đi mẹ.

-Ừ.

 

Thủy Điền

 

11-03-2017

 

 168- Thương Người, Người Chẳng Thương Ta

 

   Gần tháng nay, trong một làng nhỏ, khoảng gần một ngàn dân, nằm ngoài ngoại ô một thành phố lớn, đang xôn xao, bàn tán về chuyện một bệnh viện chuyên trị về bệnh ung thư sắp được dời ra nơi đây. Việc bàn tán nầy cũng có nhiều người ưng thuận, nhưng cũng không ít số người chống đối. Và, người ủng hộ nhiều nhất đó là bà Lorenz.

 

     Bệnh viện nầy đã có hơn năm mươi năm tuổi, được xây dựng ngay trung tâm thành phố. Hồi đầu dân số ở đây rất ít, sự vận chuyển bệnh nhân từ xa đến tương đối dễ dàng, không phiền hà nhiều người. Nhưng qua thời gian, mật độ dân càng lúc càng tăng cộng sự phát triển của thành phố về mặt địa ốc nên phương tiện giao thông càng bị eo hẹp hơn và điều quan trọng khác là bảo vệ mội trường nên thành phố quyết định dời bệnh viện nầy đi nơi khác gần mấy năm nay và cuối cùng tìm được một nơi rất thích hợp, cách ngoại thành khoảng mười lăm cây số. Nơi nầy vừa ít dân, vừa thoáng khí và dễ dàng liên kết các hướng giao thông từ mọi nơi.

 

     Khi chọn địa điểm xong, nhà nước cũng không tránh khỏi làn sóng phản đối của dân bằng những cuộc biểu tình táo bạo “Không chấp nhận “ Vì họ rất sợ khi nghe hai tiếng ung thư và lấn chiếm một diện tích đất khá lớn của họ. Mặc dù phần đất nầy nhà nước đã đền bù rõ ràng. Nhưng bản chất họ là người nông dân họ rất bảo thủ.

 

     Trước làn sóng chống đối ấy, ngược lại cũng có khá nhiều người tán thành và cho đây là sự ích lợi chung. Trong số nầy có người rất hồ hởi phấn khởi vô cùng. Đó là bà Lorenz, bà là một nông dân chân chất cũng giống như bao gia đình nông dân khác và bà cũng cùng số phận là bị mất một diện tích đất khá lớn chứ đâu phải không. Nhưng bà rất vui. Chính vì sự ủng hộ ấy mà ngày nào hể gặp ai là bà bà cũng đều đem chuyện nầy ra bàn tán. Có người thích thì đứng nghe bà nói, còn người không thích thì mỉa mai đi luôn. Có điều đặc biệt là chồng bà từ lúc đầu cho đến khi thành hình bệnh viện chỉ lặng câm chẳng nói lời nào. Bà nói thế nào thì bà nói, ông chẳng chống đối hay ủng hộ vì cả.

 

     Vì quá ủng hộ mà bà vô tình thốt lên những câu nói mà thiên hạ, những người láng giềng choáng váng như: Có cái bệnh viện nầy gần bên thì tốt lắm, nếu nay mai chúng ta có bệnh ung thư thì rất là tiện, chỉ trong vòng năm, mười phút là có người chữa trị cho ta ngay, khỏi cần phải lòng vòng đi xa nguy hiểm và mất thời gian. Khi nghe bà nói xong thiên hạ chỉ biết ôm đầu mà không biết phải trả lời với bà như thế nào. Thật lòng thì bụng dạ bà rất tốt, nhưng vì trước khi nói không lựa lời nên dễ bị hiểu lầm cũng như làm mất lòng người đối diện và kể từ đó bà bị rất nhiều người trong làng nguyền rũa cho bà là một con người ác độc.

 

     Một hôm khi bệnh viện đang khánh thành, chồng bà từ quán nhậu ngoài phố trở về, ngồi bệt trên bộ Salon phòng khách và nói: Tôi chưa từng thấy ai như bà, thuở đời lại vái, trù cho mình được bệnh thập tử, nhất sinh để được vào bệnh viện cho nhanh và gần và còn tệ hại hơn bà đi trù cho cả làng nầy nữa, để ngoài đường giờ ai gặp tôi cũng đều tránh né.

 

Thủy Điền

 

08-03-2017

 

 167-Vua Rượu Đế 2017

 

Khi Ban Tổ chức tuyên bố hắn là người chiến thắng với danh hiệu “Vua Rượu đế 2017“ Và được lãnh số tiền thưởng là năm triệu đồng, cũng là lúc hắn không còn biết gì nữa và nằm bẹp trước khán đài. Mọi việc còn lại đều do vợ hắn thay thế.

 

   Hắn là người dân sống trong thôn chuyên sống bằng nghề mỗ lợn, bò và các thú vật khác. Mỗi năm đúng ngày mồng một tết là hội mỗ lợn tổ chức nguyên một ngày thi nhậu rượu đế để chọn ra một “Vua rượu đế “ và có thưởng với giải năm triệu đồng.

 

   Mấy năm trước năm nào hắn cũng đi thi, nhưng vì tửu lượng còn kém nên đều bị trượt cả. Năm vừa qua hắn cố gắng tập luyện để chuẩn bị cho mồng mười tết năm nay đi thi lại. Mặc dù mỗi ngày luyện tập hắn rất mệt và bị người nhà mắng nhiết vô vàn, nhưng hắn vẩn câm nín và nhịn nhục tất cả. Mục đích sẽ dành chiến thắng.

 

   Trước khi vào cuộc thi, hắn phải làm thủ tục đăng ký như bao người khác, sau đó được cho mượn cái mâm nhôm và phải mua số thức ăn tùy theo sở thích của mình như: Lòng, thịt v…v. và số rượu theo tửu lượng của mình, nếu không đủ được phép mua thêm còn số rau cải và nước chấm miễn phí. Nói chung mỗi mâm nhậu dự thi trị giá tối đa khoảng một trăm ngàn.

 

   Khi giai đoạn chọn lựa thức ăn và mua rượu xong, ai về vị trí nấy, đã được phân chỗ sẵn và đúng tám giờ sáng Ban Tổ chức bắn súng pháo là tất cả bắt đầu nâng chén.

 

   Cả hơn năm chục người trong thôn, tuổi từ mười tám trở lên ngồi dọc theo hai bên lề đường tha hồ hò hét ăn nhậu, có nhiều tay rất mạnh chỉ trong vòng hai giờ là uống hết cả lít và đi mua thêm rượu khác, rồi cũng có kẻ mới vài ba xị là quắt cần câu, bắt đầu nhề nhệ nằm bẹp, dài theo hai bên vệ đường trông rất thê thảm.

 

   Đến gần đứng bóng, hàng chục người như cây nhang tàn rũ ngọn, chỉ còn lưa thưa, lác đác năm ba người còn uống trông rất khỏe, trong đó có hắn. Ai ai cũng ngạc nhiên cái thằng A Lìn nầy năm nay oai thế, hắn uống từ tám giờ sáng đến bây giờ mà vẫn chưa say, mọi lần khoảng một tiếng là hắn nằm ngay bụi chuối rồi.

 

   Quả thật như mọi người dự đoán đến mười lăm giờ trưa ai ai cũng đều xỉn trất, rớt đài dài dài. Chỉ còn riêng một mình hắn là người  tỉnh khô và trước mặt đã hết một lít rưởi rượu đã mua cũng như ba trăm gramm lòng lợn hắn ăn sạch sẽ. Nếu Ban Tổ chức tuyên bố hắn thắng cuộc ngay liền lúc đó thì hắn có thể tự về nhà được. Nhưng Ban Tổ chức chờ mãi đến năm giờ chiều mới tuyên bố . Rượu càng lúc càng thấm dần vào cơ thể, nên khi họ tuyên bố hắn là “Vua rượu đế 2017 và đoạt giại thưởng là năm triệu đồng xong và cũng là lúc hắn ngã cái “Rầm “ Không biết gì nữa hết. Vợ hắn phải đích thân lãnh giải thế hắn và sau đó thân nhân phải võng hắn xuyên bốn cây số đường đồi.

 

   Không biết khi về đến nhà số phận hắn sẽ ra sao khi trong người chứa tròn một lít rưởi rượu ngà cay, đắng……….!

 

Thủy Điền

 

26-02-2017

 

 166- Lỡ Bước

 

Từ lúc nhận giấy báo hưu trí- về Việt nam- mua đất- cất nhà- ở cho đến nay là ngoài một năm rồi. Ngày nào hắn cũng đi ra, đi vào rồi bệt trên chiếc băng dài trước hiên nhà, tay xoa xoa gương mặt buồn và tự hỏi? Tại sao kỳ cục thế, hồi gần hưu trí anh em, bè bạn ai cũng bảo: “Chừng nào mầy hưu trí, mầy về Việt nam sống với tụi tao cho có  anh em“ Thế mà, khi về rối, mãi đến nay chẳng có con ma nào đến thăm hỏi mình cả. Thật thất vọng vô cùng.

 

     Hắn là một Ngư dân được sanh ra và lớn lên ở vùng biển Phan thiết. Từ nhỏ học hành chẳng được bao nhiêu rồi theo cha đi làm nghề biển cho đến khi đi vượt biên chỉ biết cá và biển mà thôi. Cho nên khi sang nước ngoài sống, ngoài giờ đi làm việc về, hắn chỉ biết ngồi nhà hoặc lâu lâu cùng mấy anh em đồng nghiệp Việt nam nhậu một trận tơi bời. Ngoài ra chẳng có một người bạn tây nào cả để trò chuyện vào những lúc rãnh rỗi hay tham dự những buỗi tiệc tùng do người tây tổ chức. Chính vì lẽ ấy hắn dường như  trong thế bị đọng; cô đơn và trong đầu luôn luôn vọng quốc. bởi nên, khi có ý định về Việt nam sống, hắn thường có những hành động giao cảm trước để khi về sẽ không gặp khó khăn như: Ai cần gì thì hắn cũng giúp đỡ như cho mượn tiền làm ăn, trị bệnh v…v. Mỗi khi đưa tiền cho ai đó, ý hắn là cho mượn, nhưng người nhận tiền thì lại nghĩ khác (Giữa hai không rõ ràng qua hình thức giúp đỡ) Nên về sau có nhiều chuyện đáng tiếc xãy ra.

 

     Thời gian- rồi thời gian trôi qua và ngày ấy đã đến, sau khi nhận giấy hưu hắn không chần chừ và trở về Việt nam ngay, xây nhà và ở luôn tại Phan thiết quê cũ của hắn ngày xưa cho đến nay.

 

     Nói mới về Việt nam mua đất cất nhà thì cũng chưa đúng, việc nầy hắn đã chuẩn bị từ lâu rồi như đã nói ở trên. Hắn ở xứ người, nhưng hắn không rành rỗi về tiếng tăm cũng như không hiểu hết nền Văn hoá của xứ sở tại, cộng bao lần về quê đãi đần bạn bề ăn nhậu, thiên hạ nói qua loa gây tình cảm đẹp, hắn ngỡ thật, cứ tưởng ai cũng tốt với mình. Nhưng khi về ở luôn thì mới vỡ lẽ mình bị nhầm. Vì lúc trước với tư cách là Việt kiều về thăm quê, cái gì hắn cũng chi hết nên ai cũng đến với hắn, còn bây giờ ở luôn hắn chỉ có đồng tiền hưu trí cố định, hắn không thể bao thầu hằng ngày như những lúc làm Việt kiều được nên mọi người đều tránh xa. Và, một việc quan trọng nữa là những món tiền ngày trước hắn đã từng giúp đỡ cho những người làm ăn, trị bệnh bây giờ hắn muốn lấy lại để hắn bồi đấp ngôi nhà cho khang trang, nhưng chẳng ai chịu trả và tìm mọi cách xa dần hắn. Chính vì những lẽ trên mà hơn năm nay khi về đến quê nhà, ở thật sự, hắn còn thấy cô đơn nhiều hơn khi còn ở ngoại quốc. Ở ngoại quốc tuy ít ỏi, nhưng vài ba tuần cũng còn có vài người đến nhậu với hắn hoặc ngược lại. còn ở đây chẳng thấy con ma nào ghé thăm, hỏi? một tiếng “Khỏe không” Hoặc khi đến thăm bạn thì bảo bố chẳng có ở nhà.

 

     Buồn thay, mỗi khi về chiều, sắp tắt đèn đi ngủ hắn thường hay đọc tám câu thơ như tự an ủi lòng cho một người lỡ bước.

 

Đầu hai thứ tóc vẫn còn ngu

Mắt sáng như pha, bỗng lại mù

Trời trong lại bỗng âm u

Cái thân, cái thiện giờ như oán thù

 

Khi còn Kiều bạn bè  một lũ

Khi hết Kiều thân biến mất tiêu

Chỉ còn lại những buổi chiều

Ngồi nghe Tu hú, chim kêu ngoài đồng.

 

Thủy Điền

19-02-2017

 

 

165-Vĩnh Biệt Anh Yêu

 

Thông lệ thì cứ khoảng 16 giờ 30 chiều là Chỉnh về đến nhà. Khi thấy chiếc BMW quẹo vào cổng là Sabine đứng ngay trước cửa cái chờ chàng m cửa và tặng một hụ hôn. Nhưng hôm nay thì không, chẳng thấy nàng đợi như mọi ngày và cái Ti-Vi nhà ở phòng khách vẫn còn bật, các Tài tử Hongkong còn đang trình diễn bộ phim tập “Tề Thiên Đại Thánh “

 

     Năm 1979 Chỉnh cùng gia đình đi đăng ký hợp pháp và sang định cư tại Tây Đức. Sau một năm học tiếng đức cùng mọi người xong xuôi, chàng xin đi học nghề tiếp và tìm được một công việc cách nhà 30 cây số. Trong thời gian nầy chàng cũng quen được một cô gái Đức đồng nghiệp, rồi kết bạn và dọn ra ở riêng cách nhà cha mẹ vài cây số gần đó. Vì còn bản tính Việt nam và đồng lương của chàng cũng tương đối đủ sống nên chàng khuyên nàng khỏi đi làm, cứ ở nhà mọi việc có chàng lo tất cả. Khi nghe chàng nói, nàng đồng ý ngay và mọi kế hoặch bắt đầu được tiến hành. Có nghĩa là hàng ngày chàng chỉ biết đi làm, còn nàng ở nhà chuyên công việc nội trợ mà thôi. Sau những giây phút nấu nướng, dọn dẹp nhà cửa nàng còn trống rất nhiều thời gian. Và, những giây phút nầy chàng chạy đi mướn cho nàng hàng chục bộ phim tập Hồng kong để nàng tự do giải trí trong lúc vắng chàng.

 

     Mới qua Tây ở, không riêng gì Chỉnh mà người khác cũng thế, ai mà hiểu hết nền Văn hóa của họ. Như ngày Sinh nhật, ngày Valentine, Ngày Giáng Sinh hay cuối tuần v…v Cần phải làm như thế nào để cho vừa lòng nhau. Điều nầy Chỉnh chưa hoàn toàn thấu rõ, chàng cứ nghĩ như ở quê nhà cưới vợ, về sống chung, lo cho nhau là được. Nhưng Sabine lại khác dù hòa nhập với Chỉnh trong mọi lĩnh vực, nhưng lúc nào nàng cũng nhớ rõ những phong tục, tập quán như vừa kể trên một cách thấu đáo và cần phải có cho một người Đức. Dù người ấy đang sống trong một gia đình hoàn cảnh nghèo hay giàu. “Xin nói thêm là sau Đệ nhị Thế chiến, hòa bình được lập lại, người dân Đức tổ chức lại xã hội rất trật tự và cuộc sống rất công bằng. Ở Đức khó ai phân biệt được người ấy giàu hay nghèo. “

 

     Cứ đinh ninh như ở quê nhà, hơn nữa ngày nào cũng mãi đi làm việc, chiều về mệt mỏi quên mất, không tìm hiểu vể cách sống của người đối diện mình. Ngày qua ngày, tháng qua tháng cứ ăn rồi ngủ, thức dậy ngồi trước màng hình nhìn mấy ông Chệt đánh tới, đá lui nàng bắc đầu sanh chán.

 

     Vào một ngày giữa tháng hai nàng nhắc Chỉnh, vài hôm nữa là ngày Valentine, ngày lễ tình nhân. thôi mình đi đâu đó vừa nghỉ ngơi, vừa ăn uống, vừa kỷ niệm hai năm chúng mình yêu nhau ví dụ như Paris, Luân Đôn hay Berlin nơi nào cũng được nha anh. Nghe nàng nói chàng chẳng thèm trả lời, trả vốn vì cả. Không biết vì phải bỏ ra số tiền quá lớn hay chàng không thích những kiểu cách nầy. Rồi lơ đãng và bỏ qua luôn. Lòng nàng rất giận, nhưng một khi có ý kiên mà người tình không ưng thuận thì biết làm sao bây giờ. Bởi, hai người chưa chính thức là vợ chồng nên cũng khó mà tranh cãi.

 

     Câu chuyện ấy tuy không vui vẻ, nhưng nàng chấp nhận cho qua. Và, vào dịp cuối năm năm ấy, lễ Giáng sinh nàng cũng đưa ra ý kiến mua tặng bên nhà nàng một ít để gọi là, vì đến ngày nầy chàng phải bỏ ra rất nhiều tiền cho chính gia đình chàng và gia đình cha mẹ chàng. Tuy, không từ chối lời đề nghị của nàng , nhưng vì bực bội, nóng tính chàng không tự kiềm chế và quát cho nàng một trận tơi bời. Nàng giận và để bụng mà chàng không hay.

 

     Một hôm chờ sáng, chàng vừa ra khỏi nhà đi làm việc. Ở nhà nàng soạn tất cả những gì riêng của mình, rồi ra đi không một lời từ giã.

 

Thủy Điền

12-02-2017

 

 

 

 164-Chiếc Áo Dài

 

Đang lúc làm việc, Michael bạn tôi xoay ngang gọi: Ê Điền! Bạn nhìn nè, tớ vừa bắt gặp một trang phụ nữ Việt nam mặc áo dài thật là tuyệt đẹp. Điền có đồng ý với tôi không? Chưa nhìn thẳng vào màng ảnh tôi nói: Đương nhiên, bạn làm BBT với tôi cả năm nay mà hôm nay mới thấy à. Ờ ! Mà mới thấy lần đầu bạn thấy đẹp là việc tất nhiên. Còn Điền? Riêng tôi thì ngày cũng thấy và lúc nào cũng đẹp. Và, anh ta cứ ngắm hoài hết hình nầy sang hình khác mà bỏ lơ công việc để tôi phải thầu hết.

 

    Thật tình đến từng tuổi nầy tôi cũng không thấu hiểu hết ý nghĩa của chiếc áo dài tại sao là như vậy. Một điều đặc biệt là trên Thế giới nầy chỉ có ở Việt nam ta thôi thật là ngộ nghĩnh vô cùng. Có lẽ vì không quan tâm đến nó mà không tìm ra xuất xứ, chứ rõ ràng thì cái nào cũng đều có xuất xứ cả. Mặc dầu khi nhìn một người phụ nữ mặc chiếc áo dài là tôi có thiện cảm ngay.

 

     Nó đẹp từ lúc tôi nhìn thấy từ thời còn học trung học. Ngày nào đi ngang qua trường Lê Ngọc Hân cũng đều thấy các cô mặc chiếc áo dài trắng thướt tha đang tung tăng như một đàn cò trắng . Rồi đến trường tôi cũng thế hàng trăm cô ngược xuôi với chiếc áo dài màu nâu (Vì ngày ấy tôi học Nông lâm Súc) Nên nam, nữ đều phải mặc đồng phục màu nâu cả trong rất hiền hòa và nhân hậu.

 

     Rồi khi bước vào trường Trung cấp cũng thế, lúc nào những chiếc áo dài trắng ấy cũng đập vào trong mắt tôi và những buổi chiều về tôi cũng thường hòa chung bên những tà áo ấy, đi bộ dưới hàng me ven đường trong rất tình tứ và thơ mộng và trong những tà áo nầy có cả nhà tôi bây giờ.

 

     Ngoài thời học sinh ra, tôi cũng như mọi người thường hay gặp vào những ngày lễ hội, đám đình, tết nhất. Tùy theo lễ hội hay đám đình tà áo dài hiện lên những sắc thái khác nhau. Khi người đối diện nhìn vào thì sẽ biết ngay không cần phải suy nghĩ. Thí dụ: Đám ma thì mặc áo dài đen, đám cưới thì mặc áo dài màu. Tiệc tùng mặc áo dài bông v…v…

 

     Nói chung người con gái hay phụ nữ Việt nam dù xấu hay đẹp mỗi khi mặc chiếc áo dài vào là ta thấy khác ngay. Người đẹp sẽ đẹp thêm, người dễ coi sẽ rạng rỡ hơn, người xấu sẽ không còn mặc cảm nữa. Đặc biệt đối với những người có hình dáng cao ráo khi mặc chiếc áo dài và đi trên đường thì phải nói là khỏi chê và dễ làm cho cánh đàn ông rũ lòng và mờ đôi mắt.

 

     Khi tôi vừa kể xong Michael nhìn tôi với cặp mắt trìu mến và nói: Điền nầy ! Chắc tôi phải kiếm một phụ nữ Việt nam để làm vợ quá Điền. Bạn thấy được không? Tôi trả lời: Được quá đi chứ, tôi đã có vợ rồi mà thấy người phụ nữ Việt nam mặc áo dài đi ngang qua mà còn thích, huống hồ chi Michael là người còn độc thân.

 

Bốn mùa xuân hạ thu đông

Mùa nào anh cũng đứng trông thấy nàng

Đi xuôi, đi ngược, đi ngang

Sắc khoe áo đỏ, áo vàng, áo hoa

Áo hồng, áo trắng, áo cà

Áo vào trường học, áo ra Đình làng

Áo sang đám cổ họ hàng

Áo đưa em gái theo chàng về Dinh.

 

 

Thủy Điền

10-02-2017

 

 

 

 

 

 163- Chí Phèo Thời Mới

 

Thường thường thì xưa nay trên Thế giới nói chung hay Việt nam ta nói riêng. Người ta hàng năm thường tổ chức những cuộc thi người đẹp cho cả hai giới. Nhưng phần lớn người ta hay đề cập và nói nhiều về giới nữ còn giới nam chỉ ca ngợi lúc đầu rồi mất dạng luôn. Về người mẩu cũng thế dường như nó cũng tương tự như vậy. Đặc biệt những năm gần đây khi đất nước đã được nới rộng về mọi mặt, giới văn hoá kinh doanh bắt đầu lấn mạnh vào thị trường chung như làm phim, chụp ảnh và tổ chức những đêm văn nghệ tầm cở nhằm phục vụ xã hội.

 

   Riêng về mặt chụp hình người mẩu rất ăn khách nhằm phục vụ cho báo chí, triển lãm và in quảng cáo. Phần nầy các Nhiếp ảnh gia thường hay chọn những người mẩu hay diễn viên (Nói chung là những người đẹp và có tiếng tăm để dễ thu hút người xem và người mua. Những nhà Nhiếp ảnh nầy thường hay chọn những biểu tượng đặc thù của xứ sở mình đề ghép vào ảnh như  hoa Sen, hoa Mai, hoa Đào, hoa Cúc và các cảnh trí thiên nhiên. Đồng thời họ còn chọn những bộ đồng phục cổ xưa để cho bức ảnh được sắc sảo hơn.

 

   Như ta thường thấy những cô nàng nầy hay đứng bên bờ đê cạnh hồ Sen, làm duyên bên hoa Sen, ôm đóa hoa Sen hoặc bưng ấm trà Sen v…v.. Và, những bức ảnh nầy sau khi chụp xong lên báo, lịch, quảng cáo người ta rất thích vì nó hiện lên ngay người mình quen biết, đẹp và hình ảnh quê hương rất rõ nét. Nhưng cái gì cũng thế, qua nhiều năm họ làm đều giống nhau chỉ có điều là thay đổi một vài người mới mà thôi, nên cũng dễ gây sự nhàm chán của giới đam mê. Từ đó sự kinh doanh của họ bị sút giảm và đưa đến tình trạng thua lỗ.

 

   Một khi bị thua lỗ nhiều lần, đương nhiên các nhà kinh doanh nầy phải tìm ra kế khác, hầu bù đấp lại những thiệt hại trên.

 

   Điển hình là năm vừa qua các nhà Nhiếp ảnh gia đã nghĩ ra một điều rất kỳ lạ mà ai cũng ngạc nhiên. Họ không thèm chọn phụ nữ nữa, mà chọn nam giới và những người nầy cũng làm giống hệt phụ nữ như vừa kể ở phần trên. Có nghĩa là vẫn mặc vái, đeo yếm, đội khăn mõ quạ, cũng lội xuống hồ Sen hái Sen, cầm Sen làm duyên và yểu điệu với Sen trong thật là vui nhộn và ngộ nghĩnh.

 

   Vừa mới xem qua ai cũng nghĩ mấy ông tướng nầy làm chuyện tào lao, ai mà mua mấy cái hình trơ trẻn, dị hợm Chí phèo nầy về treo trên tường nhà. Khi sản xuất ra các nhà sản xuất có lẽ tự treo một mình. Nhưng không, lại là một sự bất ngờ, khi vừa cho ra những hình ảnh nầy trên những quyển lịch và các trang quảng cáo trên báo người ta thấy lạ nên ùng ùng nhau mua. Thế là những ảnh của các anh Chí phèo thời nay đằt như tôm tươi và ngược lại các cô bị thất nghiệp phải đi tìm việc khác. Lý do: Không phải các cô không còn đẹp nữa, nhưng vì đã lỗi thời.

 

   Nghĩ cũng vui, thời buổi hiện đại ngày nay, mỗi ngày mỗi khác không giống như ngày xưa. Hỡi có cái gì là lạ là họ thích ngay, nhưng sự thích thú không lâu và lần tìm đến cái mới khác. Bởi thế đàn ông bây giờ có thể thay thế cái gì mà đàn bà đã từng làm trước đây và những điều nầy vẫn luôn có người ủng hộ; Tôn trọng.

 

Thủy Điền

 

10-02-2017

 162-Tục Bắt Vợ

 

Giữa ban ngày, ban mặt. Bỗng nhiên có bốn chàng trai người dân tộc Thái trạt hai mươi tuổi đi trên hai chiếc Hon-Da rượt đuỗi bắt một nàng thiếu nữ cũng người Thái khoảng mười tám tuổi trên đường phố về làm vợ. Cuộc truy đuỗi giống như cuộc bắt cóc người không hơn, không kém. Thế mà thiên hạ đi trên đường và những người sống chung quanh vẫn cứ dửng dưng. Vì đó là tục lệ xưa nay.

 

   Tục lệ gì mà kỳ hoặc thật? Nhưng đó là sự thật.

 

     Phò Anh Chánh yêu Huệ A Mỹ gần một năm nay, nhưng tình yêu ấy không được nàng đáp trả lại, vì nàng đã trót yêu Tòng Ý Khang làng bên nhân dịp trên đường đi chợ tình hồi năm ngoái. Nhiều lần Chánh tỏ tình cùng A Mỹ, nhưng nàng từ chối liên tục, vì đã yêu Ý Khang thật lòng. Biết thế, nhưng chàng mặc xác, cứ đeo đuỗi nàng đến cùng và nhất định sẽ bắt nàng cho được để về làm vợ mình.

 

      Ngày xưa hễ nếu hai người yêu nhau, khi người con gái thật sự muốn lấy chồng và bật đèn xanh cho người tình thì người con trai rủ thêm vài ba người bạn cùng lứa tổ chức bắt nàng dù bất cứ nơi đâu cổng hay mang về làm vợ. Sự việc nầy rất là hợp lý và đúng theo nguyên tắc, phong tục của dân tộc Thái xưa nay. Còn khi người con gái dẫu đã yêu mình rồi, nhưng chưa bật đèn xanh thì không được phép.

 

      Ngày nay đơn giản và tiện lợi hơn. Việc bắt vợ không phải khó khăn và cực khổ như xưa, có khi phải mang nàng về tận chục cây số đường núi. Mà chàng trai chỉ cần canh nàng đi đâu đó, rồi hú vài người bạn lấy xe gắn máy đến tóm, bỏ lên xe chở về là xong.

 

      Trường hợp của Phò Anh Chánh là trường hợp ngoại lệ, vì quá yêu, trong khi phía đối diện từ chối, không bật đèn xanh, mà anh ta vẫn rủ người làm càng nên bị cô gái phản ứng, la khóc, giẫy dụa dọc đường không chịu leo lên xe về làm vợ. Lẽ ra ra mọi người đi đường hay những người sống chung quanh nhìn thấy cảnh nầy phải có hành động giúp đỡ cô gái trong lúc hoạn nạn. Nhưng họ cứ dửng dưng và cho đó là chuyển bình thường giữa đôi trai gái yêu nhau.

 

       Sau tai nạn ấy, hai ngày sau tất cả trở lại yên ổn, cô con gái đến nhà chức trách kiện thưa về việc bị hành hung. Và, những chàng thanh niên nầy được mời đến để chất vấn. Đúng ra hành động nầy đáng được xử lý gắt gao, nhưng chính quyền ở đây chỉ cảnh cáo họ về tội lợi dụng phong tục tập quán mà thôi. Bởi, xưa nay trên vùng đất, xứ sở miền sơn cước nầy đều làm như thế, các anh chàng trên chẳng qua là phạm lỗi hôn nhân là vì cô gái chưa bật đèn xanh mà tự động làm càng và ông bảo trường hợp nầy rất ít ỏi xãy ra.

 

     Qua sự việc trên, với những lời cảnh cáo, ông nhấn mạnh thêm rằng “Để kịp theo đà tiến hoá của xã hội, ông mong rằng bà con trong Bản hãy học hỏi và dần dần xóa bỏ những tục lệ xưa cũ và làm việc gì khi đối diện đã bật đèn xanh.

 

Thủy Điền

 

08-02-2017

 

161-Lầm Lì Cùng Mây Gió

 

Hơn hai tháng nay, ngày nào cũng thế. Kể từ lúc Oanh bỏ đi, sau giờ làm việc Vân chẳng chịu về nhà ngay hay đi bất cứ nơi đâu mà chàng chỉ một hướng ra bến sông ngồi trầm lặng nhìn những chiếc lá vàng rơi đến sụp tối mới về. Trông rất là buồn thảm.

 

     Lấy nhau gần một năm. Ngỡ về xứ nầy hai vợ chồng ngày ngày đi dạy, chiều về quấn quýt sống hạnh phúc bên nhau, rồi sinh con, đẻ cái chọn nơi nầy làm quên hương. Ai ngờ ! Chưa chi nàng đã đổi dạ, thay lòng, bảo rằng buồn, thiếu thốn mọi bề, rồi bỏ về Thành phố. Thật không sao hiểu nỗi.

 

     Trước ngày lấy nhau, lúc còn là Sinh viên trường Đại học Sư phạm Sài gòn chàng đẵ hỏi nàng rất nhiều lần vì nàng là con gái thành, không dễ dàng đến một vùng quê hẻo lánh để sống. Nhưng nàng đã nhất nhất đồng ý là sẽ đi bất cứ nơi đâu khi nhà trường phân nhiệm sở. Vì yêu nàng nên chàng tin vì lòng dũng cảm.

 

     Ngày lên đường nhận nhiệm sở, nàng rất vui vẻ và phấn khởi vô cùng. Khi đến nơi nàng làm việc rất sốt sắng. Ngoài giờ làm việc hai đứa hay thường rủ nhau ra bến sông của khu rừng vắng đi dạo, hóng mát, nhìn phong cảnh núi rừng thật là hứng thú. Nàng thường bảo: Cuộc sống của nàng luôn phải gần và gắn bó với thiên nhiên, mỗi lời nàng thốt ra là mỗi lần gieo vào đầu chàng sự tin tưởng cao độ. Cuộc sống thú vị và hạnh phúc chỉ hơn năm tháng dài thì bỗng dưng nàng đổi ý và muốn lìa xa chốn nầy. Nhiều lần nàng đã khuyên bảo chàng hãy lánh xa nơi nầy càng nhanh, càng tốt. Nhưng chàng cứ chần chừ và dường như không đồng ý. Vì chàng muốn chọn nơi nầy làm quê hương thứ hai và nghĩ rằng nghề giáo thì đi nơi nào cũng là nghề giáo mà thôi. Chàng thường tâm niệm ở đâu cũng thế, bước đầu lạ, không quen, nhưng dần dần thì đâu cũng vào đó như bao người khác.

 

  Qua những lần thương lượng với nhau không thành công. Một chiều cuối tuần nàng thâu dọn tất cả những gì riêng của mình và đón xe về Thành phố mà không một lời từ giả. Chính chàng còn bất ngờ, huống chi cả trường lại bất ngờ hơn khi thấy nàng ra đi một cách đột ngột, mà trước đó không có hành động khó chịu hay chê chán nơi nầy.

 

      Thấy nàng bỏ đi chàng và mọi người nghĩ có lẽ vì bồng bột tuổi trẻ. Chàng và mọi người luôn nuôi hy vọng và đợi ngày nàng sẽ trở lại. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, hình bóng nàng càng dần xa khuất và không bao giờ trở lại xứ núi rừng nầy nữa.

 

    Sau mấy tháng trời chờ đợi, chàng trở lại thành phố để tìm nàng. Nhưng nàng cũng bặt tăm không còn ở Thành phố nữa và hiện tại cũng chẳng ai biết nàng đang ở và làm việc phương nao.

 

      Nỗi buồn càng ngày càng chồng chất, chàng như là người cuồng trí, cứ chiều nào khi đi dạy về là ra bến sông nhìn nước chảy, lá rơi lầm lì cùng mây gió.

 

Thủy Điền

04-02-2017

160-Chúc Tình

 

      Đang ngồi đun ấm nước, vừa suy nghĩ. Xuân về, tết đến mình cần phải làm cái gì cho thiên hạ ngạc nhiên chơi. Kha …kha….Kha….!

Bà đứng gần bên.

-Lan nầy! Bộ mầy khùng hả Lan? Đàn bà con gái gì có chồng, có con mà không nên thân, nên hình gì cả. Hỡi muốn cười lúc nào thì cười, muốn nhẩy lúc nào thì nhẩy, chẳng ý tứ, ý tư, các em, bọn nó cười cho mà xem.

-Đâu có gì đâu mẹ, tại hôm nay con vui, con mới nghĩ ra một điều rất hay.

-Điều gì ?

-Mai mốt mẹ hãy biết, còn bây giờ con đang giấu kín.

-Cha mầy, không nói thì thôi.

-Kha…kha…kha….!

 

      Sau khi nấu nước cúng tổ tiên xong. Hai chị em cùng theo mẹ lên chùa gần bên cúng Phật. Trên đường về , gần đến ngõ vào nhà Lan bảo mẹ vào trước đi, hai chị em con ra vườn Đào một tí sẽ về sau. Ngọc ngạc nhiên hỏi?

-         Sao chị rủ em ra đây làm gì ?

-         Thì bẻ Đào.

-         Trời đất, bố bẻ cậm một nhà mà không đủ sao? Người ta phải bẻ Đào là bẻ trước tết, hôm nay muộn lắm rồi chị ơi hay là chị muốn tặng ai.

-         Ậy ! Cứ đi với chị một lát đi rồi em sẽ hiểu, chị muốn làm gì. Con nhỏ nầy hôm nay nhiều chuyện thật.

-         Có chồng, có con rồi đó nha, tính hò hẹn với ai ngoài nầy, sợ, rồi rủ em theo phải không?

-         Đừng nói điên nè. Anh Nam nghe được là phiền lắm đấy.

 

      Lan vừa nói, vừa với tay bẻ một hoa Đào thật đẹp, nàng cài lên tóc Ngọc, rồi cười hí hí. Lan hỏi ?

-Em thấy có đẹp không?

-Đẹp lắm chị, mà giữa vườn Đào có ai nhìn ngắm mình đâu. Thật uổng nhỉ.

-Không phải, chị muốn em ra đây để chị tự tay bẻ và cài lên tóc em. Ý là muốn tặng em một nụ lộc hồng đầu năm và chúc cho em năm nay sẽ sớm có người yêu như người ta vậy mà và tạo cho em sự ngạc nhiên cho vui. Biết đâu trong cái nhí nhỏm nầy nó sẽ trở thành hiện thực, ai mà biết được. Đúng không ?

-Có lý, em cảm ơn chị thật nhiều và em cũng hy vọng là thế.

 

      Thật tình thì Lan cũng thấy em mình năm nay cũng hơn hai mươi hai tuổi đầu mà chưa có mối tình nào vắt vai nên nàng cũng buồn và tìm mọi cách giúp Ngọc, nhưng chưa được mối nào thành công. Ngọc cũng khá đẹp gái, diệu hiền, dễ thương. Nhưng ngặt một nỗi là trong cái làng bé nhỏ nầy bây giờ còn rất ít thanh niên, vừa lớn lên là họ đi tứ tán ra thành hay đi nơi khác cả, chỉ còn xót lại một vài anh chàng sáng say, chiều xỉn thử hỏi làm sao mà nàng phải lòng được chứ. Bây giờ chớ đâu phải như ngày xưa con gái lớn lên mười tám, hai mươi tuổi là có cả khối con trai đeo đuỗi.

 

      Trong cái vui chơi, dị đoan, cũng có cái may mắn. Một tuần sau tết có mấy người bạn chồng Lan từ Thành phố ghé thăm, chúc tết và cũng có mặt Ngọc trong ngày hôm ấy. Lúc đang tiệc người kể qua, kẻ kể lại, vui nhộn, vô tình có một anh chàng trạt tuổi Ngọc, có vẻ thích nàng. Anh ta vừa ăn, vừa nhậu, vừa dò dè tán tỉnh, khiến cho nàng mắc cở, đỏ mặt, mất tự nhiên và đành phải chạy u xuống nhà bếp với chị như trốn tránh ngôi sao tình đang chiếu rọi vào tim.

 

      Qua cuộc viếng thăm tết, thỉnh thoảng chàng cũng hay dành riêng thì giờ rảnh rổi cuối tuần để ghé ngang thăm Ngọc. Và cuối cùng họ rất thân thiện và trở thành người yêu với nhau………!

 

      Mẹ Lan chiều chiều thường hay bảo: Tao thấy con Lan nhà mình nhiều lúc nó làm những chuyện khùng khùng, điên điên mà không ai hiểu nỗi. Nhưng có lý và vô tình nó giúp được em nó có nơi, có chốn.

 

Thủy Điền

31-01-2017

 

 

159- Lời Tiên Tri

 

    Kể từ ngày về quê đến nay, tôi như người thất nghiệp. Vì là anh cả trong gia đình nên mỗi ngày mẹ tôi phân công cho tôi là phải đong đầy hai lu nước, vừa có tiêu xài trong ngày và tắm hai con heo. Tay vừa thả thùng xuống giếng múc nước, mặt vừa nhìn ra ngõ. Bỗng dưng tôi thấy có dáng người nho nhỏ, đang chạy chiếc xe đạp hướng về nhà tôi, chiếc xe đạp càng lúc càng tiến gần, tôi nhận ngay ra thầy Lân. Mừng quá, tôi chạy lại bắt tay thầy và nói, hôm nay thầy đi lạc đâu đây. Thầy bảo, thầy biết em ở Tân hiệp mà không biết ở đâu, thầy hỏi thăm vài người đầu ngõ và họ chỉ thầy. Thế thì thầy tìm được ngay, em thấy thầy tìm hay không? Tôi trả lời, thầy tài thật, rồi hai thầy trò áp cười toe toét, không ngờ chúng ta được hội ngộ.

     Sau ngày trường giải thể, tôi và thầy Vinh lo thâu xếp hành trang và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, để trả căn nhà trọ lại cho bà chủ. Rồi từ đó chúng tôi tạm chia tay trở về quê cũ. Thầy thì về Thủ thừa còn tôi về Tân hiệp.

    Thời gian đó trở về sau, gần khoảng một năm trời tôi không gặp lại thầy Vinh nữa, mà ngược lại tôi thường hay gặp thầy Lân nhiều hơn, vì thầy Lân sau ngày trường giải thể, thầy được Ty Nông nghiệp Tiền giang phân công về trường Công nhân Kỹ thuật Nông nghiệp tỉnh gần nhà tôi, cách một khoảng không xa,  chừng ba trăm mét (Trường nầy là trường Nông lâm Súc Tân hiệp cũ).

    Buổi gặp gỡ thầy Lân trở lại sau ba tháng cách xa, tôi mời thầy vào nhà và chạy đi đun ấm nước mời thầy uống.Thầy bảo: Thôi khỏi Màu, mình kiếm cái gì nhậu chơi. Tôi nói: Mới sáng sớm mà nhậu cái gì thầy hơn nữa em đâu biết nhậu, chẳng lẽ một mình thầy nhậu thì buồn quá. Thầy hỏi? Ở nhà có ai biết nhậu không. Tôi nói: Có, cậu Năm em được không? Thầy gật đầu, thế thì tôi đi mời cậu Năm tôi sang, tôi để cậu tôi và thầy trò chuyện ở nhà trên, còn tôi xuống nhà dưới bắt con gà giò cắt cổ, nhổ lông và luộc rồì chấm muối ớt, ngoài ra tôi cũng chẳng biết làm món gì khác để đãi thầy. Chỉ trong vòng gần một tiếng đồng hồ là mồi đã có, tôi chạy ra trước ngõ mua nửa lít rượu trắng mang về. Hai thầy trò và ông cậu lai rai tới trưa hết ba xị. Riêng tôi chỉ uống vài ly còn bao nhiêu thì thầy Lân và cậu Năm tôi chia đều. Khoảng mười hai giờ trưa tôi đi nấu cơm mời thầy ăn, nhưng thầy bảo: Thầy còn phải về, thật lòng khi thấy thầy ra về mà lòng tôi chẳng an tâm chút nào cả, dường như thầy say rồi, thầy dẫn chiếc xe đạp ngã lên, ngã xuống thật là thê thảm. Trong bụng tôi lúc nầy cứ vái cho thầy về đến nơi, đến chốn. Nói dại! Lỡ có chuyện gì ăn nói thế nào với cô Mai (Vợ thầy Lân) đây.

    Nhưng may quá, hôm sau thầy lên và ghé lại nhà tôi khoảng mười phút. Nhìn thầy an toàn lòng tôi vui sướng biết bao.

    Rồi ngày qua ngày, Thầy đi làm việc, còn tôi lêu têu trước ngõ thỉnh thoảng thầy trò hay gặp nhau tâm sự đôi điều hoặc mời thầy vào nhà uống vài ly rượu với cậu Năm tôi rồi về.

    Một hôm thầy hỏi tôi? Màu bây giờ em định làm gì. Tôi trả lời: Thưa thầy thật lòng em cũng chẳng biết làm gì, học thì không có chỗ, làm thì còn nhỏ quá ai mướn, ai thuê hơn nữa gia đình cũng đâu đến đổi phải đi làm kiếm sống, còn ở không lổng nhổng thì coi cũng không được. Khó quá ! Nhưng em quyết định phải đi học tiếp, dù sớm hay muộn. Tôi hỏi ? Đâu thầy xem trên trường còn chỗ trống thầy nhét em vào được không? Thầy suy nghĩ một hồi rồi nói. Em quyết định đúng, nhưng ở đây không phải là nơi em dừng chân, với cương vị của thầy, thầy có thể nhét mười đứa như em vào lúc nào cũng được. Nhưng thầy không làm, vì thầy thấy không có tương lai. Bởi vì học một khoá có ba tháng rồi ra trường, thử hỏi làm được cái gì, ráng chờ một khoảng nữa xem sao. Nghe thầy nói xong tôi giận vô cùng mà không dám nói sợ thầy buồn. Tại sao thầy nghĩ như vậy, học ba tháng ra đi làm còn hơn ở nhà báo cha, hại mẹ. Thầy nói thì thầy nói, tôi cứ dạ dạ, vâng vâng cho thầy vui lòng để qua câu chuyện.

   Đúng ba ngày sau, Tiết bạn tôi (Đỗ văn Tiết) học cùng lớp, quê Mỹ tho. Tám giờ đêm anh ta chạy chiếc xe đạp từ Mỹ tho lên Tân hiệp báo tin cho tôi biết, có người nhận bọn mình đi làm Công nhân Nông trường. Mầy có chịu đi làm không? Tôi không một phút do dự và trả lời “Ừ “ Nếu ừ thi vào xách gói theo tao ngay. Tôi vào nói với mẹ tôi vài lời và xin ít tiền làm lộ phí rồi theo Tiết ngay. Sáng hôm sau chúng tôi có mặt và trình diện Ban lãnh đạo Nông trường và làm việc nơi đây đúng một năm. Nông trường nầy có tên là Nông trường Bộ tư lệnh Quân khu 9 đóng tại căn cứ Đồng tâm cũ. Trong thời gian vừa làm, vừa nghe ngóng, tôi nạp đơn vào hai trường để dự thi đó là trường: Thủy lợi 3 Tiền giang và trường Sư phạm Long an. Khi thi mỗi trường chỉ lấy 10% số đậu mà thôi. Trong 10% nầy được ưu tiên trước 50% số Bộ đội phục viên và 25% cán bộ công nhân viên các Ty gởi đi học, thế thì tôi chỉ còn 25% cuả 10% tiêu chuẩn cho khóa học nầy, thật là thê thảm. Nhưng rất may “Chim nhả miệng Ve “ trong hai kỳ thi ấy tôi đều đậu cả và cuối cùng quyết định học trường Thủy lợi 3 Tiền giang và bỏ trường Sư phạm Long an. Bỏ trường Sư phạm Long an thấy cũng tiếc và chịu sự phàn nàn của gia đình khá nhiều nhất là mẹ tôi, vì bà muốn tôi làm Thầy giáo. Nhưng cũng thú vị hơn khi tôi trở lại học dưới mái trường cũ của mình.

   Khoảng cách ba năm đi học và ở nội trú tại trường Thủy lợi 3 thì không còn gặp thầy Lân nhiều nữa, chỉ đôi ba lần. Mỗi lần gặp thầy luôn động viên tôi mọi thứ.

   Thú thật tôi không thể ngờ được, thời gian trôi nhanh quá, một quá khứ, những kỷ niệm và nhất là kỷ niệm của thời niên thiếu, học sinh tôi không thể quên được và luôn luôn ghi nhớ, cảm phục những lời nói, cũng như sự dự đoán tiên tri của một người thầy đã dành cho cá nhân tôi và những đứa em học sinh yêu quí của mình.

            

Thầy nào mà chẳng mắt tinh

Thầy nào đành bỏ trò mình bơ vơ

 

Thủy Điền

 

158-Niềm Vui Trở Lại

 

      Những cây Phượng, hàng Dương liễu, những hàng Chuối và những Ao hồ dường như không còn xinh xắn, thơ mộng, xanh tươi như những ngày trước nữa. Tất cả đã ủ rũ theo những giọt lệ của những nàng thiếu nữ và bùi ngùi theo những nét mặt u buồn của những chàng trai áo nâu, thật não nùng trong giờ chia cách.

      Cuối mùa hè năm ấy, khi nhận được tin trường giải tán, để nhường chỗ lại cho trường Bổ túc Công nông tỉnh. Cả trò lẫn thầy đứng ngơ ngác như con Nai vàng đang tìm mẹ giữa Bàu cỏ xanh um.Tất cả nhìn nhau trong nghẹn ngào, tiếc nuối.Một cảnh vật quen thuộc, một mối tình đậm đà, đằm thắm bỗng biến mất trong giây phút mà không ai ngờ được.

      Bao cây Phượng, mấy hàng Chuối, những cây Dương liễu, những Lớp học, Hội trường và những Thữa ruộng mà hàng ngày thường hay kề cận cũng mất đi những người thầy, người bạn thân thiết. Bây giờ đã tạo thành một khoảng cách vô vị và xa lạ hẳn.

     Cái bắt tay, lời chào tạm biệt, biết nói gì đây khi mọi chuyện đã an bài. Trong khoảnh khắc chỉ còn lại nỗi luyến thương của những ngày bên nhau.

    Sự chung đụng đã hết, nhưng dù sao tình bạn vẫn còn. Mỗi người giờ mỗi nơi, tự tìm cho mình một lối riêng, anh tìm trường khác, chị ở nhà, kẻ làm công nhân Nông trường còn người khác bôn ba tìm sống, thậm chí có bạn trống không lêu bêu chẳng biết làm gì. Bao nhiêu đó cũng nói lên nỗi buồn khi ngôi trường vừa bị giải thể. Rồi thời thế khách quan mỗi ngày, mỗi khác vì cuộc sống anh em lại càng phải xa nhau, hơn nữa có khi năm ba năm mới gặp nhau một lần và tệ hại hơn chẳng gặp nhau luôn. Lắm lúc gặp người bạn hiền năm cũ ngang qua đường mà ngỡ dường như ai đó.

    Những năm xa cách, tuy không gặp nhau, nhưng ai ai cũng tin rằng sẽ có một ngày nào đó, dù lâu hay mau chúng ta sẽ được gặp lại nhau trong một hoàn cảnh ngẩu nhiên. Và đúng vậy hoàn cảnh ấy đã trở thành hiện thực được thể hiện rõ rệt là bằng chứng ngày một tháng năm hàng năm.

Nỗi buồn nào mà không vui trở lại

Sự chia cách nào rồi không sum hợp

- Qua bài viết (Niềm vui trở lại) trước tiên phải thành thật cảm ơn Thầy, cô và các anh chị đã bỏ nhiều công sức gầy dựng lại mái trường tinh thần. Một sự việc không hề đơn giản mà tất cả Qúi vị đã làm được thật vô cùng kính phục.

-Thứ hai là sự đoàn kết keo sơn của tất cả các thầy và các bạn hữu vẫn còn như xưa thậm chí còn nhiều hơn nữa, tuy không toàn vẹn, nhưng hy vọng mỗi ngày sẽ được đông đúc hơn.

-Thứ ba là lòng nhiệt tình, các thầy, cô tuy tuổi già, sức yếu vẫn cố gắng bỏ công sức để về tề tụ với nhau như ngày nào, các bạn cũng thế, bỏ cả công sức và việc làm hàng ngày để về họp bạn và tri ân thầy cô thật là một điều đáng quí vô biên.

-Thứ tư là anh em chúng ta rất là diễm phúc khi mái nhà tinh thần của mình vẫn còn  một người cha, một người anh, một cánh chim đầu đàn đó là thầy

Hiệu truởng Nguyễn tấn Phúc

Còn cha còn mẹ thì sang

Không cha không mẹ như đàn đứt dây.

 

Thủy Điền

 

 

 

157-Tình Bạn

 

     Đang ngồi ăn cơm vĩa hè, tình cờ nhìn một người lái Hon-da giao nước đá cho một quán ăn, Lân thấy sao ai giống người bạn mình, chờ giao hàng xong Lân dần mò hỏi.? Thì ra thằng Chín bạn mình một thời quân ngũ. Hai thằng mừng quá ôm nhau, tay bắt, mặt mừng.

     Trước ngày giải phóng hai thằng cùng chung binh chủng Nhẩy dù, cùng Lữ đoàn, cùng Tiểu đoàn, cùng Đại đội, cùng Trung đội và cùng Tiểu đội thậm chí cùng cấp bực, hai thằng sống chung gần năm năm trời, sống chết có nhau như anh em ruột. Có lúc Lân bị thương, Chín phải hy sinh một phần máu của mình để cứu bạn.

     Ngày 28 tháng 04 năm 1975 khi Lữ đoàn tan rã Lân về quê Sa đéc, còn Chín về Cần thơ đường ai nấy đi và từ đó tình bạn cách chia, không còn gặp nhau nữa. Sau những năm sống tại quê nhà hai thằng thường ao ước được một ngày gặp lại, nhưng khó quá.

      Sau khi về Sa đéc được một năm, Lân lập gia đình và hiện tại được bốn cháu.Thời gian về quê làm ruộng, Lân ngỡ cuộc sống sẽ an bình hơn, lúc đầu thì cũng dễ thở, nhưng sau mấy mùa nước nổi liên tiếp Lân bị trắng tay và lâm vào cảnh khó khăn chưa từng có. Ngồi chờ con nước rút, gia đình thiếu thốn vợ trẻ, mẹ già và bốn con thơ Lân không đành lòng và tìm cách xuống Cần thơ tìm việc gì để hái ra tiền về giúp gia đình. Hồi đầu gia đình cản ngăn, chờ nước rút sẽ làm tiếp, nhưng Lân cố quyết ra đi, chàng không thể ngồi chờ được nữa, cuối cùng cả gia đình ưng lòng để cho Lân đi.

      Chín thì sau ngày về, chàng làm đủ mọi việc nào làm mướn, kinh doanh, thợ hồ, thợ mộc chàng làm đủ hết, nên quen biết rất nhiều giới, dành dụm được ít tiền chàng cưới vợ và hành nghề bỏ mối nước đá cho các cửa hàng lớn nhỏ, cuộc sống hiện tại cũng tương đối khấm khá.

      Những ngày xuống Cần thơ tìm việc là những ngày vất vả của Lân không người thân, không người quen bạn bè thì có Chín, nhưng chẳng biết nơi đâu mà tìm.

      Một hôm ngồi uống Cà-phê Lân lần hỏi vài người để tìm việc thì có một anh chàng bảo, nếu Lân thích làm thì đi theo anh và anh sẽ tạo cho một công việc. Lân hỏi làm việc chi? Anh bảo

*Bán hàng chạy một ngày một trăm năm chục ngàn, cơm nước anh lo cả.

-Hàng chạy là hàng gì?

*Hàng chạy là bán những mặt hàng trốn thuế như thuốc lá, quần áo và những vật dụng khác, nếu Công an đến thì bưng chạy

-Lân trả lời ghê quá anh ơi.

*Bây giờ có chịu làm không? Tôi đi tìm người khác, lòng vòng quá, mất thì giờ

-Dạ em làm anh đừng vội nóng.

*Làm thì bắt tay ngay.

     Lân làm được nửa tháng, công việc trôi chảy, nhẹ nhàng một ngày xài vặt còn dư hơn trăm ngàn, dành dụm được gần triệu rưởi Lân điện thoại về cho vợ là nơi mơi anh sẽ gởi tiền về để em trả nợ và lo cho gia đình. Vợ Lân mừng quá và bảo ráng giử gìn sức khỏe. Lân cúp điện thoại. Cơn vui chưa tan, hôm sau Lân trở lại công việc bình thường không ngờ, ngày hôm đó Công an bao vây tóm gọn những người bán chạy và giải về Phường. Lân bị bắt và bị phạt hành chánh một triệu ba và tịch thu hàng hoá. Lân đóng tiền phạt xong, đi ra khỏi cơ quan Phường thểu não như kẻ mất hồn. Chàng buồn quá và đi lang thang khắp chốn ,nửa muốn về lại quê nhà, nửa muốn tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng cũng may là chàng gặp một bà chủ bán Cà-phê tốt bụng cho mấy trăm ngàn, Lân không lấy, nhưng bà bảo cứ lấy mà xài rồi đi tìm việc tiếp. Có ba trăm ngàn Lân ghé vào quán cơm gần đó ăn đỡ lòng, vô tình Lân gặp lại người bạn chí tình, bằng hữu đang giao nước đá cho quán cơm. Hai thằng gặp nhau mừng quá, Chín mang Lân về nhà khoe với vợ anh vừa tìm được Lân. Hai vợ chồng làm gà vịt đãi bạn nhậu cho một trận và giữ Lân ở lại nhà để tìm cho Lân một công việc vì Chín quen rất nhiều người. Lân ở nhà Chín nghỉ ngơi được hai hôm rồi đi nhận việc ngay, làm việc xong Lân nghỉ tạm tại công trường. Làm việc tại Công trường được hai tháng Lân gởi tiền về cho vợ hai lần, anh em bè bạn ai cũng thương và giúp đỡ. Một hôm bạn bè xích mích với mấy tay Bảo vệ Lân nhẩy vào can ngăn, cuộc ấu đả làm hai tay Bảo vệ trọng thương Lân một lần nữa phải về đồn Công an thẩm vấn và cũng bị phạt hành chánh hai triệu đồng, Lân không có tiền trả phạt, anh em thấy vậy đóng góp và Lân được trả tự do.Về nhà Lân kể cho Chín nghe, Chín giận quá.

*Sao mầy không điện thoại cho tao để tao ra chuộc mầy về.

-Tao sợ phiền mầy quá Chín.

*Trời đất ơi, đến nước nầy mầy còn nói vậy tao thấy mầy đổi tính rồi đó Lân, mà thôi bỏ qua chuyện đó đi, tao và mầy đi nhậu thì quên chuyện cũ hết hà. Chín móc hai triệu đưa cho Lân để trả bạn bè.

*Chín nầy tao hỏi thật nhé, nếu có gì mầy bỏ qua cho.

-Mầy cứ nói đi ,vòng vo làm gì.

*Hình như mầy bị bệnh phải không Chín.

-Ờ đúng đó mầy,bị Gan lâu rồi.

*Hèn chi tao thấy người mầy vàng quá, chắc uống rượu nhiều hả?

-Làm ăn, quen biết nhiều người, hở hở là nhậu, con vợ tao nhăn quá trời, nhưng giềng bỏ không được mầy ơi.Thôi kệ nó tới đâu thì tới, gặp mầy là vui rồi, uống đi mầy.

*Ngày mai còn phải làm, mình thôi nha Chín bữa khác uống tiếp.

-OK  Tao tôn trọng công ăn việc làm của mầy, thôi mình về.

     Về làm được một tuần thì Lân bị ngã vì trượt cầu thang, nên bị gảy tay và chở vào nhà thương. Bác sĩ băng bó xong Lân đi lang thang ngoài hành lang cho thoáng thì tình cờ Lân gặp Lý vợ Chín. Lân hỏi?

*Sao Lý lại ở đây.

-Anh Chín bị bệnh Gan nặng lắm.

*Trời đất sao không cho tôi hay, giờ sao rồi?

-Bác sĩ bảo thay Gan khác thì hầu sống thêm thời gian nữa còn không phải đành chịu chết và tốn rất nhiều tiền. Tiền thì có đứa em bên Úc châu cho mượn còn Gan lấy đâu ra, buồn quá anh ơi, em nói hoài ảnh chẳng chịu nghe em, để giờ ra nông nỗi hại vợ, hại con. Em chỉ trông nhờ bên gia đình nhà chồng, nhưng vô vọng….

*Không sao đâu Lý, tôi và Chín là hai người cùng chung loại máu.

-Anh hiến Gan cho anh Chín à.

*Ừ. về lo tiền bạc đi.

     Thế là sau ngày đó Lân nhớ lại Chín đã hy sinh một lần cho Lân và Lân được sống đến ngày hôm nay, bởi nên Lân trao cho Chín nửa lá Gan là chuyện bình thường.Vợ Chín ôm Lân khóc và nhìn Lân như một vị cứu tinh.

 

Thủy Điền

 

 

156- Những Giới Hạn Đáng Buồn

 

     Tân lái chiếc xe hơi, quẹo qua một cái cua phía trái, vừa đến đèn xanh, đèn đỏ. Bỗng đèn đỏ hiện lên, chàng vội vã thắng lại và nghe một cái „Rầm“. Người lái chiếc Hon-da ngã ra và la lên. Tiếng chưởi thề „ Scheiße „ Vang lồng lộng, rồi anh ta ngồi dậy, kéo chiếc Hon-da vào lề. Trời về đêm tám, chín giờ tối, đen như mực, chẳng hiểu người lái xe hơi hay người lái Hon-da, ai là người gây ra tai nạn.

     Anh chàng lái Hon-da chẳng nói năng gì cả, móc trong túi lấy cái điện thoại di động ra, gọi 110 báo ngay cho Cảnh sát giao thông biết để Cảnh sát đến ăn kết. Đường lộ bây giờ kẹt cứng, thiên hạ nhấn kèn „Tin, tin um xùm „ Nghe rát tai, hiện trường xẩy ra tai nạn vẫn còn nằm nguyên đó, chỉ riêng chiếc Hon-da được kéo vào lề.

    Trong lúc chờ nhân viên Cảnh sát đến, Tân lấy máy chụp hình ra, chụp quang cảnh cuộc xảy ra tai nạn rồi xếp vào túi, đứng lặng yên, xem như không có gì xảy ra, mọi chuyện khác là chuyện của Cảnh sát.

    Đúng ba mươi phút sau, nhân viên Cảnh sát đến, hai người, một người cầm cây thướt dây đo vẽ ngang dọc, một người khác đến hỏi Tân sự việc thế nào? Tân bảo vừa quẹo trái, thấy đèn đỏ, thắng lại và nghe một cái „Rầm“ Tân không biết anh ta chạm vào Tân hay Tân chạm vào anh ta, vì trời quá tối. Xong cảnh sát cũng hỏi người lái Hon-da tương tự, không biết người lái Hon-da giải thích như thế nào. Ông nhân viên Cảnh sát leo lên xe làm giấy ăn kết và bảo hai người phải ký tên vào biên bản, thế là mọi việc xem như xong, để con đường được trống trải cho mọi người qua lại.

   Anh chàng lái Hon-da nhanh nhẹn ký vào biên bản, còn Tân thì không. Ông nhân viên Cảnh sát hỏi?

*Tại sao anh không ký vào.

-Tôi sẵn sàng ký với điều kiện.

*Anh muốn điều kiện gì?

-Cuộc xảy ra tai nạn nầy ai là người có lỗi.

* Anh, chớ còn ai vô đây.

-Ông chắc không?

*Chắc chớ, mọi việc đã rõ ràng anh còn chối cãi gì nữa.

-Không! Tôi không chối, tôi chỉ hỏi để biết thôi và tôi chỉ ký khi ông viết thêm những hàng chữ trong biên bản rằng. Chử ký nầy có giá trị đây là cuộc xảy ra tai nạn, còn lỗi phải thì chưa biết là ai, thì tôi sẽ ký, còn không thì tôi không ký.

-Ông nhân viên cảnh sát thấy Tân nói tiếng người không mấy gì suông sẽ và ngỡ Tân chẳng rõ luật lệ gì đâu, nên viết theo lời yêu cầu của Tân và cuối cùng Tân ký vào biên bản tai nạn.

    Mọi việc ông Cảnh sát và người lái chiếc Hon-da hôm đó tưởng rằng truông chảy và ngon như ăn bắp. Nhưng không ngờ! Sáng hôm sau, kể từ lúc gây tai nạn Tân tìm đến một ông Luật sư đưa tấm hình làm chứng và kể tất cả mọi sự việc xảy ra cho ông ta nghe. Ông ta nhận lời và hứa giúp Tân. Ông nói.

*Khi ra Tòa, nếu Tân thua, thì mọi sở phí Tân phải trả tất cả, còn hễ Tân thắng thì phía bên lỗi họ phải trả tất cả. Ông hỏi tiếp, Tân có chịu không?

-Vâng tôi sẽ làm theo ý ông.

    Hai ngày sau, anh chàng lái Hon-da cứ điện thoại đến nhà Tân hối thúc, rằng Tân phải đưa số Bảo hiểm, để anh ta đi sửa chiếc Hon-da và anh còn phải thanh toán tiền bệnh phí, vì chân anh đang bị thương và đang chữa trị. Tân trì hoãn và bảo, việc anh thì anh cứ làm, còn việc tôi thì cũng đang nhờ Luật sư làm rõ vấn đề, khi kết thúc ta sẽ tính sau theo như luật lệ hiện hành. Anh chàng lái Hon-da tức giận và chưởi mắng ôm xồm. Tân mặc kệ và tỉnh bơ mọi việc có Luật sư lo.

    Anh chàng lái Hon-da tức giận gọi cho ông nhân viên Cảnh sát và tường thuật lại những lời Tân nói. Ông Cảnh sát tá hoả, tưởng tay nầy không biết gì. Ai ngờ …….rồi ông an ủi anh chàng lái Hon-da. Thôi anh cố chờ ít hôm thử xem sao.

    Gần hai tháng sau, Tòa gởi giấy mời Tân, ông Cảnh sát và anh chàng lái Hon da đến xử. Ông Tòa hỏi anh lái Hon-da? Tại sao đang lúc tai nạn xảy ra anh không để y dấu vết tại hiện trường cho Cảnh sát xử lý, mà anh tự động kéo chiếc Hon-da vào lề. Có phải anh đụng người ta rồi tìm cách phi tan dấu vết. Phải không? Anh lái Hon-da trả lời.

*Dạ thưa Tòa, vì tôi quýnh quáng quá nên làm như thế.

-Ai là người gọi điện thoại cho Cảnh sát?

*Dạ tôi.

    Đến lược Tòa hỏi ông Cảnh sát ?

-Khi nhìn thấy vụ tai nạn xe cộ xảy ra, có một người phi tan dấu vết mà anh vẫn cho là họ đúng sao?

*Dạ tôi chỉ làm theo lời kể của anh lái Hon-da.

-Còn hiện trường anh không cần xác minh gì hết?

*Dạ vì trời tối, hơn nữa kẹt xe nhiều quá nên tôi thiếu xót.

   Cuối cùng đến Tân

-Anh có nghĩ anh đụng người ta không?

*Theo tôi, có thể có, có thể không, tôi không chắc chắn. Nhưng một điều ngạc nhiên nếu tôi đụng người khác, tại sao họ không để nguyên hiện trường cho Cảnh sát dễ dàng làm việc, mà đàng nầy họ vội vàng phi tan dấu vết.

-Thôi được mọi người ngồi xuống.

     Mười phút sau Tòa xử anh lái Hon-da hoàn toàn lỗi. Bởi vì luật tai nạn dù có lỗi hay không lỗi người gây tai nạn không được phép phi tan dấu vết và cảnh cáo một nhân viên Cảnh sát không làm tròn bổn phận.

     Qua sự việc trên, cộng những kinh nghiệm bao năm sống tỵ nạn nơi xứ người. Sự bình đẵng dường như có ẩn sự giới hạn. Bởi thế, con người lắm lúc cũng bùi ngùi và thất vọng trước những giới hạn ấy.

 

Thủy Điền

 

 

155-Hai Nải Chuối

 

         Bà Út Hạnh đứng trước hàng tư nhà, tay chống nạnh. Hai cha nội nầy mình mời đúng mười hai giờ sang ăn cơm, cứ hứa hứa mà bây giờ cũng chẳng thấy tới, đồ ăn nguội lạnh cả rồi, thiệt là giờ dây thun. Vừa nói xong thì hai người đàn ông lơn tơn tới.

     Ba Hồng vừa từ Sài gòn về đây mua căn nhà và miếng đất gần ba tháng, ba Hồng thì độc thân nên dễ gần gũi với láng giềng như bà Út Hạnh và anh sáu Bông.

     Anh sáu Bông thì vợ chết sống lủi thủi với hai đứa con gần cả chục năm nay.

     Bà Út Hạnh thì không có chồng con gì cả, bà sống cùng đứa cháu gái làm cô giáo cạnh bên.

     Ba người đều độc thân cả nên họ kết tình bạn xóm giềng, mỗi khi nhà nào có đám đình hay việc gì họ cũng đều ghé qua cùng nhau chia sẻ. Vì chỗ tình bạn, qua những lần mời mọc nhiều buổi tiệc ở nhà hai ông bạn già, bà Hạnh không đi thì không được, còn đi viếng mãi thì bà cũng ngại. Bà nghĩ ra cách làm buổi cơm thịnh soạn mời họ lại, sang nhà mình cùng ăn buổi cơm cho vui gọi là trả nghĩa.

    Qua lời mời chân thành hai ông bạn già đồng ý và vui vẻ nhận lời.

Trưa hôm sau ba Hồng dân Sài gòn quen tánh nết khi đi tiệc thường hay mang theo quà cáp dù ít hay nhiều, riêng sáu Bông thì dân nhà quê nếu dự tiệc lớn hoặc đàn ông mời thì hay mang theo rượu hoặc tiền ngoài ra không mang quà cáp như ba Hồng. Bởi khi đến nhà Út Hạnh, cả ba đều ngỡ ngàng.

   Út Hạnh thì nghĩ chỉ mời sang dùng cơm cho vui đâu có tiệc tùng gì mà quà với cáp, sáu Bông thì thấy kỳ vì mình sang tay không, còn ba Hồng thì hơi quê sợ sáu Bông nghĩ lầm mình có dụng ý gì với Út Hạnh. Hồi đầu thì Út Hạnh không nhận quà của ba Hồng, nhưng nhờ sáu Bông nói đỡ.

*Nhận đi mà, người ta có lòng chẳng lẽ từ chối sao, bà nhận của ảnh đi rồi nhận của tui sau.

- Anh đâu có mang cái gì mà anh bảo tui nhận.

*Có chớ, tui thì không được sang trọng như anh ba, chỉ cây nhà lá vườn thôi

-Cái gì đâu anh mang ra xem nào?

*Chỉ có hai nải Chuối.

-Thôi đi anh ơi, ở đây ai mà không có chuối.

*Nhưng chuối của tui đặc biệt lắm nhen.

-Thôi tui không nhận chuối đâu, anh mang về đi.

*Chê thì tôi mang về.

-Mà đâu anh đưa tôi xem nào.

   Sáu Bông đưa hai bàn tay lên chỉ Út Hạnh. Nè, bà thấy chưa? Hai nải chuối nè. Ba người áp cười rần bà Út Hạnh quê đỏ mặt, sáu Bông nói tiếp

*Thôi không nhận tôi bỏ vào túi quần, lát nữa mang vìa.

-Anh vô duyên dữ lắm rồi nhen anh sáu.

   Út Hạnh mang món quà của ba Hồng vào trong buồng cất, ba Hồng khiều nhẹ sáu Bông hỏi? Bộ ở đây đi dự tiệc đi tay không hã anh sáu? Không phải là như vậy.

*Tiệc tùng người ta thường đi rượu hay tiền còn ở đây bả mời mình sang ăn cơm cho vui, quà cáp cái gì.

    À ra tôi mới hiểu, nhưng có một chút cũng vui chớ anh.

*Đành vậy, thì tui cũng đi hai nải Chuối đó, có đi không đâu.

   Anh vui tính thật anh sáu à.

            Buổi tiệc tàn Út Hậu tiễn hai người về, Út Hạnh quây sang nói nhỏ với ba Hồng, anh mới về đây anh không biết, ở đây anh sáu vui tính lắm, tính tình cà rỡn, nhưng rất được mọi người mến yêu.

    

 

Thủy Điền

 

154-Thích Làm Người Mẩu

 

   Trong dáng điệu thểu não, quần thì ống cao, ống thấp, tay thì chóng đỡ tấm thân gầy, tay xách một bịch thuốc, mặt mày nhăn nhó, vừa đi, vừa than thở.

   Ba Cang và tư Ốm vốn là bạn bè cùng thôn, nông dân chân chất từ lúc thuở nhỏ.

*Đi đâu về vậy anh Ba?

- Ờ ! Anh tư đó hả? Tôi vừa đi chợ Huyện về đây anh.

* Sao mà nhìn anh thấy quảy quá vậy anh ba, có chuyện gì không? Chiều hôm qua tôi chờ anh tới nửa đêm mà chẳng thấy anh sang tui, anh hứa kiểu nầy làm tui một mình cổng hết hai xị, tưởng hôm nay ra ruộng không nổi, anh ác vừa vừa vậy anh ba.

-Xin lỗi anh tư, tôi bệnh quá anh tư, định qua anh hồi rồi, nhưng đi không nổi, nên đành thất hứa, bậy quá, anh đừng giận tui nha anh tư.

* Mà anh bệnh gì, sao không nhờ ai qua cho tui hay, anh kỳ thật anh ba, tui bên nầy có biết trời trăng, mây nước gì đâu, không lẽ mỗi lần rủ anh nhậu phải qua nhà hú năm lần, bảy lượt kỳ cụt lắm, ai mà làm vậy.

-Đúng rồi, tôi hiểu.

*Thôi mình bỏ qua chuyện nầy đi, tôi hỏi anh bệnh gì? Có nặng lắm không, xem tôi có giúp ích gì cho anh được không, lòng vòng quá.

- Thú thật anh chuyện là như thế nầy, sáng hôm qua tôi nhận làm cỏ cho ba Trân, vừa vác cái cuốc đi khoảng trăm thước tôi gặp Út Cường, hắn đang bày dụng cụ vẽ ra định vẽ cái gì đó, tôi không biết và vọt miệng ghẹo hắn chơi.

* Bộ anh bị hắn đánh hả?

-Đâu có.

*Chứ tại sao thân thể anh te tua hết vậy?

-Anh từ từ, để tui kể cho anh nghe đầu đuôi câu chuyện. Hắn hỏi tôi? Anh Ba đi làm đồng một ngày được bao nhiêu tiền? Tôi trả lời, lạ thì một trăm ngàn, quen thì tám. chục ngàn. Rồi hắn vọt miệng hỏi tôi? Nếu muốn làm cho hắn, hắn trả cho ba trăm ngàn. Tôi hỏi mà làm cái gì? Hắn nói rất đơn giản, chỉ đứng làm mẩu cho hắn vẽ xong thì thôi.Tôi nghĩ cũng sướng, công việc rất nhẹ nhàng mà nhận ba trăm ngàn, tội gì không làm anh, còn hơn ra đồng còng cọc cả ngày chỉ kiếm có trăm ngàn, nên tôi nhận lời ngay. Anh biết không? Hắn còn đưa tiền tôi trước nữa, tôi khoái quá và đứng cho hắn vẽ. Tôi tưởng, năm mười phút là xong. Ai ngờ! Hắn bắt tôi đứng ẹo qua, ẹo lại sữa tới, sữa lui cả ngày mà cũng chưa vẽ xong, lỡ nhận tiền hắn rồi, nên tôi đành ngậm họng mà làm. Anh biết không? Tôi ẹo gần tám tiếng đồng hồ thử hỏi gân cốt nào chịu nỗi, khi xong rồi, tôi ra về, đi toàn hình chữ S muốn chết luôn anh ơi. Hễ ai đi ngang qua tôi giả đò đứng nghiêm chịu trận một lúc rồi đi tiếp, bực mình quá trời, quá đất anh ơi. Tôi tởn cái vụ người mẩu nầy tới già luôn, bây giờ tới sau hắn mà có trả một triệu một ngày tôi cũng chẳng thèm làm.

 *Hèn gì, té ra là như vậy, ai biểu anh muốn làm người mẩu

-Đâu có, anh nói oan cho tôi rồi, chủ yếu tôi thấy công việc nhẹ, tiền nhiều thôi.

*Tôi nói anh nghe, không phải hắn đày đọa một mình anh đâu, mấy hôm tôi nghe cháu bà Hậu kể, hắn cũng gạn bà Hậu ngồi làm mẩu, bà Hậu khoái ngồi cho hắn vẽ, vẽ xong hắn hỏi bà Hậu xem hình có đẹp không? Bà Hậu cầm bức ảnh lên tá hoả tam tinh, bức ảnh y như là một cụ già bảy chục tuổi. Trời ơi, anh biết không? Bả mắng Út Cường một trận quá trời, quá đất. Bả hỏi tại sao bôi bát bả như thế, bả mới năm chục tuổi, mà sao dám vẽ bả bảy chục tuổi, nghĩa là như thế nào. Út Cường trả lời thì anh vẽ phòng hờ trước vậy thôi, mà trước sau gì em cũng bảy chục tuổi, chẳng lẽ em muốn năm mươi mốt tuổi chết à. Bà Hậu về bả khóc gần cả tuần, tụi tui bên nầy ôm bụng cười cho một trận, giờ đến lượt anh, không biết nay mai rồi sẽ tới ai đây.

   Thôi hiểu rồi, anh về uống thuốc, nghỉ dưỡng đi, tui đi làm tiếp mấy luống khốm còn lại.

-Thôi tui về anh tư.

*Ừ về đi.

-Thiệt là tai nạn, bởi ham tiền.

   Vài hôm sau bà Hậu sang nhà ba Cang nhờ làm cỏ mấy luống khốm, vô tình gặp con Lan đang bán Xôi dạo ghé nhà Út Cường. Hai người rình thì nghe Út Cường muốn con Lan ngồi làm mẩu cho hắn vẽ, hai người nhẩy vào can ngăn, con Lan nghe hai người kể về lai lịch của Út Cường, hết hồn, hết vía gánh gánh hàng đi tuốt một nước. Út Cường quê quá đóng cửa rào cái rầm, mắng hai người cho một trận và bảo „Đồ Kỳ đà cản mũi, khó ưa „.

 

 

Thủy Điền

 

153- Bị Rầy

 

        Chỉ cú phôn hỏi đứa cháu gái, sao mấy ngày nay Cô gọi cho mẹ cháu mà chẳng thấy mẹ cháu bắt phôn gì cả, Cô lo quá, không biết có chuyện gì nên sang qua hỏi cháu thử xem sao. Thế mà hai Cô cháu lời qua, tiếng lại mà đã mất hơn một tiếng đồng hồ.

      Lâu rồi, hơn mười năm nay chưa bao giờ nó gọi thăm Cô một tiếng hay lái xe ghé qua nhà, mặc dù nó thường hay đi qua ngang chỗ Cô nó ở lắm. Cô nó nhiều lúc cũng giận con cháu ngày nay khó hiểu quá, nhưng rồi Cô nó bỏ qua, thây kệ tất cả lớn hết rồi, có ngồi trách cũng bằng thừa.

     Bỗng dưng mấy ngày nay ngồi nhớ mẹ nó, nên gọi điện thoại hỏi thăm bà xem có khỏe không? Vậy mà chẳng nghe ai bắt điện thoại gì cả, sợ bà có mệnh hệ gì nên đăm lo. Ngồi tính tới, tính lui thôi gọi nó thử xem nó có biết được chuyện gì về mẹ nó chăng.

    Gặp nó, nó bảo chắc có lẽ mẹ nó đang ở sau vườn nên không nghe điện thoại, vì mùa nầy tháng năm trời bắt đầu ấm áp, nên mẹ nó  tích cực vun xới để trồng một ít bông hoa và hoa màu cho khu vườn nhà được xinh ra. Nghe nó nói mẹ nó vẫn khỏe thấy cũng an tâm và chờ dịp khác bà rảnh rỗi điện thoại hỏi thăm sau cũng không muộn. Ai ngờ! Sẵn dịp điện thoại nó thao thao bất tuyệt nào hỏi thăm sức khỏe, nào kể chuyện trên trời dưới đất đã ấp ủ trong lòng nó gần cả chục năm nay như chưa một lần thố lộ cùng ai bao giờ. Làm Cô nó chỉ biết ngồi nghe nó nói rồi cười vui vẻ trong những câu chuyện. Nó kể về việc trồng trọt cho Cô nó nghe, sao năm nào cũng thế, mỗi lần trồng cháu cũng đều bị rầy cả Cô ơi. Còn Cô trồng có bị rầy không ?

 *Cô nó trả lời không, Cô chưa hề bị rầy bao giờ.

-Thế thì Cô hên quá, còn cháu thì vô số kể.

*Cô nó nghĩ tại nó trồng không đàng hoàng và không thứ tự, mẹ nó thì lại khó khăn cho nên cái gì cũng rầy la, cốt để con cái làm cái gì cũng phải ý tứ hơn thì công việc mới tốt được.

-Nó nói Cô làm cách nào để không bị rầy, Cô chỉ giùm con để năm sau con không bị rầy.

*Cô nó chậm rãi nói, cháu làm cái gì cũng vậy phải nhẹ tay, khéo léo, sạch sẽ, thứ tự và nề nếp, mẹ cháu chỉ thế nào, cháu làm y thế nấy. Cô tin chắc lần sau, năm sau và cả những năm kế tiếp cháu sẽ không bao giờ bị rầy.

-Nó bảo cháu lần nào và năm nào cũng đều làm theo ý mẹ cháu mà cháu vẫn bị rầy, thế là sao hả Cô?

*Rõ ra là mẹ cháu khó quá, cháu có muốn Cô giúp cháu điều gì, Cô thú thật, cô đành bó tay.

     Nó suy nghĩ một hồi rồi nói tiếp, chắc là Cô hiểu sai cháu rồi, ở đây cháu muốn nói là sâu rầy kia chứ không phải mẹ cháu rầy la gì cả, mẹ cháu dạo nầy dễ lắm Cô à, bà không như lúc trước đâu, bà tân thời rồi.

     Cô nó bật ngửa, té ra là như thế, Cô hiểu sai về cháu rồi, tại cháu nói không rõ ràng nên Cô nhầm lẫn. Thú thật với cháu Cô tài giỏi vì đâu cháu, chẳng qua nhà Cô không bị rầy là vì Cô ở tầng ba,  hơi cao nên bọn chúng không đến quấy nhiểu, còn cháu ở tầng trệt nên thường hay xẩy ra đó là chuyện bình thường. Nếu cháu muốn sau nầy không có sâu rầy thì nên dọn lên tầng ba mà ở hay cao hơn, hy vọng năm sau cháu sẽ giống như Cô. Cám ơn Cô, chào cô, hẹn dịp khác Cô cháu mình tâm sự nhiều hơn còn bây giờ cháu phải đi bắt rầy đấy.

 

Thủy Điền

 

152- Chuyện Nàng Karin

 

   Sau khi sanh cô con gái đầu lòng, lẽ ra Karin phải mừng rỡ vì nàng đã sanh cho một gia đình Hoàng tộc một đứa con xinh đẹp và khỏe mạnh. Đàng nầy ngược lại nàng cứ khóc và u buồn suốt gần mấy tháng qua, vì Ngài Bá tước chồng nàng bất bình, không thèm nói và cũng chẳng đến thăm nàng nữa. Bởi Ngài chỉ chờ đợi ở nàng một cậu con trai để mai nầy còn có người nối ngôi, kế vị.

   Trong chuyến kinh lý tại một làng nhỏ, tình cờ Ngài Bá tước nhìn thấy Karin đang tưới hoa trong sân nhà. Ngài cho ngựa dừng lại, rồi bảo quân lính tránh xa và chờ đợi. Ngài xuống ngựa và làm quen với Karin. Biết ra Karin là con gái độc thân, mồ côi cha mẹ và hiện sống cùng đứa em trai đã có gia đình và cô em gái cũng độc thân. Ba anh em từ ngày cha mẹ mất cùng nhau gói gọn, đùm bọc lẫn nhau trong căn nhà bé nhỏ nầy. Lời qua, tiếng lại Ngài Bá tước giã từ và lên ngựa cùng đám lính hầu đi tiếp. Mọi người xung quanh cứ ngỡ như câu chuyện qua đường, việc Ngài Bá tước thăm hỏi dân làng là việc bình thường nên mọi người chẳng ai thèm để ý, để tâm. Hơn nữa Ngài Bá tước đã có vợ và hai cô con gái sờ sờ.

   Sau khi chuyến kinh lý trở về, Ngài Bá tước cứ ngồi trên ngai vàng trầm ngâm suy nghĩ chẳng nói điều gì và cũng chẳng thèm động địa đến ai. Bao Quan hầu ngỡ Ngài bị bệnh bèn mang thuốc than đến, nhưng Ngài cứ gạt ngang và bảo mang đi nơi khác.

   Hai hôm sau, Ngài cho dời Chánh phi và hai cô con gái sang căn Biệt thự khác và ra lệnh cho quân hầu mời cho được Karin về. Karin về đến nơi Ngài vui vẻ trở lại và nói thao thao bất tuyệt. Chỉ trong khoảnh khắc Ngài tuyên bố cùng mọi người Karin sẽ trở thành Chánh phi trong tương lai và cho mời tiếp những người trong gia đình Karin vào Tòa Lâu Đài ở cùng.

   Chánh phi đầu tiên của Ngài coi như mất chức, vì sanh cho Ngài chỉ hai nàng con gái. Khi nghe Ngài sắp đính hôn cùng bà vợ kế, bà như điến hồn, nửa say nửa tỉnh, nhưng cũng phải đành chịu một khi Ngài đã quyết. Hơn nữa bà quá rõ vì bà không sanh cho Ngài được một chàng trai nào để nối ngôi. Trong ghen tức và hờn giận, bà và hai cô con gái ngậm ngùi sống âm thầm nơi căn biệt thự nhỏ cạnh gần cây cổ thụ.

   Vừa về đến Tòa Lâu Đài vài ba tháng, Ngài nhìn thấy cô em gái của Karin càng lúc càng sang trọng đẹp ra, Ngài bắt đầu dò dẫm và ăn ở với nàng. Karin và anh trai biết được điều nầy, nhưng phải đành câm nín. Một hôm Ngài Bá tước đi vắng cô em gái chạy sang than thở và kể rõ cho Karin biết hết mọi việc. Karin giận quá, tát cho cô em gái một tát tay rồi ôm đầu gục khóc. Karin vừa giận, vừa thông cảm nỗi khổ đau của em mình và của chính bản thân mình rồi nàng mặc kệ Ngài muốn làm gì thì làm, có chống trả lại cũng vô ích khi nàng và em nàng là những viên sỏi nhỏ trong Tòa Lâu Đài nầy.

   Karin về ở với Ngài gần tám tháng nay mà chẳng thấy có tin tức gì, còn cô em gái bụng dạ càng ngày càng phì to và sắp đến ngày ra hoa, nở nhụy. Nhìn em mình Karin bỗng đăm ra lo sợ, lỡ Ngài nghĩ mình chẳng sinh được con thì chết mất. Nhưng cũng may, vừa gần tròn một năm sống với Ngài nàng đã mang thai, sự vui mừng nổ tung cả Tòa Lâu Đài và loang rộng khắp nơi, Karin bây giờ là Chánh phi danh giá có một không hai.

   Trong lúc Karin có thai, cô em gái cũng sinh được một cậu con trai thật khá khỉnh. Ngài rất hài lòng. Nhưng luật lệ Triều đình không cho phép, nên cô em gái xin Ngài cho về quê chốn cũ, Ngài chấp nhận, ưng lòng.

   Ngày tháng đã đến, Ngài chờ đợi Karin sinh cho Ngài một chàng trai, ai ngờ Karin sinh một nàng con gái trong thật xinh xắn và khỏe mạnh. Khi nghe nàng sinh con gái, Ngài dường như vỡ mộng, Karin và mọi người cũng thế. Kể từ đó sau một năm dài sống chung ân ái Ngài bắt đầu hờ hợt, lạnh nhạt và dường như thưa dần với Karin. Chỉ một năm, vừa ôm đầu khóc hận vì cô em gái, nay lại phải ôm đầu vì sinh nàng con gái, bao vất vả, khổ đau chồng chất lên đầu nàng, nàng chỉ biết khóc trong âm thầm ,lặng lẽ.

    Trước những tình huống và tham vọng nàng nhất định không chịu thua và nhất định sẽ sinh một chàng con trai rồi ở tại Toà Lâu Đài nầy, chứ không như bà Chánh phi trước phải ra Biệt thự nhỏ mà ở gần bên cây cổ thụ.

    Thừa cơ hội Ngài đi kinh lý, Karin bàng với người em trai ruột thịt, rằng nàng nhờ anh ta cho nàng một cậu con trai rồi sau đó thế nào cũng được. Cậu em trai từ chối, nàng cứ bắt buộc, chàng vẫn từ chối, vì đây là một cuộc loạn luân không thể chấp nhận được. Cậu em trai nhiều lần bảo Karin xin Ngài cho tất cả về quê, nhưng nàng không chịu và nhất quyết ở lại đây.

   Một hôm hai chị em ngồi bàng cãi về câu chuyện sinh con, đẻ cái Karin không cần xin xỏ, năn nỉ vì nữa cả, nàng bạo dạng cưởng hiếp em mình một cách trắng trợn .Nhưng vô tình vợ chàng tìm đến và bắt gặp. Nàng ôm mặt khóc vì thấy chồng mình đang ân ái cùng chị ruột, nàng liền báo ngay cho Ngài biết sự việc. Ngài tức giận vô cùng vì hiện tại Ngài và Karin ít ăn ở với nhau, nhưng Karin là Chánh phi là vợ của Ngài. Tại sao em trai nàng dám làm chuyện tài đình đến thế. Ngài ra lệnh sai quân hầu lôi cổ em nàng và nhốt trong ngục sâu chờ ngài ra tòa lãnh án. Riêng Karin Ngài cho mời vào Dinh tra hỏi? Nàng nhận tội và cho vào ngục sâu khác.

   Trong phiên tòa xử Karin và em trai hai người đều cùng một tội, sai qui luật Cung đình nên phải phạt tù chung thân và đày ra một đảo xa sống cùng chung những người mọi rợ, bần hàn khố rách.

      Nghe tin anh chị bị án tù chung thân và đày đi đảo xa, cô em gái từ làng quê nhanh chân về xin Ngài tha thứ và giảm tội. Rất tiếc Ngài đã quyết xin nàng hãy về đi.

     Ngày hai anh em lên tàu ra đảo, Karin nhắn nhủ người em gái hãy mang con gái chị về quê nuôi dưỡng và nhất quyết không cho để lại ở Dinh. Chuyến tàu đưa hai người càng lúc càng xa, tay vẫy tay đưa tiễn, những giọt nước mắt của cô em gái và cô con gái thân yêu cũng theo dòng trôi chảy.

    

  Thủy Điền

Ngày 12, tháng 3, năm 2016

Thivanviet.wordpress.com

Tran.vanmau@yahoo.de

 

Thủy Điền

 

151- Tiếng Chó Sủa

 

       Giữa đêm thanh vắng, tiếng Chó sủa ầm vang lúc sau nhà, lúc trước ngõ. Ông Hai ngồi dậy lắng tai nghe tiếng động và bảo bà cùng dậy xem coi sắp có chuyện gì xảy ra. Rồi cả hai đành phập phòng thức trắng đêm.

       Ngày xưa khi nghe tiếng Chó sủa phía nào là ông biết ngay rằng ai sẽ đến, còn bây giờ thì ông chịu thua.

        Nếu Chó sủa sau nhà là ông biết ngay phí bên kia.Họ nói nho nhỏ hoặc cho những ám hiệu, ông chỉ cần tằng hắng là con Vện sẽ im lìm đi nơi khác.Họ đến trong chớp nhoáng. Ông giải quyết những gì họ yêu cầu thế là đi ngay.

        Nếu Chó sủa trước nhà chắn chắn là Cảnh sát, Dân vệ đến khám xét sổ gia đình, ông cũng chỉ tằng hắng là con Vện không hề nhúc nhích. Sau khi khám xét xong, không có gì nghi vấn thì họ đi nhà khác.

        Qua những lần như thế, con Vện nhà trở thành thói quen và ông Hai dường như nằm lòng tiếng Chó sủa. Bởi thế khi giải quyết những nhu cầu hay mở cửa cho Chính quyền khám xét thì ông bà trở lại giấc ngủ bình thường và ngon giấc.

        Sau những năm Hòa bình lẽ ra ông bà phải ngủ ngon hơn thời Chiến tranh là khác, nhưng ngược lại ông bà lúc nào cũng phập phòng, sợ hãi.Tiếng Chó sủa ngày nay khác hẵn hơn ngày xưa nhiều. Nó sủa liên tục như trấn áp kẻ địch đang tấn công nó. Mặc dù ông thỉnh thoảng la rầy, nhưng nó không nghe và vẫn sủa, không phải là nó không sợ chủ, nhưng nó đang chóng chọi kẻ thù, nó không thể chùng bước. Nếu nó chùng bước và nghe ông trong lúc nầy có lẽ ngày mai ông Hai sẽ mất đi ổ trứng gà hay chiếc Hon-da quên khóa.Và cũng có lúc nó đang sủa dữ tợn rồi bỗng dưng tắt hẳn. Bởi nó đang ngậm phải miếng mồi ngon mà thiên hạ vừa biếu cho nó. Sau khi ăn xong nó cũng được người ta nhẹ nhàng mang đi luôn.Và từ đó ông Hai sẽ không bao giờ nghe tiếng nó sủa vào những đêm khuya cũng như nhìn thấy hình dáng yêu kiều nó nữa.

 

Thủy Điền

 

150- Vĩnh Biệt Một Cuộc Tình

 

   Nghe tiếng gõ cửa lốp cốp Lê đang ngủ. Giật mình dậy, hai tay dụi dụi hai con mắt. Không biết Phương hay Phượng đến đây, chàng nửa mừng, nửa lo. Chờ một chút anh mở cửa ngay.

    Lê và Phương cùng học chung một khoá, hai đứa yêu nhau hơn hai năm nay có thể khi ra trường họ sẽ cưới nhau nữa là khác. Những ngày nơi mái trường họ khăng khít với nhau như Sam không rời xa một tất.

    Ngày lên đường đi thực tập Lê được đưa về Sông bé còn Phương thì về Thành phố. Quãng đường từ Thành phố về Sông bé không xa, nên vài ba ngày thì Phương đi xe Buýt lên Sông bé thăm Lê. Hai tháng đầu thì Lê chẳng ghi chữ nào ngoài cánh cửa cái, Phương lên thăm lúc nào cũng được, hể khi nào nàng lên thăm, là chàng mở cửa ra và bảo à Phương mới đến, rồi lập tức mở cửa ngay không cần do dự hoài nghi vì cả. Nàng cũng thế rất tự nhiên như nhà mình.

    Sau hai tháng thực tập chàng quen một cô bạn gái khác ở Lái thiêu, cô ấy tên Phượng. Cứ đúng vào ngày thứ bảy cuối tuần là Phượng đều lên thăm Lê rất đúng hẹn. Qua vài tuần như thế Lê sợ bại lộ, lỡ hai người đến thăm một lượt hay cùng ngày là nguy mất. Nên Lê nghĩ ra cách lấy phấn vẽ chữ P thật lớn trước cửa cái và ghi phụ thêm hàng chữ (nhỏ) chờ anh một tí. Như thế Phương hay Phượng có lên đều nhìn thấy và chẳng ai nghi kỵ gì, tất cả đều ngỡ P là tên của mình như vậy sẽ ổn hơn.

    Một hôm Lê về Thành phố gặp Phương, chàng bảo nếu Phương có lên thăm anh thì nên đi vào ngày làm việc còn những ngày cuối tuần anh thường hay ra Thủ dầu một chơi cùng mấy anh em trong đội để lấy lại không khí sau những ngày làm việc mệt nhọc.Thoạt đầu nàng giận .Tại sao anh ta không dành ngày nghĩ cuối tuần cho mình, nhưng nghĩ đi, nghĩ lại chắc Lê hay đi nhậu nhẹt cùng những người bạn nên chìu lòng.Thế là từ đó về sau Phương chỉ đến sau giờ nghĩ và trọ lại một đêm sáng mai về Thành phố làm việc. Xong phần Phương đối với Phượng thì chàng khỏi cần lo vì nữa cả, vì Phượng chỉ đến cuối tuần như thường lệ ngoài ra ngày thường có lẽ Phượng bận việc học hay buôn bán hoặc làm việc gì đó không lên được.

    Kể từ đó Lê như ông Hoàng nho nhỏ, tuần nào cũng có hai con Ghệ đến thăm trong khi những thằng bạn của Lê chẳng có con nào. Bỗng dưng trong buổi cơm chiều anh Đoàn trưởng nửa vui, nửa đùa, Lê ơi mầy làm tao hồi hợp quá Lê, tao liên tưởng có ngày căn nhà nầy nổ tung quá mậy. Lê trả lời không sao đâu, tôi sắp xếp cả rồi, anh đừng lo gì cả.

    Chỉ còn một tháng nữa thời gian thực tập sẽ kết thúc, tháng cuối cùng mọi việc gần như xong tất cả. Mọi người rất rảnh rang, chỉ ăn với ngủ và còn chờ ngày về trường. Đùng một cái Phượng từ Lái thiêu lên, nàng lên ngay trưa thứ năm chứ không như thứ bảy thường lệ, lần nầy lên chủ đích của nàng là báo cho Lê biết là thứ bảy nầy nàng sẽ xuống Thành phố ở luôn vì nàng vừa thi đỗ vào trường Cao đảng Nông nghiệp hay nói cách khác nàng muốn từ giã Lê một thời gian.Trước lúc chia tay hai người đang bùi ngùi âu yếm thì Phương từ Thành phố lò mò lên. Lê không còn cách nào khác là phải mở cửa cho Phương vào.Tình thế kẹt cứng cả ba đều lặng câm không ai nói lời nào. Phượng đứng dậy chào và ra cửa để nguyên tay áo chà chữ P cho thật sạch, đi một nước và lầm bầm “Đồ gian dối “.

     Không gian chỉ còn lại Phương và Lê, Lê bày tỏ, xin lỗi đủ điều, nhưng nàng vẫn lặng câm rồi đứng dậy chào vĩnh biệt.

     Ngày trở về trường Lê muốn nối lại tình xưa, nhưng Phương chỉ xem Lê như người bạn cùng lớp cũng như bao người bạn khác.

 

Thủy Điền

 

149- Nếu Tôi Là Ông Chủ

 

    Tại sao ta không nhìn những phong cảnh thiên nhiên, những đặc thù của nơi khác mà học hỏi để tô điểm cho xứ sở mình một ngày một tươi đẹp và ấn tượng hơn ví dụ.

-Hải phòng với những con đường Phượng đỏ

-Trái vãi Hưng yên

-Gốm Bát tràng

-Mận Trung lương

-Bánh phòng Sađéc

-Bưởi năm roi Vĩnh long

-Mấm lóc Châu đốc

-Lụa Hà đông

-Đà lạt ngàn hoa v.v…

    Nếu tôi là ông Chủ trước tiên tôi sẽ dùng đất của Thị trấn sẵn có, rồi tuyễn mộ vài ba người thợ ương, rép cây và thành lập vườn ương cây Hoa giấy hay còn gọi là Vạn hoa lầu. Cây Hoa giấy rất dễ trồng, thích họp vùng nhiệt đới, không cần tưới nước nhiều, phát triển rất nhanh, đủ loại sắc màu như: trắng, hồng, cam, tím và ra hoa bốn mùa.

     Loại cây nầy trong tương lai, tôi sẽ phát động trồng toàn Thị trấn. Trước tiên là tất cả các Cơ quan nhà nước, kế đến là những con đường chánh và phụ, Công viên và những ngõ hẻm xa xôi. Những cây nầy có thể trồng trên chậu hoặc trực tiếp xuống đất hay những hàng rào công cộng.

     Sau khi đường phố, công viên bắt đầu nở hoa. Tôi kêu gọi các Hãng xưởng, Xí nghiệp, Thương gia và những người giàu có trồng trước bằng cách mua cây giống giúp Thị trấn với giá ủng hộ, để lấy tiền trả cho nhân viên vườn ương. Có như thế vườn ương sẽ sinh sản ra nhiều cây giống khác. Khi ra nhiều cây giống tất nhiên giá thành sẽ hạ thấp như ý muốn.

     Giai đoạn hai nầy tôi sẽ kêu gọi những người có thu nhập trung bình, quí vị Công nhân viên nhà nước cùng hưởng ứng phong trào và Thị trấn sẽ bán cây giống với giá phải chăng cho họ, để họ đồng tham gia và Tôi sẽ chờ đợi một thời gian ngắn khi Thị trấn thật sự tỏa hương, đượm sắc, tôi sẽ thực hiện tiếp giai đoạn ba.

     Giai cuối cùng tôi cho mời họp tất cả những hộ nghèo, giải thích sự ích lợi chung và kêu gọi họ cùng trồng và cây giống được biếu không.

     Đồng thời cũng vạch ra Nội quy và điều lệ để mọi người cùng nhau thực  hiện như sau:

1-Khi đã trồng cây Hoa giấy phải chăm sóc cho chu đáo, không được phép trồng có lệ, qua loa.

    2-Ai làm hư hại cây Hoa giấy dù của Tư nhân hay Nhà nước (Có bằng chứng) Sẽ bị phạt tiền. Số tiền nầy được xung vào qũy ương cây

    3-Dọc theo các con đường đều dựng lên những Thùng rác công cộng, mỗi Thùng cách nhau 50 mét. Như thế vừa bảo vệ Môi trường và tập người dân sống gần nếp sống văn minh.

    4-Tạo mọi điều kiện cho người dân trồng cây Hoa giấy để sản xuất.

    5- Mọi nhà có thể trồng các loài Hoa khác, nhưng không thể thiếu cây Hoa giấy.

     Qua những ý tưởng và kế hoặch trên tôi hy vọng, sau một năm, hai năm hay lâu hơn một chút Thị trấn quê tôi sẽ trở thành một rừng Hoa giấy đủ sắc màu. Từ đó

-Ai từ Thành phố về Lục tỉnh cũng nhìn thấy rừng Hoa giấy Tân hiệp

-Ai từ Lục tỉnh đi Thành phố cũng nhìn thấy rừng Hoa giấy Tân hiệp.

     Mỗi ngày có hàng vạn người đi qua, mỗi ngày có hàng vạn tiếng đồn đãi, một năm, hai năm, mười năm, hai chục năm sau tôi tin chắc trong đầu mỗi người từ bé đến lớn đều gọi Tân hiệp quê tôi là xứ Vạn hoa lầu.

        

 Nếu tôi là ông Chủ quê tôi

Tôi cố quyết dựng xây tuyệt đẹp

Tôi sẽ họa quê tôi lắm nét

Một vườn hồng Hoa giấy xinh tươi.

 

Thủy Điền

 

 

148- Cây Thông Vắng Chủ

 

  Năm nào cũng thế, cứ độ chừng mười chín, hai mươi tháng chạp dương lịch là vợ chồng thằng Bern về chặt cây Thông để trang điểm trong căn nhà vào những ngày Giáng sinh,Tết đến. Riêng năm nay chẳng thấy hai đứa nó về, bà Anne ngồi buồn nhìn ra cổng.

   Kể từ khi con gái bà lập Gia đình với thằng Bern năm nào bà cũng trồng thêm một cây Thông cho vợ chồng nó, trình tự như thế năm năm liên tiếp. Hể bà đốn cây nầy là bà trồng cây khác ngay và vừa đúng năm năm là cây Thông cao lớn, đủ chưng diện trong căn nhà nhỏ vào những ngày lễ trọng đại. Bà chăm sóc nó rất cẩn thận và xem nó như là một vật quí giá. Mặc dù hàng năm con bà có thể mua ở một trại ương cây nào đó chừng vài ba chục bạc.

    Cứ khoảng còn năm ngày nữa là Giáng sinh thì hai vợ chồng thằng Bern lon ton về vừa thăm mẹ già, vừa mang cái Sẻn ra bứng cây Thông mang về trong niềm vui phấn khởi, sung sướng và xem như phúc lộc đầu năm, bà Anne cũng thế mỗi khi cho con, giúp con được cái gì bà mừng vô hạn.

    Nhưng gần một năm nay bà nghe loáng thoáng hai vợ chồng nó lục đục về tình cảm, cảnh nhà không vui, bà rất buồn, nhưng không tiện hỏi. Bà nghĩ dần dần rồi cũng sẽ qua, chuyện vợ chồng cơm không lành, canh không ngọt là chuyện bình thường. Nhưng đáng buồn hơn là mọi chuyện không như bà nghĩ, chúng nó vừa chia tay và đang chờ ngày ly dị. Con gái bà đã dọn nhà đi nơi khác.Căn nhà chỉ còn lại thằng Bern và hai đứa con nhỏ.

     Cảnh nhà thằng Bern bây giờ vắng lặng, thiếu bóng đàn bà, bề bộn. Bởi thế những ngày Lễ nhỏ, lớn hay Sinh nhật, Đám đình đối với Bern bây giờ không còn ý nghĩa, hứng thú như xưa nữa, tất cả đã nhạt nhoà . Chàng luôn trầm lặng và ít giao tiếp bên ngoài.

     Tuy biết hoàn cảnh Bern như thế, nhưng bà vẫn luôn nuôi hy vọng rằng thằng Bern sẽ về mang cây Thông đi. Rồi bà cứ chờ, chờ đợi mãi mà chẳng thấy bóng dáng thằng Bern đâu.

      Mùa Giáng sinh năm nay bà bứng cây Thông của bà vào chưng và bà  bùi ngùi đặt tên cho cây Thông của thằng Bern là Cây Thông vắng chủ

  

 

Thủy Điền

147- Còn Một Chút Tình

 

    Cầm cây AK47 đâm băng đạn vào, lên nồng. Tao sẽ giết mầy rồi đi tù hay bị xử bắn tao cũng hã dạ. Một phút sauVịnh lấy đạn ra và nói. Thôi tha hắn đi, vì hắn đã cứu mình một lần.

    Năm 1978 trận lụt kéo về thôn của Vịnh, nước ngập mênh mông Vịnh bắt ghế sửa cầu điện,Vịnh xui bị điện giật và ngã xuống bất tỉnh.Vợ Vịnh la lên nhờ người cứu giúp. Cũng may có thầy Khánh đang dọn dẹp sách vở và bàn ghế bên trường học chạy sang, vì nhà Vịnh cách trường học chừng năm chục mét.Thầy Khánh là một giáo viên dạy Thể thao nên ông ta rất rành rõi những động thái hô hấp, chỉ trong một tiếng đồng hồ Vịnh bắt đầu ngoa ngoe sống dậy, nhưng rất yếu. Nếu không có thầy Khánh chạy sang là Vịnh chết mất.Vợ Vịnh cám ơn thầy Khánh không lời nào tả hết.

    Năm 1979 trường thầy Khánh được Tỉnh chuyển sang trường dạy nghề. Thầy Khánh và một số Giáo viên vẫn còn dạy ở đó và vợ của Vịnh cùng mấy cô gái cùng thôn cũng xin vào trường làm việc với công việc chị nuôi. Sau thời gian gặp nạn Vịnh dần dần hồi phục và ở nhà làm nương rẫy.

   Năm 1981 Vịnh được giấy gọi đi Nghĩa vụ quân sự và anh ta lên đường, học tại Đồng tâm được ba tháng rồi đưa thẳng sang Campuchia công tác. Thời gian công tác gần một năm rưởi, Vịnh có dịp trở lại Đồng tâm để nhận quân và tạt về thăm vợ con.

   Bước vào nhà gặp vợ con mừng rỡ sau những ngày xa cách, rồi vòng quanh thăm cha thăm mẹ, bạn bè vô tình Vịnh nghe tin vợ mình bây giờ đã ân ái cùng thầy Khánh. Vịnh bàng hoàng choáng váng, nhưng cố giữ bình tĩnh.Vịnh giả đò không hay biết gì cả. Hết ngày thăm vợ con Vịnh vui vẻ trở về đơn vị. Hiện tại vợ Vịnh nghĩ chồng mình không hay biết gì cả. Mặc dù lúc đầu hơi lo lo.

    Thời gian Vịnh đi nghĩa vụ là thời điểm Campuchia rất ác liệt. Có đi, nhưng khó về, có về cũng chẳng mấy ai còn nguyên vẹn. Vợ Vịnh không biết vì đa cảm hay phòng khi gió lạnh.

    Vừa về đơn vị được năm ngày,Vịnh năn nỉ Thủ trưởng rằng Vịnh xin nghĩ phép ba ngày về gia đình có nhiều chuyện cần giải quyết. Thủ trưởng không cho và bảo anh vừa về Gia đình tuần rồi đấy mà.Vịnh năn nỉ miết Thủ trưởng chấp nhận và Vịnh về Việt nam.

    Bước vào nhà vợ Vịnh tá hoả. Vịnh không vòng vo và đi thẳng vào vấn đề.Vợ Vịnh thừa nhận sự việc.Vịnh hồi đầu cứng rắn, nhưng khi nghe vợ mình thừa nhận chàng như điên mất. Bao nghi ngờ, đồn đãi đã thành hiện thực.Vợ Vịnh chấp nhận mọi hình phạt đối với Vịnh, nàng ngồi gục đầu và khóc, kể lể đầu đuôi câu chuyện.

    Nàng nghĩ chàng không bao giờ trở về nữa nên gây ra lỗi lầm.Vịnh thấy vợ ăn năn nên chàng không nở và càng câm hận hơn người đàn ông đã hữu hoá vợ mình. Chàng chẳng trả lời, trả vốn vì với vợ tất cả mọi việc đã quá rõ ràng còn gì mà tra vấn nữa.

    Vịnh lấy súng ra lên đạn, nàng ngỡ chàng sẽ bắn mình nên quì lại, khóc lóc vang xin chàng gạt qua một bên và đi đăm đăm về hướng trường học, chàng định cho thầy Khánh một băng AK cho hả giận. Nhưng đến cổng trường chàng nghĩ Hắn đã một lần cứu mình thoát chết, giờ chẵng lẽ giết Hắn, thôi tha cho Hắn một phen.

     Sau ba ngày nghĩ phép về đơn vị đúng hẹn. Chàng ngẫm nghĩ „Đời sao khốn nạn đến thế“ Có kẻ đã từng cứu ta, rồi lại giết ta.

 

Thủy Điền

 

 

 

146- Gặp Lại Nhau

 

        Vừa bước xuống xe, đang chờ anh Phụ xế chuyển giỏ đồ trên mui xuống. Thằng Hùng bỗng đâu la lên. Thành hả Thành, rồi hai thằng ôm nhau, vỗ vai, mầy đi đâu mất biệt mấy năm trời.

        Thời gian bảy tám năm nay, Thành đi làm ăn xa, không còn gặp lại Hùng nữa và cũng chẳng thư từ, liên lạc vì cả. Hai thằng dường như đứt tuyệt.

        Gặp lại Hùng mừng quá, hai thằng vào quán nước gần bên tâm sự. Thành hỏi ?

-Sao dạo nầy vợ con đều khỏe chứ ? Hùng hả miệng cười.

*Kể từ thời gian mầy đi cho đến nay bết và cực khổ quá mầy ơi.

-Tao đang hỏi mầy về sức khẻo của Gia đình, mầy trả lời đâu đâu, không đúng câu hỏi của tao tí nào cả. Tao chưa hỏi đến công ăn việc làm. Hùng hả miệng cười.

*Xin lỗi mầy, tại tao gặp mầy mừng quá, nên trả lời lung tung. Gia đình tao cũng bình thường. còn mầy ?

-Thì cũng khỏe cả. Riêng mầy thì tao khỏi hỏi nhìn hiện tại là biết rồi, hỏi thêm cho phí. Ê mà sao tao hỏi cái gì mầy cũng hả miệng cười vậy mậy.

*Chớ chẳng lẽ mầy bảo tao khóc sao Thành, có khổ cách mấy cũng phải cười chớ mậy.

-Bây giờ đến lượt tao hỏi về đời sống mầy đây.

*Thú thật anh em lâu gặp nói ra thì kỳ, khổ lắm Thành ơi, làm việc cực nhọc mà chẳng dư dả, thấy làm sao mầy ạ.

- Mầy định chiều nay không cho tao tới nhà mầy sao ? Mầy làm việc chỉ một mình hay làm cả nhà?

*Làm cả nhà, một mình có môn mà chết đói.

-Mầy nói xong chưa Hùng?

*Thì đại để chỉ vậy thôi, rồi hả miệng cười.

-Hùng nầy, tao không tin mầy cực khổ đâu Hùng.

*Chớ mầy bảo tao nói sướng, sướng cái nỗi gì.

-Công việc cửa Hùng hàng ngày như Hùng đang kể, Hùng cầm trên tay mười tờ Vé số đi vòng quanh bán, một người mua, hai người mua thậm chí có người mua hết một lần. Mỗi tờ Hùng lời một ngàn, mười Vé Hùng lời mười ngàn. Đó là tao nói riêng mầy, còn con mầy cũng kiếm một ngày mười ngàn và vợ mầy cũng thế. Như vậy mỗi ngày Gia đình Hùng kiếm được ba chục ngàn.Vậy là ngon lắm rồi Hùng. Đặt trường họp ngày ấy bán trên mười Vé thì khỏi nói rồi và mười tờ Vé số chỉ cân nặng không tới năm chục gram. Thế mà Hùng bảo là nặng nhọc và cực khổ. Hùng thấy tôi nói đúng không. Riêng Thành một ngày đi nhổ cỏ ruộng, đầu đội trời, chân đạp đất tám tiếng đồng hồ mới được ba chục ngàn, chủ thỉnh thoảng còn hối thúc làm nhanh lên. Còn Hùng sáng ra, may thời có người mua hết là Hùng nghỉ việc cho đến chiều, ngày ấy chỉ làm nửa tiếng đồng hồ là cao. Như vậy thử hỏi giữa tao và mầy ai cực khổ và nặng nhọc hơn ai. Hùng hả miệng cười.

*Thỉnh thoảng thôi mầy ơi, chim nhả miệng ve.

-Nói cho vui vậy thôi, thấy mầy khỏe, Gia đình mầy hạnh phúc là tao mừng rồi. Sẵn dịp về thăm nhà tao có đem ít chuối tao trồng, tao tặng mầy hai nải mang về vợ con ăn cho vui.

*Thôi Thành mang về nhà đi tao không nhận đâu.

-Tao còn cả tám nải kia, mầy nhận đi, nếu không gặp mầy ở đây thì mầy cũng khỏi cần khuyên tao.

     Thằng Hùng ngày trước được lắm, dân chơi một thời. Lẽ ra ngày gặp lại, Nó nhận ra mình trước, nó phải mời mình đi uống nước, Cà-phê .Ai ngờ gặp lại, Nó chỉ biết Than giản. Thật ngược đời.

 

Thủy Điền

 

145- Những Cảnh Đời Trước Mắt

 

         Nhìn những đứa trẻ ngày ngày bán Vé số, móc Bọc mũ, đánh Giầy, Bụi đời, ăn dực tranh nhau, rồi thốt lên những tiếng chưởi thề nghe chát tai. Thầy So ngồi bên vệ đường hàng ngày Vá xe, bỗng dưng lòng thầy thấy buồn buồn và rưng rưng nước mắt.

    Trước ngày Đất nước thống nhất. Thầy đã đi dạy được ba năm tại một trường Trung học của Quận, lúc ấy thầy hai mươi tám tuổi. Nhưng sau ngày ấy thì thầy không được dạy nữa như bao cô thầy khác. Mặc dầu thầy có làm đơn xin dạy lại nhưng không được cứu xét. Thế thì thầy đành thất nghiệp và phải tự đi tìm một công việc khác để sống.

    Ngày xưa thầy chỉ dạy môn Toán - Lý Hóa, môn học nầy chẳng dính dáp vì đến chế độ mới, nhưng luật lệ hiện hành của nhà nước là không trưng dụng những người chế độ cũ, nên phải đành.

    Trong thời gian thất nghiệp thầy chọn tiếp cho mình cái nghề bán thuốc lá lẻ ven đường, ngày ngày ông đi qua, bà đi lại mua vài đìếu thuốc thì cũng sống lây lất được.  Được gần một năm thì thầy chuyển nghề sang Vá ép xe đạp. Thầy có hai Cơ sở và đặt tên là cây Đa.

-Một là tiệm Vá xe đạp gồm có:

     Một cái thau đựng nước, hai cái lốp xe cũ, treo tòn ten trên cây Đa, vài ba cái ruột xe bị hỏng, dụng cụ sửa xe đạp và một ít keo.

-Hai là cây Xăng gồm có:

     Một cái chai một lít đựng nước lả, cái ghế đẩu và một cái phểu úp lên đầu cái chai.

     Hàng ngày kẻ qua, người lại, ai cần chi thầy đều giải quyết được tất, thầy vừa kiếm sống qua ngày, người qua đường cũng không hề chậm bước. Trong những lúc vắng khách thầy nằm trên cái ghế đu nhìn ra lộ chính từ sáng sớm đến chiều, thầy thấy hết tất cả những hoạt động hàng ngày rồi thầy tự hỏi.

    Nếu trường hợp thầy và hàng chục ngàn thầy cô khác được tiếp tục dạy cho đến ngày nay thì những đứa trẻ đang diễn ra trước mắt thầy đâu đến nỗi và có thể tương lai chúng là những người giúp ích cho xã hội nữa là khác.

    Miền nam trước đây theo thống kê dân số tổng cộng mười bảy triệu rưởi dân, ta đem chia làm ba, trẻ em, trung niên và những người cao tuổi thì trẻ em đã chiếm khoảng năm triệu người hay nói cách khác là một phần ba dân số.

       Mặc dù sau ngày thống nhất, nhà nước có điều động số cán bộ giáo viên từ Bắc vào cộng một số Giáo viên gia đình cách mạng được trưng dụng lại, thử hỏi số người ấy làm sao thay thế hết toàn bộ số Giáo viên cũ. Chính vì lẽ đó nhiều em không được đi học. Mà một khi không đi học đương nhiên, các em phải rơi vào những hoàn cảnh thật là đáng tiếc.

     Làm việc thì ít, nghĩ ngợi thì nhiều. Thầy ngày nào cũng ra cây Đa cổ thụ nằm tòn ten trên chiếc ghế đong đưa nhìn những cảnh đời không tưởng, rồi thầm tiếc cho một tương lai.

 

Thủy Điền

 

 

 

144- Con Quạ Xám

 

  Cứ mỗi độ vào tháng năm, khí trời bắt đầu ấm dần, khoảng còn một tháng nữa là mùa Xuân sẽ đi qua và mùa Hè lại đến. Không biết từ đâu con Quạ xám lại lù lù hiện ra đứng trên nhánh thông già, mắt đăm đăm nhìn về cánh đồng mạ non cao gần hai ba tấc.

     Con Quạ xám có bộ lông nhiều chấm trắng, cái mõ vàng cong vắt, bàn chân rộng, dài và những cái móng rất sắt cộng đôi mắt trong sáng lẫn gương mặt rất hùng hồn.

     Nó đứng trên cành thông quan sát về mọi phía như anh lính đang gác chồi canh để săn những con mồi đang lạc bước. Hể khi thấy chú Thỏ đang nhẩy tung tăng, chú Trĩ đang cùng đàn con đi tìm những con Côn trùng hay chú Nai con đang nghiền thảo là nó bay cái vù ra và cắn vào cổ con vật nó nhìn thấy một cách mau lẹ mà không cách nào trở tay kịp.

    Ngày nào cũng thế, dù muốn, dù không nó cũng phải bắt được con mồi để giải quyết cái bầu diều to tát, vì nó to lớn như con Gà trống.

    Ròng rã từ đầu tháng năm, đến cuối tháng mười thì nó tự nhiên biến mất, không biết nó tránh hàn trở về Nam cực hay ẩn trốn trong lòng đất mà hiện giờ cũng chẳng ai biết được. Như thế sáu tháng dài nó tiêu diệt trên dưới gần một trăm tám chục con mồi lớn, nhỏ. Bởi nên xung quanh khu vực có nó xuất hiện dường như diệt chủng. Những Nông dân nơi đây muốn bảo tồn những con thú hoang cho cánh đồng thêm đẹp xinh, họ tìm cách tiêu diệt nó bằng cách đi săn, nhưng không được phép. Hiệp hội bảo vệ Động vật cấm mọi hành động sát sinh gọi là bảo vệ môi trường. Có nhiều ý kiến đối nghịch nếu không diệt nó, nó sẽ tiêu diệt hết những cầm thú hoang. Nhưng đã là luật lệ thì phải chấp hành ,chuyện chúng tiêu diệt lẫn nhau là chuyện của chúng. Còn chúng ta là con người, chúng ta cần phải bảo vệ môi trường.

    Cứ hết luật lệ nầy, đến luật lệ khác. Cứ hết năm nầy, đến năm khác nó liên tục như thông lệ, khi đến mùa khô là nó đều làm như thế. Cũng may, là những con thú sau một năm thoát nạn, chúng lại tiếp tục sinh sôi, nẩy nở thêm hết đàn nầy, đến đàn khác và chúng vẫn còn tồn tại mãi đến ngày nay.

 

Thủy Điền

  

143- Chiếc Bóng Bên Cầu

 

      Hoàng đang đợi người yêu nơi cầu tàu, bỗng dưng có hai chàng thanh niên trạc tuổi Hoàng đi ngang qua, hất vào người Hoàng một cái, Hoàng xiểng niểng, té nhào. Các anh đi đứng thế nào đấy. Hai thằng quây ngang qua. Ê ! kiếm chuyện hả mậy, rồi đập cho Hoàng một trận, xong nhìn quanh không thấy ai và vọt mất.

        Mai vừa kịp đến thấy Hoàng gặp nạn, bèn gọi người đến cứu. Chở đến nhà thương Bác sĩ bảo cũng may, bị đánh nhiều chỉ ngất, nhưng không trúng vào chỗ độc. Chàng nằm viện được ba ngày thì Bác sĩ cho về. Mai hỏi chàng vì sao ra sự thể ? Hoàng trả lời.

-Chỉ một lời nói thôi, mà Họ đánh anh như thế.

-Mà anh nói cái gì ? Nên họ mới đánh anh.

-Có gì đâu! Họ đụng anh, anh bảo họ đi đứng thế nào, chỉ vậy thôi.

-Vô lý, thật vô lý, nếu như thế em sẽ đến Công an làm cho ra lẽ.

-Thôi đi Mai, xem như mình xui thôi, đừng làm ầm lên không ích lợi gì.

-Anh thì lúc nào cũng xui, cũng xui, thôi tùy anh.

   Trước khi là người yêu của Hoàng, Mai đã yêu Lân, hai người quen nhau và yêu nhau trong thời gian hai người cùng đi Thanh niên xung phong. Sau ba năm trở về Mai theo học ngành Sư phạm dạy trẻ, còn Lân thì chẳng có nghề nghiệp gì cứ lỏng ngỏng, rượu chè hết ngày nầy, sang ngày khác. Mai nhiều lần khuyên bảo Lân hãy tìm cái gì đó cho cuộc sống đàng hoàng hơn, nhưng Lân cứ chứng nào, tật nấy. Ngày qua ngày đi dạy học, Mai quen được Hoàng. Vì Hoàng là đại diện của hãng cung cấp đồ nhựa của Thành phố. Hãng nầy nhận đài thọ và bảo trợ cho trường học của Mai, nên anh hay đến nhiều lần để cung cấp những vật dụng mà nhà trường cần đến.

    Hai người quen và yêu nhau hơn nửa năm nay, ngày nào khi tan sở chàng hay hẹn nàng đến cầu tàu gần đó rồi hai đứa cùng đi dạo một vòng. Lân biết Mai yêu người khác lâu lắm rồi, nên không còn đến với chàng nữa. Cơn tức giận bị người yêu phản bội. Chàng cứ để trong lòng và hẹn một ngày trả thù cho thỏa giận. Mặc dầu chàng biết tình yêu của chàng và Mai chẳng còn thắm thiết gì.

    Một hôm ngồi quán Cà phê cùng mấy thằng bạn cũ thời Thanh niên xung phong, chàng kể hết cho mọi người nghe câu chuyện trên. Thế là có hai thằng bạn thân ra tay nghĩa hiệp. Lân chỉ rõ lịch trình Mai và Hoàng thường hay hò hẹn và ấn định ngày giờ rồi cho thằng bồ mới của Mai một trận bỏ ghét.

    Sau thời gian Hoàng gặp nạn, Mai mằn mò và nghe những người bạn cũ kể lại rằng Lân đã nhờ người đánh Hoàng. Nàng bực tức và nhất định tìm cho được Lân để hỏi rõ chuyện nầy, nhưng chàng biến mất và để lại cho nàng bức thư nội dung. Vì anh quá yêu em, xin em đừng giận hãy xem đó là kỷ niệm. Có lẽ hai đứa mình không bao giờ quên em nhỉ, ký tên Trần thế Lân.

    Cầm bức thư ra về nàng bật khóc. Hôm sau đi dạo cùng Hoàng nàng bỗng dưng khóc. Hoàng hỏi ?

-Tại sao?  Hôm nay em lại khóc, anh có làm gì em buồn không ?

-Không ! Anh chẳng làm gì để em buồn cả và nàng thuật lại hết câu chuyện cho Hoàng nghe.

-Hoàng ngồi trầm ngâm không nói một lời.

-Mai bảo nói gì đi anh.

-Thế là Lân vẫn còn yêu em nhiều lắm, vô tình anh đã làm tổn thương đến tình yêu hai người. Anh thật sự có lỗi, khi nào gặp lại Lân em cho anh xin lỗi, còn sự việc xảy ra anh không bao giờ buồn giận gì Lân cả.

-Mai nghe xong nàng ôm đầu khóc ngất

   Hoàng bảo Mai, thôi mình về, trời đã nhá nhem tối và từ đó nàng chẳng còn nghe tiếng hẹn ngày mai đúng năm giờ anh chờ em nơi Cầu tàu nữa.

 

Thủy Điền

 

142- Khứa

 

      Trời tháng bảy nắng chang chang. Khứa ngồi một mình trên chiếc ghế dài tay cầm cây gậy, tay cầm cái khăn Muchoi lau những giọt mồ hôi chảy trên vầng trán. Khứa thở rất mệt nhọc vì cái bụng quá to như người đang mang thai. Miệng cứ lập bập sao mình dại quá.

      Khứa là con độc nhất của một Nông dân giàu, có tiếng sống bằng nghề chăn nuôi và trồng lúa. Lúc trưởng thành học xong trung học cha Khứa bảo lấy vợ và phụ giúp gia đình. Khứa trả lời rằng phụ giúp thì được, còn lấy vợ thì không. Cha Khứa nghĩ tại Khứa còn trẻ nên nói thế, không sao ! Vài ba năm nữa Khứa sẽ đổi ý chứ gì, chừng ấy lo không kịp nữa là khác.

     Công việc hàng ngày cha Khứa lo một đàn Heo,Bò. Còn Khứa thì phụ trách về phần đồng áng, mẹ Khứa thì nhiệm vụ nấu nướng và giặt vũ trong gia đình. Ba người ba công việc khác nhau. Nhưng công việc của Khứa thì nặng nhất, lắm lúc phải mướn thêm nhân công thì mới kịp vụ. Ngày nầy, qua ngày nọ công việc cứ liên tục phủ lên đầu Khứa. Khứa chỉ biết đi làm ,về ăn và ngã phèo ra ngủ,  mọi chuyện khác, riêng tư Khứa chưa bao giờ nghĩ đến. Khứa bây giờ như là cái máy không hơn, không kém.

     Kể từ ngày cha mẹ Khứa qua đời. Khứa vẫn ở một mình thay thế, chăm sóc làm tất cả mọi việc. Nhiều người xung quanh cũng giới thiệu, động viên Khứa nên lấy vợ để giúp Khứa một tay, nhưng Khứa một mực từ chối. Khứa nghĩ cuộc đời Khứa cực khổ thế là đủ rồi bây giờ kéo niếu người khác vào rồi sanh con, đẻ cháu sẽ khổ thêm và khổ mãi mãi hết đời nầy, sang đời khác.Trên cơ bản Khứa nghĩ thì cũng đúng, nhưng quy luật Tạo hóa thì như Khứa cũng chẳng mấy vì hay ho.

     Năm nay Khứa bắt đầu già, già trước tuổi, sức lực yếu, công việc mỗi lúc càng nhiều. Khứa quyết định bán hết tất cả đàn Heo, Bò và nghỉ việc, nhưng riêng ruộng đất cha ông để lại Khứa nhất quyết không bán. Mặc dầu có rất nhiều người dạm hỏi.

     Cả ba năm nay ruộng đồng không cầy xới, trồng trọt, cỏ lát thừa sức mọc cao, chuồng trại không ai chăm sóc, tàn lụy theo thời gian. Khứa biết rõ điều đó, nhiều lúc muốn sửa chữa, nhưng sửa chữa để làm gì, cho ai? Ruộng đồng cũng thế nên Khứa cứ thây kệ và bỏ lơ.

      Mỗi ngày chẳng làm gì, cứ chống gậy ra vào nhìn cánh đồng bao la Khứa dường như đỗ lệ, thương tiếc rồi ngồi bên vách nhà, Khứa suy nghĩ hết chuyện nầy, đến chuyện khác và cho mình sau quá ngu si. Khứa tự an ủi. Phải dè ngày xưa lập gia đình bây giờ còn có người nối khố thì đỡ biết bao.

  Sau khi Khứa mất, căn nhà được đóng kín gần một năm trời, không người kế vị nhà nước mời Luật sư và Thừa phát lại làm Hồ sơ bảo chứng rồi xung tất cả tài sản của Khứa vào công quỷ nhà nước.

    

Thủy Điền

 

 

 

141- Đoạn Đường Số 4

 

     Tình hình chiến sự đang biến động mạnh, ngoài đường giặc giã rầm rầm, xa xa một chút là nghe tiếng nổ, một lát là nghe những tràng Đại bác. Mắc chứng gì thằng Sơn cứ giục tôi phải cùng nó đi Sài gòn. Tôi không đi nó cứ năn nỉ, bao nhiêu tiền xe tao trả hết cho mầy. Tôi bảo, không phải vấn đề là tiền, mầy có thấy không ? Nguy hiểm lắm. Nó nói nhầm nhè gì mầy cứ đi với tao, mầy chết chắc tao sống à. Tôi vị bụng và đi theo nó, nhưng hỏi ? Mà đi lên Sài gòn làm gì. Nó bảo, bà Ngoại tao biểu tao lên phụ cậu Tư tao sắp xếp nhà cửa chở đồ đạc về Tân hiệp. Thôi đi thì đi. Hai thằng nhất trí và ra đón xe đò đi Sài gòn.

-Lên xe tôi nửa đùa, nửa thật lúc đầu tao tưởng mầy lên Sài gòn vào tòa Đại sứ Mỹ cầm Nạng thun bắn mấy thằng Quân cảnh Mỹ, leo qua cửa sắt trèo lên lầu đi Trực thăng qua Thái lan rồi sang luôn bên Mỹ chứ. Ai ngờ lên Sài gòn phụ ông Cậu mầy chuyển ít hàng về quê, việc nầy tao nghĩ ổng và mấy thằng con ổng tự làm cũng được, đâu cần đến mầy. Nó cười và thụi tôi một cái rồi bảo, mầy chơi tao hoài.

-Không phải, mầy hiểu sai tao rồi, hai thằng con ổng lên bốn, lên năm mà phụ giúp cái gì. Hơn nữa tao có muốn đi đâu, tại sợ Ngoại tao buồn nên tao đi. Mầy biết đi một mình thấy thế nào, nên tao mới rủ mầy.

   Nói qua, nói lại chiếc xe đò đã đến Tân hương. Đến Tân hương thì xe phải dừng lại vì phía trước hướng về Sài gòn bị kẹt cứng. Nhìn phía bên kia đường hướng về Lục tỉnh cũng giống nhau. Phí trước hướng Thủ thừa-Tân an

đang có đụng lớn giữa Sư đoàn 7 và Bộ đội khói bay nghi ngút, tiếng súng nổ lụp bụp rền vang. Trên bầu trời những chiếc Máy bay F5, B52 đảo qua, đảo lại rồi những tiếng Bơm ì ầm xé nát không gian thật khủng khíếp. Hai thằng chờ như bao người khác, hy vọng tiếng súng lắng dần đoàn xe sẽ vượt qua quãng đường nguy hiểm nầy. Chờ mãi gần ba tiếng đồng hồ, lúc ấy trời sắp xế chiều. Tôi nói:

-Không xong rồi Sơn ơi, thôi mình về, nguy hiểm quá. Tao nghĩ Ngoại và Cậu mầy cũng hiểu là tại sao mầy không đi Sài gòn được. Nó lặng thinh dường như muốn nán đợi. Chiến tranh đâu có thời hạn, một lúc sau nó bảo.

-Về thì về, nhưng về bằng cách nào, chẳng lẽ đi bộ. Tôi nói

-Nếu không có xe thì cũng phải đành. Tân hương, Tân lý tây, Tân hiệp là đến nhà ngay. Nó cười cười.

-Mầy nói dễ như ăn cơm không bằng.

   Tôi thì chịu đi bộ về, còn nó thì chần chừ, lưỡng lự. Nhưng cũng may bốn giờ rưởi chiều Lính xả cảng cho xe đi tiếp, nhưng chỉ về hướng Lục tỉnh. Tôi và nó nhẩy đại lên chiếc xe tải chở Xi măng ngồi, cũng hên là ông Tài xế không thấy, nếu thấy thì ông ta đuổi xuống mất rồi. Ngồi trên đống Xi măng cao hai thằng nhìn thấy hàng trăm chiếc xe nhà binh chở Lính nối đuôi nhau về hướng Mỹ tho, bọn tôi chỉ đoán thế thôi, nhưng chẳng biết Họ sẽ về đâu.

   Gần tới Tân hiệp thằng Sơn đập mạnh vào sau lưng ông Tài xế la lớn, làm ơn cho tụi tui xuống . Làm ơn cho xuống Tân hiệp giùm Bác tài. Ông thắng một cái két và bảo xuống lẹ giùm con đi mấy ông nội, bực mình quá. Hai thằng mừng quá nhẩy xuống, xe chạy tuốt không tốn đồng nào. Hai thằng đứng thở một hồi cho khỏe. Tôi bảo Sơn mình vào quán Việt hương làm ly Cà-phê đá rồi về cũng chẳng muộn.

   Hai thằng đang uống Cà-phê ngồi nhịp đùi, nhìn ra lộ chính thì những chiếc xe chở lính cũng vừa đến. Họ đậu lại một dọc cho lính xuống nào là Nhẩy dù, Biệt động quân, Thủy quân lục chiến, Bộ binh v.v.. đủ hết. Bỗng dưng Họ cởi những bộ đồ trận, bỏ súng ống chất thành đống, rồi mặc chỉ áo thun và quần tài lõn tìm xe khác đi tiếp. Tôi nghỉ chắc Họ được lệnh giải tán cho nên mới làm thế.

   Tôi và Sơn từ giã, ai về nhà nấy.Trên đường về nhà nhìn thấy hai bên đường toàn quần áo lính, giầy trận, nón sắt, ba-lô, súng đạn nhỏ, lớn vẫy đầy thật là ghê sợ. Những chiếc xe GMC thì đậu lại nằm ụ còn những chiếc xe đò bây giờ người ngồi chật cứng trên mui. Tôi liên tưởng trong đầu chiếc xe chỉ chạy đến Trung lương là cùng, vì quá tải.

    

Thủy Điền

 

 

 

140-Chuyện Mở Đầu

 

     Ngày 25 tháng 12 năm 2013. Mùa đông, nhân dịp lễ Giáng sinh gần nơi tôi ở người ta có tổ chức buổi Đại nhạc hội chủ đề „Mừng Giáng sinh 2013” quy tụ những nam, nữ Ca sĩ Việt nam từ Hoa kỳ sang biểu diễn, sẵn dịp tôi và vài người bạn thân thiết mua vé đi xem. Tình cờ tôi nghe anh chàng MC kể câu chuyện vui trong lúc chờ đợi Ca sĩ tô son, điểm phấn. Câu chuyện nghe thì rất hoang tưởng, nhưng ngồi ngẫm nghĩ thấy cũng vui vui.

     Anh ta kể rằng! Có một nhóm người từ các nước trên thế giới được triệu tập để tham dự cuộc họp cấp quốc gia. Cuộc họp được tổ chức tại một quần đảo nhỏ, bởi thế những người nầy phải chia thành tổ nhỏ, mổi tổ bốn người và đi bằng xuồng từ đất liền sang đảo.

     Tổ mà anh ta kể ở đây là tổ có người Việt nam. Trên chiếc xuồng nầy gồm có bốn loại người như sau: Việt nam, C, N  và  I.

      Không may là ngày vượt sông sang đảo trời mưa gió khủng khiếp, xuồng nặng quá khó chèo lái để qua sông. Xuồng vừa khỏi đất liền một đoạn, bốn người hội ý nhau cần phải có một người hy sinh cho xuồng nhẹ bớt thì hầu có thể qua được. Bốn anh chàng liếc mắt nhìn nhau không ai chịu nói một lời. Bỗng dưng anh N đứng dậy vỗ ngực. Ta lấy danh dự người N anh hùng chết vì dũng, ta sẽ hy sinh để cứu các bạn, vừa nói xong anh ta nhẩy cái đùng xuống sông, trên xuồng bây giờ chỉ còn lại ba, chiếc xuồng có vẻ thoải mái hơn lúc ban đầu. Cơn yên tỉnh chừng mười phút thì một trận bão kéo đến chiếc xuồng lâm vào cảnh bi đát trở lại không thể nào qua được, ba người còn lại hội ý tiếp, chưa nói câu nào anh chàng I đứng lên. Ta sẽ hy sinh cứu những người còn lại, điều nầy cho cả thế giới biết rằng nhân dân I cũng biết hy sinh, cũng yêu thương nhân loại chứ bao lâu nay người ta cứ nghĩ rằng chúng tôi là những người khủng bố không nhân đạo, dứt lời. Anh nhẩy ngay xuống sông hai người còn lại trên xuồng thật cảm phục sự hy sinh cao cả, tấm lòng quí báo của người bạn I. Cơn bão đã đi qua, thế là cuộc hành trình còn lại sẽ an lành đến bến. Anh Việt nam và anh M vừa chèo, vừa ngắm trời, mây nước kể trăm ngàn câu chuyện từ đời Tần Thủy Hoàng đến vua Hùng Vương thứ 18 cũng chưa hết. Anh M bỗng dưng la hét to. Coi chừng! Kìa bão đến nữa chú ý, anh Việt nam hổi ơi, xui sao mà xui tận mạng. Khoảng đường chỉ còn một phần ba nữa là đến đích, tức thật. Bão càng lúc cứ dồn dập, chiếc xuồng con ngã nghiêng sắp đấm chìm trong nước, anh Việt nam hỏi anh M ? Thế bây giờ phải làm sao, anh M ngồi lặng yên không nhúc nhích, anh Việt nam thấu rõ được tâm trạng của anh bạn M nên thốt lên một câu lịch sử. Bây giờ chỉ còn lại hai ta, trong hoàn cảnh nầy ta phải làm cái gì để hậu thế mai sau còn lưu nhớ. Anh M mừng thầm trong bụng, thế là anh chàng Việt nam nầy sẽ nhẩy sông để cứu mình. Cơn mừng thầm chưa dứt, anh Việt nam đứng dậy nhìn về phía bờ bên kia như tiếc nuối. Anh M giả bộ ngậm ngùi, khóc lóc và ca ngợi lòng can đảm của anh Việt nam. Ai ngờ! Anh Việt nam không nhảy mà quây ngược lại đạp cho anh M một đạp lọt xuống sông, rồi một mình chèo nhè nhẹ sang bờ bên kia một cách an toàn.

    Ngoài trời tuy giá lạnh, Tuyết phủ giăng đầy, nhưng cả rạp hát vỗ tay cười rần với câu chuyện thú vị, vui tươi không kém phần đụng chạm. Tôi và mấy ông bạn đi chung nhìn quanh về phía sau thấy mấy người M gốc việt đang xì xào với câu nói bất bình Ối giờ cái anh chàng MC nầy thật bố láo.

 

Thủy Điền

 

 139-Bán Tình

 

     Kể từ ngày dọn nhà về xứ biển sống, Michael thường bảo với vợ. Anh sẽ xin vào một nhà hàng lớn để làm việc, như bồi bàn hay phụ bếp gì cũng được miển sao có tiền gia đình mình sống là được. Em khỏi làm chi cả, chỉ ở nhà trông coi hai con, em đồng ý chứ ?  Ela gật đầu và nhìn chồng với gương mặt triều mến.

      Nghe bạn bè kể, làm việc ở xứ biển sáu tháng có thể sống cả một năm vì nơi đây toàn là khách du lịch đến, nên các nhà hàng đắc như tôm tươi, chủ mướn công nhân rất cao giá, hơn nữa khí hậu biển rất tốt. Bởi Chàng đang làm việc tại hãng Bột giặt, mỗi ngày hít thở những chất hoá học vào người chàng chán ngấy quá rồi, còn Ela thì mỗi ngày phải lau chùi, quyét dọn cho một trường học lưng nàng cũng sắp gẩy cong. Hai vợ chồng cậm cụi làm việc kể từ lúc lấy nhau đến nay mà chẳng dư dả được gì.

      Đầu mùa Hè chờ các con nghỉ học, chàng chuyển cả gia đình lên xứ biển gần ba trăm cây số để sinh sống. Đầu tiên chàng xin vào được một Hotel gần nhà với công việc dọn dẹp và rửa chén, được năm tháng chủ cả cứ rầy la ngày nầy, sang ngày nọ chàng bực quá xin nghỉ việc. Mặc dù trong thân tâm chàng cố muốn làm một công việc nào đó để nuôi sống gia đình, nhưng ức quá chàng không chịu nổi. Ở lâu ngày chàng làm quen được một vài người, họ giới thiệu chàng vào một nhà hàng lớn với công vìệc phụ bếp, sắt thịt, rửa rau. Chàng rất phấn khởi và làm việc rất tốt. Nhiều lúc ông chủ ghé qua, thường bảo, mai mốt tôi sẽ cho anh làm bếp chánh. Chỉ lời nói qua loa của ông chủ mà cả bọn đang làm trước sợ mất chỗ và bắt đầu nẩy sinh ganh ghét, vì sự ganh tị, vô tình chúng đẩy anh vào thế kẹt, đì đà đủ thứ. Buồn quá, anh nói ông chủ và xin nghỉ việc.Thế là, anh lại thêm một lần thất nghiệp nữa.

    Nghỉ việc Michael buồn bã đi lang thang ngày nầy, qua ngày nọ dọc theo bờ biển, rồi eo biển cho thỏa đi những giây phút căng thẳng. Michael đẹp trai, cao ráo tướng tá như tài tử Alain Delon nên những cô nàng độc thân đi tắm biển, nghỉ mát nhìn chàng không chớp mắt. Michael cũng liếc mắt, đưa tình như trao đổi những giây phút tình cảm qua đường. Có nàng nửa chơi, nửa thật gợi cảm, ân ái lại còn bồi dưỡng cho chàng ít tiền gọi là công phí. Hồi đầu chàng không nhận, nhưng gì hoàn cảnh gia đình nên chàng đành nhận. Về nhà chàng suy nghĩ thật nhiều về công việc mình làm, chàng thấy như vậy là mình đã vong phụ Ela và các con một cách trắng trợn. Nghĩ thì nghĩ như vậy, nhưng hôm sau chàng vẫn tiếp tục tới lui những nơi mà chàng đã từng qua lại và nhận những món tiền như thường lệ.

     Mấy ngày rồi, chàng định giấu mất chuyện nầy và chẳng hề đưa cho Ela một đồng nào. Nhưng ngày, lại ngày chàng thấy Ela không còn tiền trang trải trong nhà nữa nên chàng móc túi đưa cho nàng. Ela bật hỏi, tiền nầy anh kiếm từ đâu ? Michael bảo mấy hôm anh đi khuân vác ngoài bến Cá, dành dụm, nay anh thấy nhà hết tiền nên anh đưa cho em. Ela tưởng thật và không để ý đến nữa.

    Rồi cứ thế, ăn quen ngày nào chàng cũng đi rong rêu vòng quanh eo biển để mang tiền về nhà và tiếp tục nói dối vợ. Một hôm thằng Paul bệnh nặng, nàng

nhờ người chạy ra xóm Cá gọi chàng về, nhưng cả xóm Cá đều bảo chẳng có Michael nào làm việc ở đây. Thế là lộ tẩy. Chiều như mọi ngày chàng về cũng đều đưa tiền chợ cho vợ. Hôm nay Ela không thèm lấy, mà còn vặn hỏi đủ điều. Michael khai thật, vì anh thấy cảnh nhà bần bạc nên anh đành phải làm kẻ bán tình. Ela ngã ngửa ra, thế là bấy lâu nay mẹ con em sống bằng những đồng tiền cực khổ nầy. Rồi nàng bình tĩnh trở lại và nói.

    Thế là ngày mai em cũng sẽ đi làm cái nghề như anh, để trang trải gia đình còn để một mình anh thì vất vả quá.

 

Thủy Điền

 

138-Bất Hạnh

    

    Mặt trời vừa lên. Nó lần ra trước hiên, tay cầm cây gậy, tay mò mẫm tìm ấm nước mẹ Nó đã nấu sẵn từ sáng, để rót vào ly. Bỗng nghe tiếng dép lẹp xẹp tiến đến gần. Nó hỏi ai đó? Tao Văn đây mầy.Văn nào? Mầy không nhớ tao thật hã Hạnh, không nhớ thật, vậy mà nói bạn chí thân tri âm, tri kỷ.Tao lập lại lần nữa hai Văn nè mầy nhớ chưa? Nhớ rồi, cho tao xin lỗi, mù lòa quên đủ thứ chuyện mầy ơi. Mầy về hồi nào? Ngồi xuống đi, tao mới về mấy hôm.

    Năm 1977 hai thằng cùng vào trường Sư phạm, quen nhau, rồi thân nhau như anh em ruột. Một thằng thì ở Chợ gạo, một thằng thì ở Châu thành Tiền giang.

    Học xong ba năm hai thằng ra trường, một thằng đi vượt biên, một thằng về Chợ gạo dạy học. Hạnh rất hiền và dễ thương nên được mọi người yêu qúi. Sau một năm dạy học Hạnh quen một cô bạn gái cùng làng và hai người tiến đến hôn nhân. Sỡ dĩ Hạnh lập gia đình hơi sớm, gì Hạnh là con trai độc nhất, Hạnh chỉ còn một bà mẹ già, ngoài ra không còn ai cả. Cha Hạnh tham gia Cách mạng và đã hy sinh hồi năm 1970. Hạnh ở với vợ gần hai năm nay mà không có con, sự chán nản, chờ đợi một mái ấm gia đình trong tuyệt vọng. Vợ Hạnh bắt đầu nẩy sinh căn bệnh Đồng tính. Nàng quen một cô bạn gái làng bên, hai người dần dà khắn khít như keo sơn, nàng phế mặc, bỏ rơi chồng hồi nào không hay biết. Hạnh biết được sự việc nên buồn bã và chẳng biết làm sao.Thoạt đầu nóng giận, nhưng không có kết quả, chàng xoay ngang dỗ ngọt cuối cùng cũng không xong. Riêng nàng thì mỗi lúc càng đậm đà tình ái với cô bạn gái bên làng .

    Trong tình thế muôn ngàn khó khăn, một hôm cô bạn gái vợ chàng sang chơi rồi mặc nhiên tâm tình, ân ái trước mặt chàng, xem như chàng là người ngoài cuộc. Chàng bực tức, không dằn được trước sự lố bịt của hai người nên mắng  cô bạn gái một trận và đuổi về ngay.Vợ Hạnh chống cự quyết liệt, cô bạn gái cũng chẳng chịu về, nhưng cuối cùng cô thấy sự ấu đả càng lúc càng gia tăng nên đành phải rút lui. Khách về, hai vợ chồng Hạnh xem như kẻ bắc, người đông, sự rạn nứt tình cảm giữa hai vợ chồng bắt đầu to tát.

   Cô bạn gái ra về mà trong lòng hậm hực, ghen tức, cô nhất định trả thù người đã cản ngăn tình yêu của cô. Ba hôm sau cô sang tìm vợ Hạnh và mang theo một lọ Axit mới mua, cô giấu kính trong người chờ xung đột là ra tay ngay. Vừa bước vào nhà, Hạnh thấy cô đến nên chận cửa và quát cho một trận hy vọng cô sẽ đi ngay. Nhưng lần nầy cô nhất quyết không nhịn thua mà còn bật nấp lọ Axít tát vào mặt Hạnh cho thỏa cơn giận, thế là Hạnh trọng thương. Vợ Hạnh chạy ra ôm chầm chập người yêu mình còn Hạnh thì nàng phế mặc. Bà con nghe tin chạy đến chở Hạnh đi cứu chữa và Công an xã cũng đến cồng tay, rồi bắt cô bạn gái đi. Vợ Hạnh ngồi nhà ôm mặt khóc mà chẳng chịu theo chăm sóc chồng, bà con hàng xóm kêu rêu không lời nào tả hết.

   Một tháng sau, khi Công an điều tra và đưa ra Tòa cô bạn gái lãnh án mười năm về tội cố tình gây thương tích cho người khác. Hạnh thì vẫn nằm bệnh viện mãi đến bốn tháng sau mới được về nhà. Thời gian nằm viện vợ Hạnh chỉ đến đôi lần ngoài ra từ A đến Z tất cả đều do bà mẹ già lo liệu cả. Gương mặt Hạnh

bây giờ nhìn rất là khủng khiếp, hư hỏng hết và ác nghiệt hơn là đôi mắt bị mù lòa vì lãnh nguyên một lọ Axít.

    Cô bạn gái thời gian thụ án, tuần nào Vợ Hạnh cũng xách một giỏ xách đầy đi thăm giống như vợ đi thăm chồng mắc nạn. Họ yêu nhau tha thiết, yêu đến nỗi vào tù thăm nuôi Họ gắn bó như lúc ở nhà.

    Thời gian cải tạo là thời gian thử thách, chuộc tội. Cô bạn gái lao động tích cực và tuân thủ đúng nội qui trại giam nên nhiều lần cô được đề nghị giảm án và cuối cùng cô chỉ ở tù đúng ba năm và được trả tự do.

    Vừa ra khỏi cổng tù thì vợ Hạnh đã chờ sẵn và hai người lên xe, rồi đi mất biệt luôn kể từ đó. Riêng Hạnh sau cơn hoạn nạn chàng nghỉ dạy và ở quê nhà sống bên người mẹ gìa yêu quí. Không biết rồi đây khi mẹ mất, số phận Hạnh sẽ ra sao ?........

 

Thủy Điền

 

 

 137-Giây Phút Vội Vàng

 

     Ngồi bên hàng nước Mía, chờ chuyến xe đò về Thành phố. Loan cầm cái Muỗng gõ gõ trên miệng ly, rồi nói. Sao mình vội quá phải không anh ? Tân ngồi trầm ngâm, chỉ còn một khoảng ngắn nữa là em về nhà em, còn anh thì chẳng biết về đâu ?

   Năm ấy hai người cùng thi đỗ vào một trường chuyên nghiệp, nhưng học khác ngành.Tân quê quán tận Khánh Hòa, chàng trắng trẻo, to con, đẹp trai lại học khá nên nhiều cô trong trường thường hay để mắt. Loan cũng thế nàng có một nhan sắc tuyệt hảo, lại là con của một nhà khá giả ở Thành phố.

   Thời gian học hơn một năm, hai người quen nhau trong một đêm Văn nghệ do nhà trường tổ chức, rồi yêu nhau. Tình cảm hai đứa càng ngày càng gắn bó, sâu đậm những biểu chứng nầy lớp và nhà trường đã nhiều lần khiển trách. Nhưng họ cứ nhất quyết một mực bên nhau, không xa rời dù một li, một tất.

   Sau đêm liên quan tạm chia tay lên đường đi thực tập sáu tháng, để trở về làm Đồ án tốt nghiệp. Họ hò hẹn nhau ra phía sau vườn nhà trường tình tứ. Họ ngỡ nơi đây thanh vắng, không người qua lại. Ai ngờ! Đội Cờ đỏ đêm ấy đi tuần tra và bắt gặp. Rồi lập biên bản và trình lên Ban Giám hiệu nhà trường, dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa thời bao cấp chuyện yêu đương lúc còn đang đi học đều bị cấm tuyệt đối, ai làm sai lại sẽ bị cảnh cáo và sa thải ngay.

   Trong câu chuyện trên, lẽ ra Loan và Tân chỉ bị cảnh cáo thôi, nhưng vì trước đó họ đã bị cảnh cáo nhiều lần nên lần nầy nhà trường phải đành sa thải, không còn cách nào khác. Có như thế mới răn đe được người khác được và cho đây là một nguyên tắc. Thế thì Tân và Loan cùng chung số phận, không còn cách nào tháo gở.

   Ban Cán sự lớp tìm mọi cách giúp đỡ, nhưng nhà trường nhất quyết thi hành kỷ luật.

   Mấy hôm sau nhà trường vẫn cho hai người đi thực tập tại Cơ quan như bao người khác. Hai người ngỡ mọi chuyện đã qua. Nhưng không ngờ, sau sáu tháng trở về làm Đồ án tốt nghiệp. Cả hai không được làm Đồ án và bị gọi lên Văn phòng nhận giấy sa thải. Loan và Tân bật ngửa khi nhận giấy quyết định sa thải mình ngay trong lúc sắp ra trường, mà không sa thải trước đó sáu tháng. Việc thi hành kỷ luật nầy thật là một sự việc rất ngộ nghĩnh và khó tin.

   Sau nầy biết ra, chuyện rất dễ hiểu.Vì danh sách gởi đi thực tập tại các Cơ quan đã có sẵn, bỗng dưng bớt người ra thì không đúng kế hoặch dự định, còn chuyện sa thải người thì chừng nào cũng được.

   Trưa thứ sáu, cả trường ai cũng đều bỡ ngỡ, chính người bị sa thải cũng chẳng khác gì.

  Loan cho tất cả quần áo và những vật dụng cá nhân vào Va-li, Tân cũng thế. Hai người đi lang thang ra cổng trường mà cõi lòng nuối tiếc, vì chỉ còn thời gian ngắn nữa là họ đã hoàn tất ba năm học. Bây giờ tự dưng trở về nhà và biết trả lời thế nào với gia đình đây, khi mọi người đang trông đợi ngày con mình trở về với tấm bằng Trung cấp.

   Loan trở lại quê nhà mà gia đình không hay biết chuyện gì. Nàng cứ mãi ngồi khóc, khóc hết ngày nầy, qua ngày khác và tự hỏi ?  Sao mình quá vội.

   Trên chuyến xe đò trở lại Thành phố, rồi ghé tạm nhà người thân và hôm sau đón xe tiếp về Khánh hòa. Mặc dù hôm ấy Loan có bảo chàng nghỉ tạm nhà nàng, nhưng Tân từ chối. Vì chàng không muốn chạm mặt gia đình Loan bởi chàng cảm thấy tất cả những lỗi lầm đều do chàng gây ra cả.

   Và kể từ chiều hôm ấy cho đến nay Loan và Tân không còn gặp nhau nữa, câu chuyện tình dưới thời bao cấp cũng chấm dứt tại bến xe Xa  137-Giây Phút Vội Vàng

 

     Ngồi bên hàng nước Mía, chờ chuyến xe đò về Thành phố. Loan cầm cái Muỗng gõ gõ trên miệng ly, rồi nói. Sao mình vội quá phải không anh ? Tân ngồi trầm ngâm, chỉ còn một khoảng ngắn nữa là em về nhà em, còn anh thì chẳng biết về đâu ?

   Năm ấy hai người cùng thi đỗ vào một trường chuyên nghiệp, nhưng học khác ngành.Tân quê quán tận Khánh Hòa, chàng trắng trẻo, to con, đẹp trai lại học khá nên nhiều cô trong trường thường hay để mắt. Loan cũng thế nàng có một nhan sắc tuyệt hảo, lại là con của một nhà khá giả ở Thành phố.

   Thời gian học hơn một năm, hai người quen nhau trong một đêm Văn nghệ do nhà trường tổ chức, rồi yêu nhau. Tình cảm hai đứa càng ngày càng gắn bó, sâu đậm những biểu chứng nầy lớp và nhà trường đã nhiều lần khiển trách. Nhưng họ cứ nhất quyết một mực bên nhau, không xa rời dù một li, một tất.

   Sau đêm liên quan tạm chia tay lên đường đi thực tập sáu tháng, để trở về làm Đồ án tốt nghiệp. Họ hò hẹn nhau ra phía sau vườn nhà trường tình tứ. Họ ngỡ nơi đây thanh vắng, không người qua lại. Ai ngờ! Đội Cờ đỏ đêm ấy đi tuần tra và bắt gặp. Rồi lập biên bản và trình lên Ban Giám hiệu nhà trường, dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa thời bao cấp chuyện yêu đương lúc còn đang đi học đều bị cấm tuyệt đối, ai làm sai lại sẽ bị cảnh cáo và sa thải ngay.

   Trong câu chuyện trên, lẽ ra Loan và Tân chỉ bị cảnh cáo thôi, nhưng vì trước đó họ đã bị cảnh cáo nhiều lần nên lần nầy nhà trường phải đành sa thải, không còn cách nào khác. Có như thế mới răn đe được người khác được và cho đây là một nguyên tắc. Thế thì Tân và Loan cùng chung số phận, không còn cách nào tháo gở.

   Ban Cán sự lớp tìm mọi cách giúp đỡ, nhưng nhà trường nhất quyết thi hành kỷ luật.

   Mấy hôm sau nhà trường vẫn cho hai người đi thực tập tại Cơ quan như bao người khác. Hai người ngỡ mọi chuyện đã qua. Nhưng không ngờ, sau sáu tháng trở về làm Đồ án tốt nghiệp. Cả hai không được làm Đồ án và bị gọi lên Văn phòng nhận giấy sa thải. Loan và Tân bật ngửa khi nhận giấy quyết định sa thải mình ngay trong lúc sắp ra trường, mà không sa thải trước đó sáu tháng. Việc thi hành kỷ luật nầy thật là một sự việc rất ngộ nghĩnh và khó tin.

   Sau nầy biết ra, chuyện rất dễ hiểu.Vì danh sách gởi đi thực tập tại các Cơ quan đã có sẵn, bỗng dưng bớt người ra thì không đúng kế hoặch dự định, còn chuyện sa thải người thì chừng nào cũng được.

   Trưa thứ sáu, cả trường ai cũng đều bỡ ngỡ, chính người bị sa thải cũng chẳng khác gì.

  Loan cho tất cả quần áo và những vật dụng cá nhân vào Va-li, Tân cũng thế. Hai người đi lang thang ra cổng trường mà cõi lòng nuối tiếc, vì chỉ còn thời gian ngắn nữa là họ đã hoàn tất ba năm học. Bây giờ tự dưng trở về nhà và biết trả lời thế nào với gia đình đây, khi mọi người đang trông đợi ngày con mình trở về với tấm bằng Trung cấp.

   Loan trở lại quê nhà mà gia đình không hay biết chuyện gì. Nàng cứ mãi ngồi khóc, khóc hết ngày nầy, qua ngày khác và tự hỏi ?  Sao mình quá vội.

   Trên chuyến xe đò trở lại Thành phố, rồi ghé tạm nhà người thân và hôm sau đón xe tiếp về Khánh hòa. Mặc dù hôm ấy Loan có bảo chàng nghỉ tạm nhà nàng, nhưng Tân từ chối. Vì chàng không muốn chạm mặt gia đình Loan bởi chàng cảm thấy tất cả những lỗi lầm đều do chàng gây ra cả.

   Và kể từ chiều hôm ấy cho đến nay Loan và Tân không còn gặp nhau nữa, câu chuyện tình dưới thời bao cấp cũng chấm dứt tại bến xe Xa cảng Miền tây.

 

Thủy Điền

 

136-Đi Xài

 

     Hai thằng vừa đi, vừa cười khúc khích. Hồi chiều Tớ mà biết đi Xài là như thế, Tớ không để yên con Mụ ấy yên đâu. Thôi Cậu cho tôi xin, lỡ có gì xảy ra thì rắc rối lắm.

    Sau khi vừa hoàn thành xong công tác tại Đồng nai. Cả Đơn vị được chuyển về Vũng Tàu, vừa ổn định xong Cảnh và Tuấn xin phép Thủ trưởng rồi rủ nhau dạo phố Vũng Tàu vì bấy lâu nay đóng quân ở Xuân Lộc- Đồng Nai- Biên Hòa mọi người đều nghe cái tên Vũng Tàu có bãi biển đẹp lắm mà chưa một lần đến. Kỳ nầy sẵn dịp về đây công tác hai chàng liền dạo thử một lần cho biết. Trước khi đi Thủ trưởng dặn phải có mặt tại Doanh trại trước tám giờ tối.

   Chiều hôm ấy vừa ăn cơm xong, hai chàng thay quần áo tề chỉnh và vọt ra bãi sau, vừa đi, vừa hứng gió, ngắm trời biển mênh mông hai chàng rất sung sướng dường như vừa sống lại những ngày tháng học trò.Vì hơn ba năm nay hai chàng chỉ sống nơi núi rừng hoang vắng. Trời càng lúc càng tối dần, cảnh hoàng hôn thật là thơ mộng, nước biển cũng càng lúc càng dâng cao, những cơn sóng mạnh vỗ vào bờ, những bọt biển dâng lên, rồi tan dần theo sóng nước, một màu xanh thẳm vô cùng tuyệt đẹp. Cảnh kể cho Tuấn nghe nhiều điều thú vị ngày xưa khi chàng còn đi học và Tuấn cũng thế. Bỗng dưng Tuấn nhìn quanh và bảo Cảnh sao hai bên đường có nhiều con gái mà không thấy con trai. Cảnh trả lời, chắc họ cũng đang hứng gió và ngắm hoàng hôn như ta vậy. Cậu để ý làm gì. Thôi ta đi một vòng nữa nhé rồi về, kẻo Thủ trưởng la rấy ngày khác ông không cho bọn mình đi nữa thì chết mất. Ờ thôi mình đi.

   Bên kia đường có tiếng lanh lảnh nầy các anh có đi Xài không? Có đi thì ghé vào nào. Hai chàng ngơ ngát. Cái gì ? Họ bảo mình có đi Xài không thì vào,Cậu nghe rõ chứ ? Các cô cứ bảo tiếp. Hai chàng không hiểu gì cả nên đi tiếp và không thèm để ý đến nữa, xem như những cô con gái trêu ghẹo mình đấy. Hai chàng vẫn vô tình thanh thản đi tiếp kể chuyện nầy, chuyện nọ. Cảnh nhặt viên Sỏi tạt lên mặt biển, viên sỏi lướt qua những cơn sóng. Cảnh bảo thấy không Tuấn đẹp tuyệt vời ? Tuấn bảo mầy xem tao tạt trên cát còn hay hơn mầy nữa kìà.Viên sỏi bay cái vèo tí nữa là trúng cô con gái. Tuấn giật mình, ý chết. Chàng xin lỗi, cô ta không giận, mà còn cười vui vẻ, rồi nói. Nào các anh có đi Xài không ? Nữa lại đi Xài nữa. Xài là cái gì?

Tuấn nhanh miệng hỏi. Cô nầy ? Đi Xài là cái gì mà tôi nghe nhiều cô bảo thế.

Cô ta trả lời

 Nầy ai có thích đi Xài

 Ghé qua em sẽ giãi bày mà nghe

 Bao giờ chàng thỏa thì về

 Trọn canh em chẳng cầu nề chi đâu.

     Hai Chàng chẳng hiểu cô ta nói thứ gì, cứ nghĩ mang máng trong đầu Họ trêu ghẹo mình qua đường. Tuấn bảo, bọn tôi chẳng đi đâu hết, cám ơn cô. Cô ta nổi cáo mắng lên cho một trận, đồ thanh niên gì keo kiệt và nhát như thỏ đế. Hai chàng hồn vía lên mây, bỏ đi một nước chẳng dám nhìn lại phía sau.

  Về gần đến Doanh trại Cảnh và Tuấn ghé sang hàng nước, mua gói thuốc lá.

 -Tuấn hỏi ông Chủ quán ? Thưa Bác, Bác cho cháu hỏi, đi Xài là cái gì vậy Bác?    

*Ông Chủ quán cười, rồi trả lời. Mấy chú bị rồi, và có đi không ?

 -Dạ thưa không. Chúng cháu biết gì mà đi.

 *Ông Chủ quán nói tiếp. Thế thì tốt, đi Xài là danh từ riêng ở đây người ta   thường hay gọi. Tên của mấy chị em đấy mấy chú à.

- À ra là như thế. Cám ơn Bác chúng cháu đi.

*Chào mấy chú.

   Bước vào Doanh trại hai thằng cười khúc khích, sao mình ngu thế. Tớ mà biết trước Tớ trị cho con Mụ ấy một trận, chớ không để Mụ mắng mình một cách dễ dàng đâu. Đồng chí Thủ trưởng đứng trước trại hỏi ? Sao đi chơi có vui không. Dạ thưa vui lắm Thủ thưởng. Có đi được nơi nào chưa ?.Dạ xém đi Xài Thủ trưởng ạ.

 

Thủy Điền

 

 

135- Mụ Phù Thủy

 

       Trước ngày lên đường sang Mỹ định cư, bà Hoàng có mở một buổi tiệc nhỏ gọi là tạm biệt. Bà con đến dự chia vui, bà nầy xì xầm với bà kia, con mẹ Hoàng nầy tài thật, ông nầy to nhỏ với ông kia mụ như là Phù thủy.

     Lúc thiếu thời má con Nga nhờ trời cho nhan sắc hơn người, nên quớ được một ông Đại úy thời Việt nam cộng hòa ở Cần thơ. Hai người chung sống với nhau một thời gian như vợ chồng. Nhưng về sau má con Nga nghe tin ông Đại úy có vợ, có con tận mút Tây ninh. Kể từ đó cuộc sống bắt đầu lộn xộn, sứt mẻ về tình cảm rồi hai người đi đến chia tay. Má con Nga quây về quê và sống bình thường như bao người khác.

    Năm 1975 Miền nam hoàn toàn giải phóng, khoảng ba tháng sau có một số Bộ đội từ xa chuyển đến và đóng quân trong xóm gần một năm trời.Từ đó Má con Nga coi như bước thêm bước nữa với một ông Sĩ quan Bộ đội và lần lượt sanh ra Nga và hai em của nó.

    Mười năm sau thì Bố con Nga bắt đầu trở bệnh, với cơn bệnh ác tính của những năm trong rừng rú quá nặng, không thể cứu chữa được, hơn nữa ngày ấy y học chưa tiến bộ và kém cỏi thuốc men. Bố nó biết trước sau gì cũng chết nên bảo mẹ nó cố gắng làm sao đưa ông ta về Bắc một lần và có chết nơi quê nhà ông cũng toại nguyện. Má con Nga chìu chồng và tìm mọi cách đưa ông ta trở về quê cũ. Mặc dù hoàn cảnh gia đình bà lúc ấy kinh tế rất khó khăn. Đúng như nguyện vọng khi ra Bắc được ba tháng sau thì ngoài ấy đánh Điện tín báo rằng Bố con Nga mất. Nghe tin chồng mất bà muốn đi cùng các con nhìn Bố lần cuối, nhưng không đủ tiền nên bà phải đành đi một mình.

    Khi chôn cất chồng xong, bà quây trở lại trong niềm xót xa, thương tiếc và đau đớn hơn khi các con không nhìn được mặt Bố một lần sau cuối.

    Kể từ ngày ông mất, bà hàng ngày chỉ gánh Xôi, thúng Bắp nuôi các con đi học, nhưng gì nghèo quá không đủ mua quần áo, sách vở nên chị em nó chỉ học đến lớp năm, lớp sáu. Chuyện đời cứ ngỡ rằng yên ổn ngày ngày hai buổi đạm bạc nuôi con khôn lớn rồi bà cũng già đi như bao phụ nữ khác.

   Ai ngờ! „ Đùng một cái „Ông Đại úy ngày xưa bây giờ là Trung tá vừa học cải tạo ngoài Bắc xong được trả tự do lù lù trở lại, ông muốn nối lại tình xưa với bà, bà nhất quyết không đồng ý,vì ông ta đã có vợ con rồi.Ông Trung tá không chịu về Tây ninh mà cứ ở miết với bà. Ngày nầy, qua ngày nọ, ông chinh phục được bà và hai người ăn ở với nhau như những ngày trước.Và, bà biết được ông đã không còn ở chung với vợ cũ nữa. Những năm tháng đi cải tạo ở Miền Bắc ông vẫn cô đơn một mình.

    Sau mười năm cải tạo ông được chính phủ Mỹ cho sang Mỹ với diện HO. Nhưng ông cứ chần chừ không chịu đi và muốn bà cùng theo sang bên ấy chung sống. Nếu bà một mình thì rất dễ dàng, đàng nầy bà đã có ba đứa con, mà ba đứa là con của một Sĩ quan Cách mạng thử hỏi làm sao ai cho đi chung được. Một sự việc hoàn toàn khó khăn và rắc rối, nhiều lúc bà nói! Thôi ông đi một mình đi còn mẹ con tôi ở lại, ông đừng bận tâm. Nhưng ông nhất quyết là muốn đi cùng bà.

    Ông Trung tá sau khi cải tạo về với hai bàn tay trắng, bà Hoàng thì nghèo sơ, nghèo sát cơm chẳng đủ no lấy đâu mà nhờ vả người nầy, người khác.

    Không biết sao, hai người làm cách nào mà chuyển từ con Sĩ quan Bộ đội trở thành con Sĩ quan QLVNCH một cách dễ dàng và được tòa Đại sứ Mỹ công nhận và cấp Visa cho sang Mỹ.

   Bởi thế ngày liên hoan tạm biệt bà con trong xóm cứ bảo nhau con mẹ Hoàng nầy là mụ Phù thủy không hơn, không kém.

  

Thủy Điền

 

 

134-Tai Họa

 

       Trời tháng tư, oi bức. Không sao thở nổi, ngồi chẳng yên, mà đứng cũng chẳng yên. May, mà có cơn gió nhẹ thổi qua nên chợp mắt được một lúc. Dăng dẳng gần bên, tiếng qua, tiếng lại vang dội giữa hai căn nhà. Giật mình ngồi dậy, xem quanh đang xảy ra chuyện gì. Thì ra, hai bà cháu nhà bên đang cãi nhau.

    Kể từ ngày mẹ nó bỏ đi. Nó sống với Ba và ông bà Nội gần ba năm nay.Vì nó là cháu Đích tôn nên cái gì cả nhà cũng đều thương yêu và chìu chuộng, nhất là ông bà Nội. Ba nó thì thỉnh thoảng rầy la, vì thương nó những lúc cô đơn không có mẹ.

   Mẹ nó bỏ nhà ra đi không biết gì lý gì, khi nó vừa tròn tám tuổi. Ngoài việc đi học hàng ngày, về nhà chỉ biết quanh quẩn bên ông bà Nội và những người hàng xóm thân quen. Xung quanh nó từ lớn, đến bé ngày nào người ta cũng thường hay nói đến chuyện tiền bằng danh từ bạc triệu, bạc tỷ ví dụ: Như trúng Độc đắc một tỷ rưởi, chiếc Hon-da nầy hai chục triệu, chiếc Di động kia một triệu tám v.v…..nghe là nghe vậy, nó có biết gì về bạc triệu, bạc Tỷ đâu. Bởi, nó mới vừa tám tuổi đời.

   Hàng ngày đi học, về nhà nó thấy ai cũng cầm trên tay chiếc Di động ngồi bấm bấm, quẹt quẹt, tín ton. Nhất là Ba của nó khi rảnh rỗi là cầm Di động bấm tới, quẹt lui. Những lúc Ba nó bấm, nó thường hay kề cận muốn xin bấm một lần cho thỏa thích, Ba nó quát, thậm chí còn mắng cho một trận. Rằng, mầy là con nít mà biết cái gì xía xía vào, nó bật khóc, rồi ngoe ngoãy đi nơi khác và nhiều lần tương tự như thế.

   Cả tuần nay, nó canh Ba nó đi làm hoặc đi đâu là nó xề bên bà Nội, ngồi khoanh tay, gương mặt như đưa đám, chẳng nói một lời. Bà Nội tưởng nó nhõng nhẽo, nên dỗ ngọt. Con ăn thứ gì bà mua cho hay ai ghẹo con bà Nội sẽ đánh đòn người đó. Nó lặng thinh chẳng thèm trả lời, trả vốn vì cả. Ngày nào đi học về, sau buổi cơm nó đều làm như thế. Dỗ dành mãi không được, bà Nội bảo ba nó xem nó có chuyện gì không, mà ngày nào cũng đều như thế. Ba nó bảo! Nó nhõng nhẽo linh tinh vậy mà.

   Một hôm chờ lâu quá không thấy ai chìu chuộng mình nữa, nó bật miệng nói đại với bà Nội, rằng nó muốn mua một chiếc Di động. Bà Nội mới tá hỏa và cười ngất, con còn nhỏ lắm Tân, mua cái đó làm gì. Vả lại mắc lắm bà không có tiền. Bà nhỏ giọt năn nỉ, thôi ráng học đi Tân, mai mốt lớn lên bà Nội mua cho liền, bà hứa với Tân đó. Nó nhất định khăng khăng không chịu, nó bảo chỉ có một triệu tám, chớ đâu có nhiều tiền mà bà Nội cũng không dám mua. Nó hăm dọa bà đủ thứ, tối nay không đi ngủ sớm, ngày mai không đi học, chiều nay không ăn cơm. Bà Nội giải thích, khuyên răn đủ điều, mắc lắm con, một triệu tám chớ ít ỏi gì, hơn nữa con đâu biết sử dụng, cả bà cũng thế. Khó xài lắm, mua làm gì cho phí, mai mốt lớn bà mua cho con ngay. Đừng làm bà giận lên bà đánh đòn bây giờ. Nó chỉ một lời, có một triệu tám, đâu có bao nhiêu đâu mà Nội không mua cho con.

   Ba Nó về, bà Nội nó kể lại đầu đuôi câu chuyện. Ba nó nổi nóng, quát cho một trận. Nó khóc, nhưng miệng chỉ nói có một triệu tám, tại sao không mua mà còn mắng nhiếc.

   Quả thật. Lời hăm dọa hôm ấy nó làm thiệt, chiều không thèm ăn cơm, tối không đi ngủ sớm, sáng chẳng bước tới trường học. Ba nó giận quá, đánh mấy trận cho nó sợ, nhưng cũng chẳng ăn thua. Ông bà Nội và Ba nó hè nhau bỏ lơ, không thèm để ý đến nó nữa, thử xem sao. Cả một tuần rồi nó không đi học, Cô giáo gởi giấy về nhà hỏi tại sao? Ba nó đành nói dối Cô giáo, rằng nó bị bệnh và chạy ra tiệm bán Điện thoại mua cho nó một chiếc Di động cũ ba trăm ngàn đồng về dụ nó đi học lại. Nó mừng ra mặt và ngày mai đi học lại bình thường mà không cần ai đưa đón.

    Ông Nội  Nó nằm tòn ten trên chiếc võng, miệng lầm bầm, ba thằng Tân, bây coi xem sao, chớ Ba thấy Tai họa đã đến  nhà mình rồi đó con à.

 

Thủy Điền 

 

 

133-Ngỡ Bà Bán Vé Số

 

     Bình thường lúc ở nhà, sáng vừa thức dậy mẹ con Lan hay hỏi ? Ba con Lan hôm nay uống Trà hay Cà-phê, nếu Trà thì bà tự pha lấy còn Cà-phê thì sang quán cô Cúc gần bên gọi người ta sẽ mang qua. Sao lần nầy về chẳng nghe bà hỏi và gương mặt lại khác hẳn như cái bánh Bao chiều, trông rất là khó chịu.

    Lâu nay gia đình Sang sống bằng cái nghề bán quán nhậu, hồi đầu ít quán thiên hạ bu lại hai vợ chồng ăn nên, làm ra kinh tế gia đình thấy khấm khá ra nhiều. Nhưng kể từ ba năm nay quán xá càng lúc càng mọc lên như Nấm nên quán nhậu bảy Sang dần dần ế ẩm, cộng một số khách ăn chịu lâu ngày nên túi vốn cũng lưng dần. Nhà thì năm miệng ăn, ba đứa con bắt đầu nhổ giò, đứa đi học Sài gòn, đứa đi học Mỹ tho, lúc áo quần, lúc sách vở cũng đủ làm cho anh ta nhức đầu, nhức óc. Cả nửa năm nay cứ lèn xèn bên vợ, chẳng làm ra đồng nào Sang thấy đàn ông như mình thế nầy thật là xấu hổ. Sang nghĩ đến người bạn đang làm Bảo vệ cho một nhà hàng lớn ở Thành phố và định nhờ anh ta tìm cho một việc làm. Cái gì cũng được, miễn hái ra tiền về phụ giúp vợ con là được rồi, cực nhọc đến đâu cũng chẳng sao.

    Chờ đúng cuối tuần thằng bạn về đến, Sang mon men sang, trước thăm và nhờ vả. Hỏi ra thì thằng bạn thân bảo, nếu muốn thì ngày mai Chúa nhật sẽ theo anh ta lên Thành phố, anh ta giới thiệu thì sẽ có việc ngay. Sang mừng quá về bảo với vợ ngày mai tôi lên Thành phố cùng thằng Liêm bạn tôi, nó sẽ giúp, giới thiệu tôi một công việc nào đó, mình coi sắp xếp cho tôi ít bộ đồ mai tôi đi cho kịp lúc. Ngọc cũng vui, khi nghe chồng mình sắp sửa có việc làm. Nàng sắp xếp cho chồng một túi xách nhỏ và đồ dùng cá nhân.

   Trưa hôm sau hai anh em đèo nhau trên chiếc Hon-da đi Thành phố. Đến chiều năm giờ Liêm đưa Sang vào gặp ông chủ, nói ba điều, bốn chuyện ông chủ nhận ngay và phân công cho Sang làm việc liền chiều hôm đó, với công việc lái xe sắp xếp chỗ cho khách đậu, vì Sang có Bằng lái xe hơi nên cũng thuận lợi. Giá lương là ba triệu rưởi một tháng. Sau giờ làm việc Sang phải sang Quận ba để ngủ tạm nhà cô con gái lớn đang học Đại học tại Thành phố gần năm nay.

   Cứ đúng hai tuần là Sang được nghỉ hai ngày và quây về nhà thăm vợ con. Trình tự như thế Sang đã làm được hơn sáu tháng trời. Một hôm, sau những ngày làm việc mệt nhọc trở về chàng nằm như bất tỉnh, ngủ mê say, ngủ để bù đấp lại những lúc thức khuya, dậy sớm. Cả hai tuần chờ đợi chồng về Ngọc mừng và không ngủ được, muốn thức trắng đêm tâm sự cùng chồng chuyện nầy, chuyện nọ, nhưng chàng cứ mãi ngáy kho kho. Nàng bực bội không chịu nổi, giả đò ho hen, kọ kẹ sáng đêm thử xem chàng có nhớ đến mình hay không, nhưng chàng vẫn vô tình không hay, không biết.

    Sáng thức dậy, Sang thấy vợ không vui nên hỏi ? Ở nhà có chuyện gì thì  mình cứ nói, lâu lâu tôi về lẽ ra mình phải vui vẻ, còn đàng nầy…….Ngọc xây ngang quát cho Sang một trận. Đêm qua mình có biết tôi ho hen cở nào không ? Tôi gọi mình dậy, là muốn mình giúp tôi thoa lưng, bốp cổ. Ai ngờ, mình phế mặc để tôi ho suốt cả đêm trường. Bây giờ còn bảo thế nầy, thế nọ. À ra là như thế, mình cho tôi xin lỗi, lần sau sẽ để ý hơn. Mình thông cảm cho tôi vì những lúc làm việc ở Thành phố ngày nào cũng có cả chục bà kèo nèo, mời tôi mua Vé số, có lúc ngủ trưa một chút cũng lôi dậy bảo mua. Những cảnh tượng ấy cứ làm tôi mê man, ám ảnh trong giấc ngủ. Thế là đêm qua mình gọi tôi mà tôi cứ ngỡ con mụ nào đó cầu kè, kéo níu bán bằng được Vé số. Không ngờ là mình! Mình cho tôi xin lỗi nhé, đừng giận tôi nha mình, tôi không vô tâm đến thế đâu.

   Ngọc nghe chồng kể, nàng không còn giận dỗi nữa và vội đi pha  ấm Trà ngay.

 

Thủy Điền

 

 

 

132-Thật Khủng Khiếp

 

   Đang Làm việc ngon lành. Đùng một cái ông đưa thư mang đến một Điện tín khẩn. Dũng vội mở ra và đọc “Cha bệnh nặng, con về gấp“ một cú sốc vào đầu, Dũng bàng hoàng, choáng váng.

   Vì công việc quá bề bộn và với tư cách là một Kỹ sư Thủy sản Dũng không thể về ngay trong lúc nầy, anh cần phải thu xếp công việc và gia đình thời gian độ vài hôm rồi mới đi được.

   Về nhà Dũng báo cho vợ và các con hay để chuẩn bị ngày mai đón xe về quê cho kịp lúc. Đúng sáu giờ sáng chuyến xe khởi hành từ Tiền giang về đến Cà mau phải mất một ngày đường.

   Vừa bước vào nhà mọi người ùa lên khóc, rằng thằng Dũng đã về. Dũng về vừa lúc cha của Dũng cũng vừa nhắm mắt lìa đời. Họ hàng, láng giềng còn đang đứng quanh chật ngôi nhà, người khóc, người u buồn tiếc thương người quá cố. Dũng cũng bật khóc kể lể đôi điều, cảnh tượng bây giờ biến thành một màu tang trắng.

   Sau khi chôn cất cha xong. Mẹ Dũng kể lể đủ điều trong niềm thương tiếc và vì Dũng là con trai độc nhất trong gia đình, bà muốn Dũng cùng vợ con thâu xếp trở về quê để trong coi tiếp gia sản mà cha Dũng để lại. Dũng ngồi bên mẹ trầm ngâm chẳng nói lời nào, chỉ an ủi bà trong niềm xót đau, mất mác.

   Ở lại quê nhà trọn một tuần. Dũng quây lại Tiền giang với công việc bình thường, nhưng tâm trí lúc nào cũng suy nghĩ về người mẹ nơi quê nhà và cả một sự sản không người chăm sóc. Đứng giữa hai con đường cần phải lựa chọn, sự quyết định thật khó khăn vô cùng. Cả một tháng trời nghĩ suy, suy nghĩ ăn không ngon, mà ngủ cũng chẳng yên. Cuối cùng Dũng viết tờ đơn xin nghỉ việc và nạp lên Ty. Bước đầu Ban lãnh đạo Ty không đồng ý, nhưng Dũng cứ phân trần hoàn cảnh nên mọi người chấp nhận nguyện vọng của Dũng sau đó và hứa Dũng có thể trở lại Cơ quan dù bất cứ lúc nào vì Dũng là một Kỹ sư có trình độ và khả năng.

   Đầu mùa Hè năm ấy chờ các con nghỉ học, Dũng và gia đình trở về quê cũ. Sự ra đi tuy đã suy nghĩ và quyết định chính chắn, nhưng Dũng vẫn luyến tiếc Ty Thủy sản. Vì nơi đó Dũng đã phục vụ gần năm năm trời, nơi đó đối với Dũng thật nhiều kỷ niệm đáng nhớ.

   Trở lại quê hương sau hơn mười năm trời xa cách, xung quanh Dũng bây giờ tất cả đều mới mẻ, xa lạ vô cùng. Xã hội tiến triển vượt bực mỗi ngày, mỗi khác. Ngạc nhiên đến chống mặt. Vì là một người xa quê mới về hơn nữa Dũng là một người có học nên xóm giềng rất quí mến và gần gũi. Mọi chuyện lớn, chuyện nhỏ trong làng Họ cũng đều nhờ vào Dũng cả. Dũng giờ như một đấng tin cho họ. Mỗi lần họ nhờ vả hay giúp cái gì, họ đều mang những bình rượu quí ra mời khách. Dũng hồi đầu uống kém, nhưng ngày qua ngày vì nể  bụng bà con, ai đến đâu, thì Dũng đến đó. Có khi xong công việc trở về nhà Dũng dường như không còn biết gì cả. Thời gian chỉ trên dưới năm năm sống tại quê nhà với sự tiếp xúc xóm giềng như thế mà Dũng trở thành anh nghiện rượu. Sáng mở mắt ra không có rượu là Dũng không chịu nổi và cũng chẳng làm được việc gì. Trước khi bắt đầu vào công việc Dũng phải có rượu trước đã thì hãy làm sau. Con sâu rượu bám vào người Dũng nhanh quá, nhanh đến nỗi người ta không tưởng tượng được, gia đình Dũng cả mẹ, vợ lẫn các con chống đối kịch liệt, nhưng rồi cũng phải buông tay. Có lẽ Dũng vì da chạm hàng ngày và nhiều người cho nên mới ra nông nỗi.

   Thời gian về quê thắm thoát gần tám năm trời, mẹ già đã qua đời, các con đã lớn, lập gia đình. Và Dũng trở thành anh nghiện rượu thật sự, bất lực vợ Dũng mới ngày nào còn son trẻ vì thương chồng trở về quê nay đã thành cụ già trước tuổi. Dũng nghiện đến nỗi bạn bè ngày trước phải xa lánh, thật khủng khiếp. Mỗi khi Dũng nhấc phôn lên rủ rê, họ đều từ chối, qua nhiều lần anh u sầu ngồi một mình trong phòng vắng và chữi thầm! Cuộc đời sao khốn nạn thật.

   Giờ không còn ai đến với Dũng nữa, tất cả đều ngoãnh mặt, quây lưng. Trong những lúc cô đơn Dũng đành ngồi một mình trước khung gương cầm chai rượu rồi mượn mình làm bạn và uống một mình hết ngày nầy, sang ngày khác.

Thủy Điền

  

 

 

 131-Đổi Ngược

 

   Những tiếng lộp độp trên mái nhà, những dòng nước chảy từ máng xối ào ạt vào hồ, trận mưa rào vào buổi chiều tháng bảy. Quang và Linh đang ngồi ăn bữa cơm chiều, vừa ăn, vừa nhìn ra ngoài ngõ. Linh cứ than thở .Tất cả đều là tại mình cả.

   Sau vài năm. Đất nước hòa bình Quang đưa vợ con từ Sài gòn về quê nhà sinh sống, chàng ngỡ rằng về quê bám lấy thửa ruộng, miếng vườn của cha mẹ để lại cuộc sống sẽ an nhàn và khấm khá hơn so với những năm làm công nơi thị thành xa lạ. Ai ngờ! Về quê gần hai năm nay, cuộc sống càng ngày càng bị lụn bại và cơ cực hơn nhiều. Nhiều lúc Quang muốn quây lại Sài gòn, nhưng quá trễ. Sài gòn bây giờ không dễ như xưa, muốn ra khỏi thì dễ, muốn vào thì khó lắm. Hơn nữa tiền túi của Quang đã cạn sạch cả rồi.

    Ngoài đường thiên hạ khe khẽ nhau chuyện người bị bắt, chuyện người đi lọt, chuyện người vượt biên, tiếng to, tiếng nhỏ dần hồi trở thành quen thuộc. Quang nhiều đêm suy nghĩ về cuộc sống hiện tại, chàng moi trong trí và tìm cách vượt biên, có như thế mới hầu thoát khỏi cảnh u tối nầy.

   Nhân dịp cùng vài ba người thân lên Tỉnh dự đám cưới đứa cháu gái, Quang gặp một người chị họ. Họ cũng có ý định như Quang. Lời qua, tiếng lại hai người đã thuận ý, người có của, kẻ giúp công. Quang về bàn với Linh và hai vợ chồng nhất trí.

    Vài hôm sau, chàng trở lại Tỉnh và tiến hành công việc. Một đêm u tối chiếc tàu của Quang và những người đồng hành đã âm thầm vượt ra biển khơi, hai ngày, hai đêm là Quang đã đến Indonesia một cách an toàn như giấc mộng. Chàng thở phào và cảm ơn trời đất, vì chàng vừa thoát khỏi cảnh nghèo nàn, vất vả.

    Ở Đảo gần một năm, gia đình Quang được chính phủ Đức đón nhận trên tinh thần nhân đạo. Một ngày cuối tháng mười một 1981 gia đình Quang đã có mặt tại Frankfurt - Đức rồi lần lượt đưa từ các trại tỵ nạn nầy, đến trại tỵ nạn khác và cuối cùng gia đình Quang được định cư chính thức tại một thành phố lớn của Tiểu bang Niedersachsen. Sau chín tháng học tiếng Đức Quang xin vào một Xí nghiệp chế biến Thực phẩm và làm việc cho đến hôm nay.Vợ Quang ngoài việc chăm sóc gia đình, nàng cũng làm thêm vài công việc phụ, để phụ đấp thêm phần kinh tế gia đình.

   Sau mười năm làm việc, hai người đã dành dụm được số tiền Quang và Linh có ý định trở về Việt nam thăm gia đình một chuyến, vì hiện tại các con đã lớn cả. Chúng có thể tự lo cho mình trong vòng một tháng mà không cần đến mẹ cha.

     Mùa Hè năm 1991 hai người trở lại Việt nam.Về đến ngõ quê Quang nửa vui, nửa buồn.Vui vì được gặp lại tất cả người thân, buồn vì quê mình còn nghèo quá, nghèo đến nỗi các cháu muốn đến trường mà cha mẹ không có tiền mua sách vở và quần áo mặc. Kinh tế gia đình thì thiếu thốn mọi bề, cửa nhà thì rụi dần theo thời gian không cách nào sửa chữa được.

   Một tháng về thăm quê trong chớp mắt. Quang trở lại Đức, chàng suy nghĩ đến những đứa cháu đang lớn, không tương lai. Những suy nghĩ cứ dằn vặt trong tâm trí hết ngày nầy, sang ngày khác.Cuối cùng chàng quyết định bỏ một ít tiền nhờ người về cưới hộ đứa cháu gái của mình vừa tròn hai mươi tuổi. Trước tiên là giúp đỡ gia đình được rảnh tay và tương lai của cháu mai sau. May ra, đời cháu sau nầy sẽ được xán lạn hơn. Chàng vừa đi làm, vừa hỏi quanh bạn bè đây đó cuối cùng cũng có người ưng thuận. Chàng mừng quá, về bàn với vợ và Linh cũng thuận lòng.

   Gần một năm rưởi vừa làm giấy tờ, vừa chờ đợi. Đứa cháu gái của Quang đã được đến Đức với diện đoàn tụ vợ chồng.Tiền bạc sòng phẳng như đã giao kèo. Đúng ba năm sau. Đứa cháu của Quang ly dị chồng và về sống chung với gia đình Quang. Quang xem cháu từ lúc qua Đức cho đến nay như con ruột trong gia đình, hai bên chưa một lời to tiếng. Cuộc sống gia đình Quang vẫn bình thường như xưa nay, chỉ có điều là tăng thêm hộ khẩu. Còn cháu gái bây giờ đã xin vào được một hãng làm bánh kẹo, lương bổng không cao lắm, nhưng một mình cháu sống rất dễ chịu và hàng tháng còn gởi ít tiền và quà cáp về gia đình giúp cha mẹ, anh em. Thấy cháu làm được chuyện Quang mừng ra mặt vì chàng đã cứu sinh được những con người khốn khổ.

   Kể từ năm 2000 trở về sau, gia đình Quang và cháu gái thường hay trở về Việt nam thăm quê. Càng về nhiều lần nhìn thấy cảnh xã hội càng ngày càng phát triển cộng với năm tháng sống nơi phương trời Âu lạnh lẽo, tâm trí Quang dần dà hướng về cố quốc. Mỗi lần về, rồi lại ra Quang thường hay bàn bạc với Linh, các con lớn cả, có gia đình hết rồi thôi mình dành dụm ít tiền, thu góp hành trang trở về Việt nam sống trong những ngày còn lại. Thoạt đầu Linh không đồng ý, chống cự quyết liệt. Nhưng chàng cứ thỏ thẻ hết ngày nầy, sang ngày khác và cuối cùng Linh đành phải xuôi lòng.

   Năm 2007 chàng trở lại Việt nam và quyết định mua miếng đất đối diện nhà cô em gái và dự định ít năm nữa sẽ về và cất một căn nhà ở luôn. Vì hiện tại Quang đã sáu mươi mốt tuổi chỉ còn hai năm nữa là chính phủ Đức sẽ cho Quang về hưu theo luật định hiện hành.

   Đúng sáu mươi ba tuổi, Quang cầm trong tay tờ giấy báo hưu trí, Quang mừng quá và bảo vợ chuẩn bị lên đường, tất cả những gì còn lại bên Đức Quang bàn giao hết cho đứa cháu gái của mình. Về Việt nam Quang cất một ngôi nhà thật lớn, tiện nghi đầy đủ như ở phương Tây không thiếu món gì, ngày ngày chỉ

biết ngủ, ăn và đi dạo mát. Hai vợ chồng bây giờ sống như một ông vua nho nhỏ trong làng.

   Ngỡ rằng mọi việc đã yên, về Việt nam sống gần cô em gái trong những lúc tuổi già. Ai ngờ! Hai tháng sau đứa cháu gái đã lãnh mẹ của nó sang Đức theo diện đoàn tụ gia đình ( mẹ con), mà trước đó nó chẳng thèm nói một lời nào với Quang và Linh. Vì hiện tại đứa cháu gái đã đủ đìều kiện nuôi mẹ như: Nhà ở và có công việc làm vững chắc.

   Trước khi lên đường định cư tại Đức cô em gái Quang có ghé sang từ giã và nhờ anh chị trông hộ ngôi nhà giùm em, thỉnh thoảng em về quê thăm anh chị ,chúc anh chị ở lại vui vẻ. Linh vừa nghe nói xong nàng ngã ra xỉu và chẳng nói được lời nào.Quang vừa nâng vợ ngồi dậy và ôm đầu Tất cả đều tại Tôi……!

 

Thủy Điền

 

                                                    

  130-Đứa Con Út

 

      Cả ba tuần nay, tối nào thằng Nhân cũng lục đục, cọt kẹt không ngủ được. Bởi chiếc chiếu lót ván bị thủng nhiều lỗ và chiếc mền quá mỏng. Bà Tám má nó nằm gần bên không chịu nổi, cứ rầy rà liên tục. Nhưng nó vẫn ngậm thinh và chờ khi mỏi mệt rồi ngủ tiếp.

       Kể từ sau ngày giải phóng, nhà bà Tám rất chật vật, không còn buôn bán ngoài chợ như trước nữa, vì nhà nước đã thu hồi chỗ bán của bà và phân thành những lô hàng khác. Mặc dù bà có đăng ký xin lô mới, nhưng người ta bảo đã đủ hết rồi, thế thì bà đành thất nghiệp. Ông Tám sau khi rã ngũ, trở về nhà thì cũng chẳng có nghề nghiệp gì cứ lây quây bên miếng vườn nhỏ, bốn anh em thằng Nhân đứa lên ba, lên bốn còn lẩn quẩn bên chân bà, công việc thì không có, miệng ăn càng ngày càng lớn ra, trông ông bà thật là cơ cực.

      Cũng may, năm 1989 bà có đứa cháu đi xuất ngoại, nghe bà quá khổ nên gởi ít tiền về giúp bà, bà mừng vô hạn. Cơn gió lòng đã đến, bà bàn với ông Tám là phải làm cái gì để sống chứ ngồi không ăn miết rồi cũng hết. Bà nghĩ đến buôn bán, mà bán cái gì ? Chỗ thì không còn, hơn nữa thời buổi khó khăn làm cái gì nhà nước cũng cấm và dòm ngó. Ông bà tính nát đầu, nát óc mới nghĩ ra là nhà mình có cái sân rộng, che tạm cái mái và sắm một bàn Bi da cho thiên hạ chơi, rồi thâu tiền giờ. Lối kinh doanh nhỏ trong xóm chắc không ai để ý nhiều, tuy không thâu lợi bao nhiêu, nhưng ngày nào cũng có đồng ra, đồng vào gia đình mình đỡ vất vả hơn. Cuối cùng ông bà quyết định lên tỉnh mua bộ côm lét bàn Bi da trị giá là hai triệu sáu. Mua bàn Bi da xong bà còn lại một ít bỏ túi phòng khi giá lạnh.

     Thật đúng như ý nghĩ ban đầu, khi bàn Bi da vừa mang về, nhờ người đến lấp ráp cho hoàn chỉnh và chờ ngày tốt khai trương. Buổi khai trương bà cúng mâm hoa quả, vái cúng ông Địa, Thần Tài đủ thứ. Quả thật hôm sau, có vài ba cập thanh niên kéo đến, ngày thâu nhập đầu tiên bà kiếm gần ba chục ngàn, bà sung sướng vô cùng. Chẳng hơn những ngày khác không có một Xu, dữ lắm là năm ngàn bạc thâu được của cả thúng lá chuối sau nhà. Rồi càng lúc tiếng đồn đại càng lan rộng ra, thiên hạ càng lúc càng đến chơi nhiều. Bà Tám bây giờ bắt đầu khấm khá hơn.

      Ông bà ở với nhau mười mấy năm nay có bốn mặt con, đứa nào bà cũng cưng và thương yêu cả và bây giờ bà coi bàn Bi da là đứa con thứ năm, đứa con út nầy bà cưng và thương yêu gấp bội, bà ôm ấp, chải chuốt, giữ gìn nó còn hơn cả bản thân mình. Ở nhà có chiếc chiếu và chiếc mền mới  bà mang ra đấp cho nó trong những lúc đêm về và khi vắng khách. Còn bốn anh em thằng Nhân có gì nằm nấy, có gì đấp nấy cả ông và bà đều cũng thế, là gì bà mãi sợ cái bàn Bi da bị hư hỏng hay dơ bẩn thì khách sẽ không đến nữa, gia đình bà sẽ lâm vào cảnh bi đát như xưa.

         Ba tuần nay khi bà đem cái bàn Bi da về, riêng ông bà thì mừng ra mặt. Đồng ra, đồng vào bà trang trải được mọi thứ. Còn anh em thằng Nhân thì buồn mà không dám hở môi. Chúng nó đêm nào cũng cóng lạnh, vì chiếc mền mỏng rách và ngứa ngái thân mình bởi những cọng lát đâm chọt vào lưng.

 

 Thủy Điền

 129-Về Quê Nội

 

     Ngồi trước mũi chiếc Thuyền Tam bản (Đò dọc), vừa ngắm trời mây, sông nước. Bỗng dưng tôi thấy phía xa xa khoảng cách chừng trăm mét, lố nhố những đầu người như một đàn cá Lòng tong đốp động.

     Những năm sau nầy, Nội tôi già yếu cứ mỗi lần về thăm, ông thường bảo. Ông bà bây giờ già rồi không lên thăm các cháu được như ngày xưa nữa, các cháu tất cả đã lớn, nếu đứa nào có rảnh rang thì về thăm ông bà. Nhớ lời ông dặn mùa Hè năm 1978 sau khi học xong năm đầu tiên tại trường trung cấp Thủy lợi 3 Tiền Giang tôi được nghỉ hè một tháng và về thăm quê nhà một tuần. Đoạn đường từ Tân Hiệp - Lịch Hội Thượng mất gần trọn một ngày đường, tuy không xa, nhưng hồi ấy xe cộ khan hiếm và vất vả lắm.

    Vừa đến bến xe Lịch Hội Thượng độ hai giờ chiều, tôi vác cái giỏ đi qua mấy con phố để đến bến đò về Đại Ngãi, lúc ấy bến đò năm cạnh nhà lồng chợ Lịch Hội Thượng. Đi lang thang hỏi giang năm bảy người họ đều từ chối. Cũng may, lúc sau tôi hỏi thêm một Bác nữa, Bác ấy ưng lòng, nhưng phải chờ một chút vì vợ ông ta còn phải thâu tiền Khoai.Tôi mừng quá và nói. Dạ cháu đợi Bác. Mặc dầu nói goá giang, nhưng cũng phải trả tiền đò như đò chở khách.

     Những năm sau giải phóng đoạn đường Đại Ngãi - Lịch Hội Thượng cũng có xe Lam vài ba chuyến, nhưng họ chỉ chạy vào lúc sáng sớm rồi nghỉ, còn sau đó phải goá giang đò đi bán hàng về, ngoài ra không còn cách nào khác.

     Trên chuyến đò về Đại Ngãi ông Bác chở thêm bảy người cộng tôi nữa là tám. Chiếc đò trống vắng, nên tôi đi ra phía mũi ngồi cho thoáng, tiện nhìn cảnh vật hai bên sông.Vô tình tôi chợt thấy phía trước lố nhố đầu người đang bơi lội giữa sông, đò càng lúc càng tiến gần tôi thấy lộ lên mấy chục nàng phụ nữ trẻ trung, xinh đẹp. Họ đùa giỡn, trêu ghẹo những người trên đò mà không cần biết những người ấy là ai. Đặc biệt các cô nầy đều khỏa thân, họ xem ông Trời và xung quanh như hạt tiêu, hạt cát. Không e ngại, sợ sệt gì cả.

     Đò vừa qua một đỗi, tôi đi lần về phía sau ngồi gần bên cạnh Bác Tài và hỏi ?

-Bác à, trời nắng chang chang thế nầy, đàn bà đâu mà tắm đông thế, chẳng quần, chẳng áo gì cả vậy Bác ?

*Ông Bác đùa, tắm mà mặc đồ làm sao mà tắm.

-Tôi hơi quê, xin lỗi Bác, tại cháu nghĩ đàn bà tắm kiểu nầy họ phải kín đáo hơn, lỡ ai nhìn thấy thì chết.

*Thì cậu vừa nhìn thấy đó, họ có chết đâu. Riêng tôi thấy hàng ngày họ vẫn sống nhăn răng. Nói vui với cậu thôi, đây toàn là mấy Ả chuyên bán Số đề, Ma túy, Giang hồ không đấy cậu. Nơi nầy người ta gọi là Trại sáu Tổ ấm của mấy nàng.

-Ghê gớm thật vậy sao Bác.

*Cậu không tin về hỏi người nhà cậu xem tôi nói có đúng không ?

*Dạ Bác nói thì cháu tin ngay, hỏi vòng vo làm gì, tại thấy là lạ nên cháu hỏi thế. Vì Lịch Hội Thượng mấy năm trước cháu hay về có thấy vì đâu.

-Mỗi ngày, mỗi khác cậu ơi.

    Hai Bác cháu lời qua, tiếng lại. Chiếc đò đã đi được nửa đoạn đường. Bác Tài khiều khiều tôi nói tiếp.

*Cậu coi kìa, phía bên tay phải mình nè, có cái Trại mới cất rất kiên cố, cậu biết nhốt loại nào không ?

-Thưa không.

*Đại ca và Chư vị không đó, án từ chung thân đến tử hình. Đặc biệt nơi đây không được tắm tự do như ở Trại sáu.Trại nầy có tên là Trại năm người ta hay gọi Trại Âm phủ. Ở đây ai được đưa vào Trại Âm phủ là coi như khỏi về.

-Lịch Hội Thượng giờ ghê thật hả Bác.

*Đâu riêng vì Lịch Hội Thượng mình, ở đâu cũng vậy hết cậu ơi, ăn chơi quá làm liều.

    Đò vừa cập bến nhà máy xay lúa, tôi trả tiền, leo lên bờ và cám ơn rồi chào tạm biệt.

     Bước vào nhà, ông bà Nội thấy tôi mới về mừng quá, hỏi han đủ điều.Trời ngã chiều ông bà cháu ngồi quây quần bên mâm cơm. Tôi kể cho Nội tôi nghe câu chuyện vừa qua. Nội tôi bảo Hoà bình rồi không chịu lo làm ăn, cháu coi vài năm nữa nhà nước cất thêm năm, bảy Trại nữa cũng chưa đủ. Ở đây dạo nầy tối nghe Chó sủa là ông ngủ không yên.

 

Thủy Điền

 

 

128-Vĩnh Biệt Bernhard

 

   Mới hôm thứ tư, tôi đang làm việc thì bỗng thấy Bernhard đứng trước cửa nhà, tay kề chiếc xe lăn, tay vẫy chào tôi, trông ông ta còn khỏe lắm, thế mà hai ngày sau tôi nhận được thiệp báo tin. Rằng ông ta đã qua đời sau ngày hôm đó. Thật là một bất ngờ.

     Tôi đến Nông trại ông làm việc gần mười lăm năm nay và quen ông từ đó. Hồi ấy ông đã về hưu và giao lại tất cả Cơ sở cho con ông làm chủ, nhưng thỉnh thoảng tôi thấy ông cũng hay lái chiếc máy cày cũ kỹ ra đồng phụ giúp con ông như tưới phân, phát cỏ.

    Và từ lúc tôi làm việc dưới sự chỉ đạo của con ông cho đến hôm nay. Ngày ngày làm việc, tôi đều gặp ông cả. Ông vốn chất phác, hiền từ của một nông dân chân chất, hễ mỗi lần gặp mặt tôi là luôn thăm hỏi sức khỏe gia đình và con cái.Tôi cũng thế, nên ông rất quí mến tôi và ngược lại.

    Sau năm năm làm việc tôi nghe ông ngã bệnh. Hồi ấy ông khoảng bảy mươi tuổi, cứ nay Bác sĩ, mai Nhà thương nhìn ông sức khỏe sa sút rất nhiều từ một con người lực lưỡng, thế mà chỉ mấy chốc, ông chỉ còn bộ xương da bọc trông thê thảm vô cùng. Đứng nhìn ông mà nghĩ đến tuổi già.

    Trong những lần đau bệnh, tôi thường hay thăm hỏi vợ ông. Rằng sau ông mau sa sút đến thế. Bà bảo, ông bị cái dạ dầy hành hạ mấy năm qua, ăn không được nhiều, khi ăn xong thì không tiêu, cứ cắt, mổ nhiều lần mà cũng chẳng thấy giảm bớt phần nào. Bà là một người vợ chân thành, đức hậu lo cho ông từ li, từ tí cho đến khi ông nhắm mắt lìa đời.

    Qua bức thư báo tử, sau mấy ngày còn gặp gỡ, tôi thật bàng hoàng, xúc động khi hay tin ông đã ra đi một cách đột ngột và thứ ba nầy. Ngày chín, tháng sáu lúc mười hai giờ bốn mươi lăm là lúc tôi cùng mọi người đưa tiễn ông về nơi nước chúa. Nơi ấy tôi nguyện cầu cho linh hồn ông mau siêu thoát và luôn được thanh thản nơi suối vàng.

   Vĩnh biệt ông, vĩnh biệt Bernhard, vĩnh biệt một con người đáng kính

        Thật khó tin nổi trên cõi đời nầy, mới thấy hôm nay và ngày mai nghìn trùng xa cách.

  

 Thủy Điền

 127-Cũng Vì Quả Táo

 

     Cần vừa đi làm về, định ra sau nhà lấy cái Ca múc nước rửa mặt, bỗng nó nghe tiếng to, tiếng nhỏ trong nhà. Nó chạy vào muốn can ngăn, nhưng ai ngờ ba và má nó cãi nhau về chiếc Điện thoại di động.

nghe thiên hạ bàn tán nào Điện thoại di động, nào Hon-da, nào Ti-vi đủ thứ kiểu. Nhất là đề tài Điện thoại di động là món ông tư khoái nhất. Vừa uống Cà-phê vừa nhấc ghế qua, nhấc ghế lại xem ké mấy người quen sử dụng. Ngày nào cũng thế, dần dà chiếc Điện thoại di động đã ăn sâu vào đầu ông lúc nào mà không hay.

      Về nhà, nhiều lần ông định bàn bạc với bà mua một cái di động để tiện liên lạc với bạn bè, cũng như xem tin tức Thế giới như người ta, nhưng khó chinh phục được bà quá, vì bà không bao giờ chịu xìa ra một Xu nào cả, ông thừa hiểu điều nầy nên đành lặng câm chờ dịp khác.

      Mấy hôm, ông canh bà bán được hai con heo, gần năm triệu đồng. Ông chờ bà đi chợ, ở nhà mở tủ lấy một triệu rưởi đi ra cửa hàng mua cái di động.

     Đến cửa hàng, ông bắt buộc cô bán hàng bán cho ông một cái thật xịn, giá cả bao nhiêu thì bao, không thành vấn đề. Cô bán hàng chọn cho ông một cái hiệu quả Táo đa năng. Ông khoái chí, mặc dù chưa biết đa năng ra làm sao. Ông trả tiền và xách chiếc Điện thoại về nhà. Vừa đi, vừa bấm rất vui vẻ như chú bé lên mười trông thật là vui sướng.

     Ngồi trên bộ ghế giữa, vừa bấm, vừa hồ hởi phấn khởi thì bà đi chợ về.

*Nầy ông Mẫn! Ông làm cái trò gì thế ?

-Tôi đang theo giỏi tin tức Thế giới

*Ông mượn của ai vậy ?

-Tôi mua, của ai rảnh mà cho mượn, bà hỏi kỳ lạ thật.

*Tiền đâu ông mua ?

-Tiền của mình, không lẽ tiền người ta.

*Trời ơi, ông lấy tiền bán heo của tôi phải không ?

-Ừ! Có một triệu rưởi chớ bao nhiêu.

*Hết nói nổi ông rồi.

-Có gì đâu mà bà làm ầm lên vậy, tối nay tui với bà xem chung.

*Thôi đi, ông xem một mình ông đi, mà nầy ông đưa cho tôi coi cái gì trong đó mà tới một triệu rưởi ?

-Nè ! Bà coi đi, trị giá lắm đó bà, xịn lắm.

*Ông ơi.

-Cái gì, lẩy nhẩy hoài, bực mình quá.

*Trời ơi, ông bị người ta gạt rồi.

-Bà nói cái gì, tui mà bị gạt, còn lâu, tư Mẫn nầy gạt người ta được, chớ đừng hồng bị người ta gạt nhé.

*Bị gạt mà không hay, ông coi nè. Quả táo trong điện thoại bị ai ăn hết một phần rồi kìa, ông có thấy không ? ông ơi, là ông ơi.

-À! Bà nói đúng đó, thôi để tôi mang ra cửa hàng đổi lại và mắng cho cổ một trận.Tại sao dám gạt tôi? Tôi mua, tôi trả tiền đàng hoàng mà.

   Ông Tư tức quá, thay quần áo chạy ra cửa hàng quát cô bán hàng một trận. Thiên hạ bu lại đông nghẹt, ông càng làm dữ lên, ông đòi gọi Công an đến giải quyết, bao nhiêu người xáp lại hỏi chuyện gì? Ông bảo.

*Cô bán hàng nầy gạt tôi, tôi mua cái Điện thoại nguyên quả Táo mà cô ta bán cái điện thoại chỉ có ba phần tư quả Táo, thử hỏi có tức không. Đồ lường gạt. Bà con áp cười rần lên. Ông hỏi ?

*Mấy người thấy tôi bị gạt mà còn cười được sao ?

-Không phải, ông nhầm rồi ông Tư ơi, cái Điện thoại nầy tốt lắm, còn quả Táo chỉ là nhãn hiệu thôi.Về đi ông ơi, lớ quớ Công an bắt ông bây giờ về cái tội mắng bậy.

*Thiệt vậy hả bà con.

-Thiệt chứ.

*Thôi tui về.

     Về chưa vô đến nhà thì bà Tư đứng trước cửa.

*Ông có đổi được không ?

-Đổi đâu mà đổi, tôi quê quá bà ơi, mà tất cả mọi chuyện cũng đều tại bà hết.

*Làm sao tại tôi ?

-Nó đâu có hư hỏng gì đâu. Quả Táo là cái nhãn hiệu của Điện thoại bà ơi, tôi quê không còn chỗ trốn, thôi bà làm ơn, làm phước tránh xa giùm tôi đi, tôi mệt lắm rồi.

  * Ông nầy! Tôi xin lỗi ông nha, tôi tưởng.

-Tưởng tưởng, cái gì mà tưởng. Bà coi sắp xếp tiền bạc sẵn cho tôi mau, chớ tôi nay mai là tôi ẩm cái Ti-vi  20 in đó nhen, tôi hỏi rồi, ba triệu rưởi.

*Cái gì ? Ông nói cái gì, còn lâu tôi mới đưa tiền cho ông mua cái Ti-vi

    Thấy người ta năn nỉ, được nước rồi làm tới.

     

Thủy Điền

 

 

 

126-Dấu Ấn Cuộc Đời

 

   Cuối tháng 9 năm 1980. Sau khi ra trường, rồi được bổ nhiệm về phục vụ tại Đoàn Khảo sát-Thiết kế, Ty Thủy lợi tỉnh Sông bé và cũng là lúc tôi chuẩn bị lên đường đi xứ khác, một nơi mà ngay từ đầu tôi cũng chẳng biết nơi đâu. Nơi ấy bây giờ chính là đất Đức, phương trời Âu vời vợi nghìntrùng. Nơi đây tôi đã xa cha mẹ, anh em, bè bạn và xa cả một trời đầy kỷ niệm.

    Năm 1977 vừa tròn mười tám tuổi, một kỷ niệm tuyệt vời, khó quên đả đến trong tôi cùng một thời điểm mà không thể ngờ được. Tôi như một kẻ Ăn mày vừa trúng lô Độc đắc. Bởi vì tôi chỉ là một hạng người bình thường không hơn, không kém.

   Cuối mùa Hè năm ấy, tôi đã may mắn thi đỗ cùng một lúc vào hai trường

trung học chuyên nghiệp. Đó là trường trung học chuyên nghiệp Thủy lợi 3

Tiền giang và trường Sư phạm Long an. Nhận được giấy báo đậu cách nhau vài ba ngày. Hồi ấy mừng lắm, băn khoăn đủ thứ, lưỡng lự đứng giữa đôi đường không biết phải làm sao. Tôi còn nhớ một buổi chiều khoảng năm, sáu giờ

ngoài. Thời điểm mẹ tôi vừa đi bổ hàng từ Tỉnh về, vội vả leo lên chiếc xa đạp, phóng nhanh ra chợ báo cho bà hay tin. Tội nghiệp, khi nghe tôi kể, mẹ tôi đứng thẩn thờ như điến mất, rồi đôi mắt bà từ từ đẩm ướt, tôi cũng đứng lặng người và rơi nước mắt. Hai mẹ con dường như đồng cảm, đồng một nỗi mừng mà xúc động. Bà nhìn tôi trong ánh mắt nghẹn ngào không nói một lời nào cả, một lúc sau bà móc trong túi áo bà ba hai chục đồng đưa cho tôi và bảo rằng con rủ các bạn đi uống Sinh tố cho vui. Vì những lúc ở quê nhà chiều nào đi bổ hàng về, bà thỉnh thoảng hay thấy tôi cùng những người bạn gái thân thiết hay ngồi uống Sinh tố, ăn Chè đầu ngõ. Tôi cám ơn và từ giã chạy đi tìm những người bạn và cùng nhau rong chơi đây đó cho đến tối mới về. Khi về đến nhà thì mọi người đều đi ngủ, chỉ còn lại một mình tôi trong bóng đêm lặng lẽ.

   Thức trọn thâu đêm, nằm trăn trở, không cách nào ngủ được. Tôi luôn suy nghĩ sự mừng rỡ của mẹ tôi đến rơi nước mắt lúc ban chiều, tôi cảm động và thầm thương bà vô hạn.

   Lòng mẹ nào mà không xúc động trước cảnh tình như thế, mẹ nào mà không thương con. Rồi suy nghĩ sâu xa hơn, bà còn phải lo toan cho tôi suốt ba năm dài nơi mái trường Thủy lợi. Các em thì còn nhỏ dại, không biết mẹ tôi phải vất vả đến dường nào.

   Sáng nay khác hẳn những buổi sáng khác, nắng chói chang, mới tám giờ mà Mặt trời đã lần xuyên qua song cửa. Lẽ ra tôi phải thức dậy sớm mà đàng nầy thức quá trễ, gần đến mười giờ non, tôi mới vừa tỉnh giấc.Vì đêm qua tôi về hơi muộn. Tuy vậy, tôi cũng không quên bổn phận của mình cần phải làm gì cho

những ngày sắp tới. Như hỏi ý kiến chỉ bảo của Mẹ tôi, các Cậu tôi v.v…Vì Họ là những người cao tuổi, kinh nghiệm chắc hẳn phải hiểu biết hơn tôi bội phần. Bao nhiêu người tôi thăm dò ý kiến đều bảo tôi nên theo con đường Sư phạm mà không ai khuyên bảo vì tới con đường Thủy lợi và cũng chẳng phân tích rõ cho tôi hiểu nó xấu hay tốt, lợi hại ra sao. Tất cả cứ lặng thinh và xem như tôi không thi đỗ vào trường Thủy lợi kỳ nầy. Có thể thời điểm ấy họ có ác cảm khi nghe hai chữ Thủy lợi phải chăng? Cứ nghe đến nó là người ta sợ sệt cái gì đó, cực nhọc, tay lấm chân bùn. Ngỡ là con mình con gái mà phải học đào Sông, đào Kênh khổ ải lắm. Cứ khăng khăng buộc tôi phải theo ngành Sư phạm. Thoạt đầu tôi gật đầu chấp nhận những ý kiến của gia đình và nghe theo những lời chỉ bảo ấy. Vì nghĩ rằng có lý, bởi tất cả ai ai cũng cho là như thế. Dù gật đầu nghe theo lời chỉ bảo của gia đình, nhưng tôi bụng dạ chẳng an tâm lúc nào cả. Một sự việc rất đơn giản nhưng khó nghĩ quá, tôi chợt nghĩ đến người Cô giáo năm cũ và cũng là người bạn thân thiết của tôi hồi còn học đệ nhị cấp trường trung học Nông Lâm Súc Định tường. Bà ta tên là Nguyễn ngọc Lan lớn hơn tôi chừng mười tuổi gì đó tốt nghiệp trường Cao đẳng Nông Lâm Mục Bảo lộc Lâm đồng về dạy môn Canh nông tại trường Nông Lâm Súc Định Tường lúc tôi đang học lớp mười ngành Canh nông, để hỏi thêm ý kiến xem có trùng họp với gia đình tôi không.Tôi lái chiếc xe đạp cũ kỹ của ông tôi từ nhà lên tận Thủ thừa- Long an mất gần hai tiếng đồng hồ.Trời trưa nắng mồ hôi nhễ nhại, thấm cả đôi vai, dọc đường nghỉ tạm mấy lần bên quán nước vệ đường mới đến nơi. Vừa đến nơi thì thấy căn nhà lá nhỏ, lụp xụp được khóa kín tự lúc nào. Tay cầm chiếc xe đạp, tay gạt vội những giọt mồ hôi còn đọng trên vầng trán, mặt mài choáng váng trong thảm não vô cùng. Thế thì đành phải quây về còn làm gì nữa bây giờ. Suy nghĩ vài phút tôi tạt ngang sang quán nhỏ gần bên uống ly trà lạnh để lấy lại phong độ mà đạp ngược về nhà, bằng không là xỉu mất. Anh Chủ quán thấy tôi ngồi có vẻ buồn bã và hỏi?

-Nầy Cô tìm ai gần đây?

-Dạ thưa anh, tôi tìm Cô giáo Lan, rất tiếc là Cô ta không có ở nhà, cửa nẻo

khóa cả rồi. Anh có biết Cô ta giờ làm gì và đi đâu không ? Anh Chủ quán

nhanh nhẹn trả lời.

-Đi đâu thì tôi không biết, nhưng bây giờ Cô Lan đang làm Ty Nông nghiệp

tỉnh Long an. Cô ta đi công tác đó đây thường lắm, thỉnh thoảng một hoặc hai tuần mới về lại một lần.

-À thế ra là như vậy. Cảm ơn anh tôi hiểu. Anh Chủ quán cũng tử tế hỏi tiếp ?

-Nếu có cần gì nhắn lại, tôi nhắn hộ cho hay Cô viết vài chữ quăng vào cửa sổ, khi Cô giáo Lan về Cô ấy sẽ rõ là ai chứ gì.

-Có lý, ý tưởng hay.Thôi anh cảm phiền cho tôi mượn cây bút và xin một

mảnh giấy nhỏ, tôi sẽ biên vài chữ rồi nhét vào cửa sổ. Hy vọng Cô Lan tôi

nhận được.

 Tôi đứng dậy trả tiền ly nước và chào tạm biệt anh Chủ quán ra về. Chiếc xe cũ kỹ lăn bánh trên con đường sỏi đá nhấp nhô, từ Thủ thừa ra ngã ba lộ tẽ lúc trồi lên, lúc hạ thấp xuống làm tôi ê ẩm cả mình. Về thì về thật ra không còn chút nghị lực và khí thế như hồi lúc sáng sớm nữa. Mặt trời mỗi lúc càng lên cao, thời tiết dần dần oi bức, trong khó thở và hóc hách vô cùng. Nhưng tôi cũng cố gắng mãi đến ba giờ chiều mới về đến tận nhà. Vừa dựng chiếc xe đạp, bước vào nhà, ngã liền trên chiếc Divan một cái ịt cho đả cái lưng, bụng dạ lúc nầy vừa

mệt, vừa đói, thót cả hông, mồ hôi tuông chảy như xối tắm. Hơn một năm nay, kể từ ngày Đất nước hoàn toàn thống nhất, trường Nông Lâm Súc được giải thể để thành lập trường Bổ túc Công Nông của tỉnh, nên Cô và tôi phải tạm chia tay như bao thầy bạn khác. Mỗi người một nơi, ai về nhà nấy hoặc tìm một công việc khác cho mình. Nên từ đó Cô và tôi không còn gặp nhau thường xuyên như trước và cũng chẳng liên lạc với nhau.

  Về nhà suy nghĩ mãi, Cô ta đi công tác kiểu nầy biết bao giờ mới về và gặp.

Mà đợi thì đợi đến bao lâu, còn trở lên Thủ thừa lần nữa thì vô dụng. Cũng may, là hai hôm sau trong lúc tôi đang chờ mấy người bạn hiện đang làm việc tại Huyện Châu thành và Thị trấn Tân hiệp cắt hộ mấy giấy tờ cần thiết để kịp bổ túc Hồ sơ đi học cho hoàn chỉnh, thì Cô ta lại lò mò tới, thật là buồn ngủ gặp chiếu manh, một dịp may hiếm có.

  Gặp lại nhau sau những ngày xa vắng. Hai tôi mừng vui vô siết. Tay bắt, mặt mừng thăm hỏi đủ điều. Cô bảo tôi thôi khỏi dài dòng, vào thay bộ đồ cho lịch

sự rồi cả hai đèo nhau trên chiếc Hon-da đi Mỹ tho xuống tận trường Thủy lợi.

 Nơi đây là chốn cũ, tình xưa mà Cô và tôi đã dạy, đã học, hơn hai năm trời, biết bao nhiêu là kỷ niệm. Riêng tôi cũng không ngờ mình trở lại mái trường nầy lần thứ hai, rõ là duyên tiền định. Tới trường hai tôi đứng trước cổng nhìn một hồi lâu rồi kéo nhau vào quán nước Mía chị ba Tranh ngày xưa gọi hai ly nước Mía như thuở trước. Cô mang theo một phong bánh in mời tôi ăn. Vừa ăn, vừa uống nước Mía, vừa nhìn xung quanh cảnh cũ hai tôi thật thú vị vô cùng. Tôi bắt đầu tâm sự hết những gì đã có và kể hết cho Cô tôi nghe đầu đuôi câu chuyện. Cô lắng nghe và suy nghĩ một hồi lâu rồi bảo.

-Hoa nầy, rằng Cô là một Nhà giáo, tất nhiên Cô cũng muốn em sẽ trở thành

Nhà giáo để sau nầy giảng dạy lại cho thế hệ mai sau. Xong câu nói Cô lại ngưng và nhìn đi nơi khác.

-Tôi vừa nghe Cô nói xong câu ấy, vội vui mừng. Như thế là hợp lý với gia đình

quá đi chứ. Vậy là khỏi phải băn khoăn suy nghĩ vì nữa cả. Mừng thầm trong

bụng và trả lời một cách vui vẻ. Thưa Cô. Em cũng nghĩ thế.

- Cô im lặng một lúc lâu, rồi nói tiếp. Nhưng ! Cô khuyên em đừng nên theo

nghề Nhà giáo.Sao vậy Cô ? Chính Cô vừa mới nói ra là Cô muốn em là Nhà giáo kia mà.

  - Không Cô suy nghĩ kỷ rồi, lời Cô nói ra là có cơ sở hẳn hoi. Còn việc quyết

định tương lai là việc của em. Cô không can dự, Cô chỉ có ý kiến ngoài ra không có quyền quyết định. Em hiểu chứ ? Nếu mai nầy việc học tập có truông chảy và đúng với sở thích của em thì tốt, còn không thì biết ăn nói thế nào đây.

-Như vậy ý Cô muốn nói là bỏ trường Sư phạm phải không?

-Không ! Không hẳn như vậy đâu em, đây chỉ mới là bàn bạc.

-Vậy Cô nói ra cơ sở nào mà em phải theo học ngành Thủy lợi?

-Theo Cô nghĩ Miền nam mình vừa được giải phóng, Đất nước đã thống nhất, hiện tại cái gì cũng mới. Cô nói sơ chắc em hiểu chứ ?

-Dạ.

-Chính ngành nghề nầy cũng mới, em có công nhận với Cô không ?

-Thưa Cô công nhận.

-Vậy tại sao em không thử, kỹ thuật mới, Danh từ mới, cái gì nghe cũng lạ cả.

Chính Cô cũng không hiểu rõ nơi mơi ngành nghề nầy nhà nước sẽ ứng dụng

vào lĩnh vực nào. Thử đi em……ngành Giáo dục có lúc cũng cao quí, có lúc

cũng bạc bẽo lắm em à.

-Những lời Cô nói nghe cũng chí lý, suông tai, hợp tình, cái gì mới tại sao ta

không thử, có thử mới biết được cái hay, cái đẹp, cái văn minh hiện đại, cái

xấu của nó còn đứng ngoài cuộc thì làm sao biết được. Thôi thì Cô để em suy

nghĩ lại.

-Em suy nghĩ kỷ lại đi Hoa, rồi hãy quyết định, hai con đường theo Cô con

đường nào cũng tốt cả, ở đây Cô nhắc lại em nên thử một lần xem sao.

-Cảm ơn Cô đã chỉ bảo.

     Hai tôi lời qua, tiếng lại một mẩu chuyện như vậy mà đã mất gần một giờ

đồng hồ. Trời ngoài sân bắt đầu hạ nắng, hai hàng Me cao dầy bóng dọc theo

quốc lộ Mỹ tho-Gò công dần dần loang bóng. Hai tôi đứng dậy thăm hỏi anh

chị ba Tranh vài câu, trả tiền nước Mía rồi lên xe đi tiếp. Bước ra khỏi cửa còn

đứng ngắm ngôi trường cũ ngày xưa một lần cuối, mới bắt đầu cho xe nổ máy.

  Đoạn đường vào thành phố Mỹ tho gần bốn cây số. Hai tôi vẫn lặng im

phăng phắc, không ai muốn nói một lời nào. Cô thì như hồi tưởng lại những kỷ

niệm ngày xưa, còn tôi cứ mang máng trong lòng câu nói lúc ngồi quán chị ba

Tranh.“Em hãy thử „ Cái gì cũng nên thử, có thử thì mới thấy cái hay , cái đẹp

của nó. Trong tôi hiện tại thấy cũng chí lý nhưng hơi mạo hiểm. Rồi tự hỏi ? Nên hay không nên. Bỗng chiếc xe thắng lại cái két, xe dừng ngay vườn Hoa

lạc hồng. Cô hỏi ?

-Hoa em còn nhớ đây không ?

-Nhớ chứ Cô. Mỹ tho chứ đâu mà không nhớ, Cô muốn làm gì ở đây?

-Thôi ta vào quán Chè năm xưa, mình ăn một người một chén chè Thưng

rồi về cũng chẳng muộn. Em có bận việc gì không ?

-Thưa không. Vào thì vào không biết họ còn bán nữa không ? Hay nghỉ từ lâu

rồi. Bây giờ mọc lên nhiều quán Chè lắm Cô ạ.

-Không sao, còn thì ăn, không còn đi quán khác, thiếu gì !

    Dừng xe trước ngõ, hai tôi đi từ từ vào thì thấy vẫn còn y, bà chủ quán bây

giờ thấy trẻ trung hơn bà chủ cũ của ba năm về trước, lịch sự và chỉnh tề hơn,

quán xá cũng khang trang, lịch thiệp, sạch sẽ hơn. Ngày trước vào đây thật lòng mà nói, Chè thì ngon thật, nhưng bàn ghế cũ quá cũng làm mất ngon. Chén Chè Thưng được bà Chủ tận tay mang ra đón chào người khách mới, mùi cốt Dừa, lá Dứa thật thơm phức, hai tôi vừa ăn, vừa nói chuyện thật là

ngon miệng. Cô bật hỏi?

-Em còn nhớ một chỗ hấp dẫn khác ngày trước mình hay đến ở đâu không nào ?

-Làm sao quên được, trước rạp hát Vĩnh lợi chớ đâu.

-Con nhỏ nầy nhớ day thật.

-Kỷ niệm mà cô, nhưng họ chỉ bán bắt đầu vào sáu giờ chiều cho đến giữa khuya mà thôi.

-Sau nầy em có thường đến đây không ?

-Dạ có, thỉnh thoảng đôi, ba lần.

-Thôi thời gian có hạn, rất tiếc. Khi nào có dịp về lại Mỹ tho mình đi ăn tối

một bữa để nhớ kỷ niệm của thuở nào.

   Những lời nói nầy tự nhiên gợi lại trong tôi hình ảnh cũ, ngày trước khi còn

đi học và dạy hai tôi mướn một căn nhà trọ ở gần chợ Cũ, dường như cách hai

ba đêm, là đi ăn hàng một lần. Nói ra thì thấy kỳ, Cô lớn thì không sao, còn

con gái, con gủm như tôi thì ống chề.

   Hai chén Chè vừa cạn, hai tôi ra xe chạy một vòng nhỏ ngang qua thành phố

Mỹ tho, rồi lướt nhanh đường Hùng vương rẽ trái lần theo đường Nguyễn

Trải một mạch trực chỉ về nhà. Dọc đường tôi chồm đầu ra phía trước thỏ thẻ

mấy câu.

-Cô à chắc em nạp Hồ sơ vào trường Thủy lợi, em nghe lời Cô. Sự việc nầy

không cần phải phân vân vì nữa, thời gian sắp hết rồi.

-Em nói vậy thì Cô mừng. Giữa khoảng đồng rộng mênh mông, gió thổi muôn

chiều, đập vào tai tiếng nghe được, tiếng không. Hai người ngồi cạnh bên nhau

mà như cách xa hàng bao cây số.

   Mấy chốc là Cô đã đưa tôi về đến nhà, tôi mời Cô vào dùng ly nước rồi về

cho khỏe vì đường còn quá xa.

Cô bảo:

-Gần trọn một ngày nay mình bên nhau, cũng tạm đủ rồi. Thôi em để Cô về,

khi khác Cô sẽ xuống trường thăm em. Cô chúc em luôn gặp nhiều may mắn

trong tương lai và thành công trong môi trường mới.

-Cảm ơn Cô, thôi Cô về khỏe, em cũng chúc Cô nhiều may mắn, mình

sẽ gặp nhau vào dịp khác.

   Đêm ấy tôi chờ mẹ tôi đi bổ hàng về, cơm nước xong xuôi, nhìn bà vui vẻ, tôi

bắt đầu thưa chuyện. Rằng hôm nay tôi đã gặp và đi cùng Cô Lan trọn ngày

và sẽ quyết định đi học ngành Thủy lợi. Ngoài ra không theo ngành Sư phạm

như mẹ muốn. Con xin lỗi mẹ. Bước đầu bà không chịu, có vẻ hờn giận tôi

nhiều. Thật tình mẹ tôi là một bà mẹ quê, cũng chẳng phân biệt được ngành

nghề như thế nào, hể nghe con mình nay mai làm Cô giáo thì thích, tự hào với

bà con, làng xóm đơn giản vậy thôi. Cuối cùng những lời phân tích của tôi đã

chinh phục được bà.

Bà nói:

   Thôi tất cả tùy con, con lớn rồi, mẹ lúc nào cũng muốn con được thành danh,

sung sướng như mọi người, chứ đời mẹ đâu được học nhiều, lớn lên mua gánh,

bán bưng vất vả trăm chiều, con thấy đó.

-Con hiểu.

     Sáng hôm sau tôi dậy sớm, đi tìm hai người bạn cũ là Hạnh và Ngọc để lo

giùm một số giấy tờ cần thiết. Hạnh thì lo về phần cắt Lương thực và Thương

nghiệp. Hạnh làm cơ quan Tòa án nhân dân Huyện Châu thành nên quen biết

rất nhiều vị Trưởng phòng, chính vì thế mọi giấy tờ tôi nhờ đến được giải quyết một cách nhanh chóng. Còn Ngọc là chánh thư ký văn phòng Chủ tịch UBND Thị trấn Tân hiệp nên việc cắt Hộ khẩu cũng không gặp khó khăn. Sỡ dĩ tôi nhờ hai cô bạn nầy là vì trước đó tôi nghĩ sai về anh Đức phó Chủ tịch UBND Thị trấn Tân hiệp đã có một lần thành kiến không tốt với tôi khi anh ra lệnh buộc tôi phải thi hành nghĩa vụ Lao động một tuần mà tôi không chấp hành mệnh lệnh với lý do lúc đó tôi đang là một Công nhân tại Nông trường Bộ tư lệnh Quân khu 9 đồn trú tại Đồng tâm tỉnh Tiền giang.

   Giờ ngồi kể lại câu chuyện nầy tôi phải thành thật cảm ơn và nhớ công ơn

hai cô bạn trên đã hết lòng giúp đở tôi trong tình hình khó khăn ấy. Hai bạn

đã giúp một cách nhiệt tình và nhanh chóng, chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ

là chúng tôi gặp nhau tại một quán Sinh tố gần Ủy ban Thị trấn. Hai bạn trao

giấy tờ cho tôi, chúc nhiều may mắn, thành công trong học tập rồi vào Công sở

làm việc tiếp tục.

   Cùng ngày tôi liền đón xe đò đi xuống trường để nạp Hồ sơ nhập học cho

hoàn tất. Cảnh người bây giờ sao đông thế, toàn là những gương mặt xa lạ. Họ đến từ mọi miền của Đất nước phải chăng ? Lớn tuổi có, trung trung có, trẻ trung có, tôi lúc ấy được xếp vào hàng trẻ trung.

    Ngày đầu vừa đến rất bỡ ngỡ, so với vài năm trước đây khi tôi còn mặc

chiếc áo màu nâu Nông Lâm Súc.Thật ra ngôi trường nầy chẳng có gì xa lạ với

tôi. Nhưng cách thức tổ chức, chỗ học, chỗ ăn, chốn ở hoàn toàn mới mẻ. Họ tổ

chức bề mặt tương đối khá chu đáo ví dụ: Có Toán, Đội hướng dẫn những

người từ xa đến, nơi nầy làm cái gì, nơi khác làm cái chi.v..v…trong rất trật tự

và nề nếp.

   Vào phòng Tổ chức nạp Hồ sơ, tôi gặp ngay ông Trưởng phòng Tổ chức, ông

ta tên. Lê Đình Hường giọng nói trọ trẹ người trung, khó nghe và mấy chị người miền Bắc rặt. Thời gian sau tìm hiểu tôi mới biết ông Trưởng phòng Tổ chức là người Quãng nam, Kỹ sư Địa chất cùng ngành nghề với tôi sau nầy. Ông nhận Hồ sơ và bảo tôi phải có mặt tại Trường chậm nhất là ngày mai, để dễ dàng sắp xếp chỗ ăn, chỗ ở.

-Tôi trả lời Dạ và hỏi ? Hồ sơ của tôi đầy đủ chưa?

-Ông lật lật, gật đầu và bảo đầy đủ rồi, nếu có cần gì thêm tôi sẽ báo chị sau.

    Chào tạm biệt rồi ra về, vừa đi, vừa nhìn quanh thấy cũng vui và dường như

có cái gì là lạ. Tôi bỗng dưng chợt nghĩ đến câu nói của Cô Lan ngày hôm

trước.”Thử đi Hoa “ Và giật mình khi nghe ông Trưởng phòng Tổ chức bảo

tôi phải có mặt vào ngày mai. Cũng may, cho tôi là nhà tôi cách trường chỉ hai

chục cây số, phải tôi ở tận Miền trung hay cuối cùng Đất nước thì sự thể sẽ

không biết thế nào. Khi trong tay tôi hiện tại chỉ có tập Hồ sơ đi nạp mà thôi,

ngoài ra không mang theo bất cứ thứ gì hết.

   Chiều về đến nhà thì trời bắt đầu xàm xạm tối, lòng nửa vui, nửa buồn.Vui

là mọi công việc tương đối ổn thỏa hầu như hoàn tất, buồn là không biết mẹ

mình bà nói thế mà có thật vậy không ? Tin ở bà là chuyện đương nhiên,

nhưng sợ vì quá thương con mà nói thế. Cuối cùng nghĩ đi, nghĩ lại chuyện

cũng đã rồi thay đổi cũng chẳng được, cứ thế mà làm, còn phân vân mải chẳng

giải quyết được điều gì.

   Ngồi lom khom, quây quần xếp gọn ba bộ quần áo vào cái xách tay nhỏ và

mấy quyển sách cũ để sáng mai chuẩn bị lên đường cho kịp lúc. Tiếng tằng

hắng quen thường của mẹ tôi dội vang ngoài cửa, tôi vội chạy ra khuân giúp

vào nhà, chưa kịp vào nhà, mẹ tôi vừa đi, vừa hỏi ?

-Hôm Nay công việc con đến đâu rồi ?

-Tôi mừng rỡ, khi không nghe bà rầy la, đổi ý và nói.

-Dạ xong xuôi tất cả rồi mẹ ạ. Con đang chuẩn bị sơ sơ một ít hành trang cần

thiết để mai lên đường, xuống đó nếu có thiếu chút ít gì tuần sau con sẽ về bổ

xung thêm. Bây giờ đâu biết cái gì cần, cái gì không.

-Thôi cũng được, mai mấy giờ con đi ?

-Khoảng bảy giờ sáng.

-Con chuẩn bị tiếp đi.

-Dạ.

   Hai mẹ con ngồi ăn buổi cơm chiều vui vẻ, người nói qua, kẻ nói lại tình cảm

tràn đầy, ăn cơm xong, mẹ tôi lấy cho ba chục đồng làm lộ phí và tiêu xài

trong những ngày đầu.

 

 

Thủy Điền

 

 

125-Quán Nhỏ Bên Lề

 

           Vừa đến Đảo vào buổi chiều, nhân viên sắp xếp chỗ ăn, chỗ ở xong xuôi. Sáng ngày hôm sau hai vợ chồng ghé vào quán cóc vệ đường gọi hai tô Mì nóng ăn, Vì cả tháng nay kể từ ngày đi vượt biên toàn ăn đồ vớ vẩn. Vừa ăn, vừa hít hà khen ngon định gọi thêm tô nữa. Chưa kịp gọi thì ông Chủ quán xề lại hỏi han đủ thứ chuyện trên đời và gạn sang cái quán ông đanh hành nghề, nên mất hứng.

    Tám giờ sáng một ngày tháng tám năm 1980. Bảy chiếc thuyền Bầu chở gần ba trăm thuyền nhân thuộc tàu Cap Anamur của Đức từ Singapore chuyển sang Đảo Poulo Galang Indonesia tạm cư. Vì hiện tại trại tỵ nạn Singapore không còn chỗ trống. Những chiếc thuyền Bầu len lỏi theo những con Sông và Rạch nhỏ suốt sáu tiếng đồng hồ từ Singapore-Indonesia. Trên quãng đường đi ai ai cũng rất vui thú, vì lần đầu tiên được ngắm nhìn toàn những thắng cảnh thiên nhiên, mà từ nhỏ đến giờ chưa một lần thấy nó. Chiếc thuyền cứ tành tạch với vận tốc vừa phải, thế mà mấy chốc đã đến nơi.

    Đúng mười bốn giờ trưa cùng ngày, nắng ngoài trời chói chang, cũng là lúc con thuyền vừa cập bến. Như có sự báo trước, trên bờ có hành trăm người đứng chờ sẵn, xem trong những chiếc thuyền nầy có ai là thân nhân của mình không. Thật như lời dự đoán, người khác thì không biết, nhưng riêng vợ chồng chúng tôi có hai cô cháu vợ ra đón. Vì hai cô nầy đã đi trước chúng tôi hơn sáu tháng và hiện còn nằm trên Đảo chờ ngày đi định cư sang Pháp theo diện đoàn tụ gia đình. Cuộc hội ngộ không hẹn mà đến, ba Dì cháu ôm nhau khóc ùa như cách xa nhau hàng mấy chục năm có lẽ. Vừa mừng, vừa nghe Loa Cao ủy phải trật tự, điểm danh mất khoảng một giờ . Bỗng dưng cơn mưa rào từ đâu đổ ầm xuống như chào đón. Ai cũng bảo đây là điềm hên, rồi mọi người hè nhau chạy nhanh vào căn nhà không vách gần bên để trú mưa.

   Sau cơn mưa, tất cả trở lại bình thường và trình tự được xe Cao ủy chở vể khu nhà ở. Và chúng tôi được đưa đến Barak 182 trên ngọn đồi xa tít. Từ ngọn đồi nầy muốn xuống tới khu chợ phải mất gần nửa tiếng đồng hồ, đường đi rất cong queo và vất vả. Hơn nữa thời gian ấy lại là mùa mưa như ở Việt nam nên đường đồi rất là trơn trợt. Trong Barak người ta đã chuẩn bị sẵn sàng đâu những ngày trước gần hai trăm cái giường san sát nhau và chia đều cho mỗi hộ. Chúng tôi ổn định xong trong chiều đó và ngủ một giấc rất ngon lành cho đến sáng, vì cả ngày nay đi đường quá mệt mỏi.

   Trong lúc ngủ tôi nghe dăng dẳng bên tai tiếng một phụ nữ nói liên tục, không ngớt miệng. Nào Úc, nào Mỹ, nào Canada. Tôi bực bội muốn đứng dậy bảo sao không nói nào Việt nam. Nhưng thôi, có lẽ vì họ đang mơ mộng quá. Và thầm nghĩ, cuộc hành trình gian khó đã đến đây là may mắn lắm rồi. Tương lai, ngày mai từ từ sẽ rõ.

   Sáng hôm sau hai vợ chồng bàng nhau, thôi mình đi tìm cái ăn cho đả thèm. Đi qua, đi lại chúng tôi nhìn thấy một cái quán cóc ghi mấy hàng chữ „ Tại đây có bán Mì ăn liền nấu sẵn„ Nên ghé vào và gọi hai tô Mì. Ông Chủ quán nấu xong, bưng ra tiếp khách rất tử tế. Vừa ăn, vừa khen ngon vô tình để lộ sự thèm khát nên ông đoán chắc là chúng tôi những người vừa mới đến. Ăn xong, chúng tôi định gọi thêm hai tô nữa ăn cho đả miệng, thì ông xách cái ghế khác xề đến gần bên hỏi han? Chúng tôi chẳng có gì giấu giếm và trả lời một cách chân thật. Ông hỏi?

   Hai anh chị có muốn sang quán chúng tôi Không? Tôi trả lời, mới đến chân ướt, chân ráo mà biết gì sang quán, hơn nữa đâu biết mình ở đây bao lâu mà sang. Mà dẫu muốn sang lấy tiền đâu mà sang bây giờ. Ông bảo chỉ có một Chỉ vàng thôi, còn thời gian ở thì chắc lâu lắm. Tôi hỏi? Ông ở đây lâu chưa. Ông Ta bảo, hơn một năm rồi. Tôi ngồi trầm ngâm một hồi và suy nghĩ, có lẽ mình cũng như thế. Cuối cùng mọi chuyện chẳng đâu vào đâu, chúng tôi ăn xong, trả tiền rồi từ giã ra về.

   Ở Đảo gần hai tuần, ăn rồi ngủ, ngủ rồi ăn cảnh an nhàn bắt đầu sanh chán.Tôi nói vợ tôi ở nhà còn tôi đi tìm việc gì làm vừa kiếm tiền, vừa thoải mái tinh thần. Tôi đi vòng quanh hỏi ra thì người ta có mướn làm công tại trại Galang 2, công việc dọn dẹp những vật liệu xây dựng cho gọn gàng với mức lương 1500 Rupiah tiền Indo một ngày, hồi ấy tương đương với năm Đô la. Mừng quá, về bảo vợ là ngày mai anh đi làm, em chuẩn bị cho anh chút ít gì để mai đi.

   Sáng đến tụ điểm để xe chở vào nơi làm việc, tôi thấy người ta đông chật, họ cũng đi làm như tôi. Khi xe vừa thắng cái két, bao thiên hạ phóng ào ào lên, vì lịch sự tôi nhường và định lên sau. Ai ngờ ! Xe chỉ dừng một phút rồi chạy mất, thế thì đành xách gào mên cơm đem về.

   Về đến nhà vợ tôi hỏi? Sao anh lại về, người ta không nhận làm à. Tôi bảo nhẩy lên xe không kịp. Vợ tôi cười, nguy hiểm quá thôi ở nhà cho rồi. Tôi nói, đâu có đơn giản thế em, thua keo nầy ta gầy keo khác. Sáng hôm sau tôi nói vợ tôi nấu gào mên cơm khác và đi tiếp.

    Cũng ngay điểm hẹn, tôi đứng sát lề đường, xe vừa thắng cái két là tôi nhẩy nhanh lên ngay và từ từ những người khác cùng lên. Ngồi trên xe một quãng đường khá xa, lòng tôi miên man không biết chặn tới sẽ như thế nào. Đúng như dự tính, cuộc đối chọi kỳ hai bắt đầu. Những Ca trưởng không phải là người Indo mà là những thanh niên Việt nam ở lâu năm trên Đảo làm đầu gấu. Chúng điểm danh những người thân, quen chúng trước nếu còn thiếu chỗ hoặc nơi nào nặng nhọc thì  chúng mới giao cho mình. Trước khi ra hiện trường chúng tập hợp những thứ gì mang theo lại một chỗ và đi làm tay không, đến trưa giờ giải lao mới tụ lại ăn chung. Ngày đầu chúng đưa tôi đến nên sình lầy làm việc và khi trưa về thì gào mên cơm của tôi trống rổng. Tôi đành nhịn đói và nhìn chúng ăn một cách ngon lành.

    Chiều về đến nhà tôi mệt lã vì cả ngày không ăn, không uống. Vợ tôi hỏi? Ăn cơm có ngon không. Tôi nói, có ăn đâu mà ngon. Tôi bảo vợ tôi ngày mai làm thức ăn khô bỏ vào bọc mũ và một gào mên trống không mang theo.

    Cũng như mọi ngày, vừa xuống xe tôi quăng bịch đồ ăn vào gốc cây Chuối và nạp gào mên cơm vào đống thức ăn tập thể, khi trưa trên đường giải lao về tôi ghé lại gốc Chuối lấy bịch cơm cho vào túi áo và tìm nơi khác ngồi ăn. Ròng rã gần một tháng làm việc, người mới , người mới tiến vào và dần dần quen mặt, chúng cho tôi làm những công việc nhẹ và khô ráo hơn. Nơi đây tôi đã nhìn rõ những bộ mặt thật và giả, nhưng chẳng dám hé môi.

     Kiếm trong tay được ít tiền, nhìn cảnh đời hai mặt, ngày đi có lẽ cận kề, nên tôi quyết định nghỉ và ở nhà tìm công việc khác. Thú thật đến giờ nầy tôi không sao hiểu nổi sự tài tình của con người. Đảo Galang là một Đảo hoang, kể từ năm 1976 khi có làn sóng người đi đăng ký, bán đăng ký, vượt biên đến. Không biết họ làm cách nào mà mấy năm sau sự sinh hoạt y như một Thị trấn nhỏ không hơn, không kém. Thí dụ: Rạp chiếu bóng, tiệm Vàng, tiệm Vãi, tiệm May, tiệm Đồng hồ, chợ Cá tươi, Gà, Vịt, quán Cà-phê, Phòng trà, Hủ tiếu hay nói cách khác có đủ hết không thiếu món chi. Hay thật là hay.( Xin nói thêm một điều là trên Đảo Galang hồi ấy tất cả các Chủ quán, tiệm đều là của người Việt nam, chỉ riêng Giám đốc Bệnh viện và Trạm Cảnh sát bảo vệ là người Indo mà thôi).

     Một đêm tháng 10 năm 1980 chúng tôi đi xem phim Hồng kông „ Mãnh Long hóa giang „ Vào cửa mỗi người 150 Rupiah tiền Indo một vé, rạp hát được bao quanh bằng những tấm Tôn lộp nhà, không nóc. Nếu trời nắng thì xem được trọn phim, còn mưa xem như tiền tặng ông Chủ rạp. Không may, đêm tôi đi xem chiếu bóng bị mưa hai phần ba nên phải đành ra về. Vừa mất tiền, vừa lặn lội lên đồi về Barak mất gần nửa giờ đồng hồ thật là thê thảm.

     Mỗi người một số, không biết mình như thế nào sao cứ loanh quanh đi tìm cái vất vả, trong khi mọi người khác nằm nhà, hể đúng thứ ba là đi lãnh đồ Cao ủy về ăn, rồi ngủ có sướng hơn không?

     Thời gian rảnh rỗi, ngày nào cũng đi dạo ngang qua tiệm Mì, nếu ông Chủ không thấy thì thôi, còn thấy là gọi vào cho bằng được. Rồi cuối cùng cũng bị ông dụ và sang một cái quán với giá một Chỉ vàng. Khi sang quán xong, tu sửa lại chút đỉnh và bán tiếp. Quán bây giờ sinh động hơn xưa, nhờ có mấy đứa cháu vợ đến phụ giúp và ở luôn tại đó nên rất là vui. Kẻ ra người vào y như ở quê nhà, lắm lúc quên rằng mình đang đi tỵ nạn và đang sống nơi xứ người xa lạ.

    Ngày ông Chủ cũ lên đường đi định cư tại Hoa kỳ có đến từ giã gia đình tôi. Tình cờ trong lúc hàng vắng khách, ông thấy tôi ngồi làm thơ, ông xin đọc và tôi đã tặng ông bài thơ ấy.

 

Quán nhỏ bên lề (Bài thơ cũ)

 

Ông đi, tôi thế

Một Chỉ đi, về

Tôi đi, người kế

Cứ thế rủ rê

 

Quán nhỏ bên lề

Trải qua hàng Chủ

Người mới, người cũ

Thay nhau liên tục

 

Đến ngày chấm dứt

Không còn tỵ nạn

Quán trả cho làng

Chỉ vàng bay mất.

 

                                                      

    Tưởng rằng sẽ ở Đảo lâu hơn, nên mới sang cái quán bán cho vui trong những ngày tỵ nạn. Ai ngờ ! Vừa bán được gần một tháng thì Cao ủy gọi khám sức khỏe chờ ngày đi định cư. Nên tôi vội tìm cách sang cái quán cho người khác. Tôi không làm như ông Dược sỹ là gạn hỏi từng người, mà tôi treo một tấm Bảng thật lớn „ Cần sang quán gấp „ Rất may, đúng hai ngày sau có người đến hỏi mua. Tôi nói giá, họ ưng ngay không vòng vo, mặc cả gì hết.

    Ba tuần lễ sau khi khám sức khỏe xong, gia đình tôi và những người đồng hành thuộc tàu Cap Anamur 12 được vớt phải sang Thủ đô JAKARTA rồi đến toà Đại sứ Đức làm Hộ chiếu và đúng ngày 16 tháng 12 năm 1980 lúc 6 giờ 30 sáng là chúng tôi đã có măt tại phi trường Frankfurt cho đến hôm nay.

 

CHLB Đức tháng 11, năm 2015 (Kỷ niệm 35 năm xa quê)

 

Thủy Điền

 

 

 

 

124-Giỡn Mặt Với Tử Thần

 

  Cả tuần nay, ai gặp thằng Bình đi ngoài đường cũng đều hỏi ? Sao tự dưng gương mặt của mầy bị méo xẹo vậy Bình, thường thì nó trả lời rất lễ phép, nhưng từ ngày xảy ra sự việc đến nay nó trở thành đứa trẻ mất dạy. Ai hỏi thì hỏi mặc kệ, cứ cuối mặt lầm lì, không trả lời, trả vốn và bỏ đi một nước.

 

 Trước cổng chùa Phước Hải, phía bên trái có con kênh nhỏ, mọc quanh bờ kênh là một dãy cây Tràm lớn, nhỏ lẫn lộn. Dưới chân gốc Tràm lớn gần cổng chùa có một tổ ong Vò vẽ thật lớn, mỗi lần ai đi ngang qua đây cũng cấm đầu chạy lẹ vì sợ nó rượt theo đánh. Sợ thì sợ vậy, nhưng không chọc ghẹo nó, thì nó cũng chẳng làm gì mình, cứ vo ve nơi miệng tổ mà thôi.

 

  Tổ ong nầy là tụ điểm của những đứa trẻ trong xóm, sau khi ăn cơm chiều xong, hay tụ tập, rủ nhau đến đây phá một trận rồi mới về tắm rửa đi ngủ. Thường thì mỗi đứa ném vài cục đất ngay miệng tổ, động, chúng bay ra và đuỗi theo một đỗi khoảng mười , mười lăm mét rồi bỏ, quây trở lại tổ cũ. Khi chúng quây lại tổ cũ, thì bọn trẻ lại tiếp tục chọi đất, đá vào tổ như lúc ban đầu và chúng lại xuất quân đuỗi tiếp và cứ thế ngày nào cũng như ngày nấy, thét thành ghiền, chiều nào không lên chọc phá chúng một trận dường như ngày ấy những đứa trẻ đều bị bệnh và tối về ngủ không ngon giấc. Những lần chọc ghẹo nầy thỉnh thoảng cũng có một vài em bị đánh vào lưng và vai  xưng phù cả tuần lễ.

  

   Thằng Bình là một trong những thành viên chọc phá nầy, thường hàng ngày nó cũng ném vài ba cục đất, đá như những đứa trẻ khác. Sao không biết hôm nay nó mắc chứng gì lội xuống kênh, hai tay xắn cục bùn ập vào tổ ong, nó ngỡ làm như vậy tổ ong sẽ bị bịt miệng và chúng sẽ ngộp thở và chết hết hay nó có ý định lấy trọn ổ ong. Vừa ập bùn xong, nó leo từ từ lên bờ như không có chuyện gì. Ai ngờ ! Chúng tung ra tấn công đánh thằng Bình tới tấp, thằng Bình hoảng sợ bỏ chạy về nhà cách đó gần cả trăm mét, vừa chạy hai tay vò đầu lia lịa, nhưng chúng không tha và theo đến nhà, khi thằng Bình vào nhà, đóng cửa lại, thì đàn ong bắt đầu ra về. Trong lúc thằng Bình bị tấn công và bị đuỗi, những thằng bạn nó lẽ ra cũng bị vạ lây. Nhưng không biết sao chúng tha hết và chỉ tập trung vào đánh thằng Bình thật là ngộ nghĩnh.

 

   Sau khi bị ong đánh má nó xức dầu, cho uống thuốc, nó nằm liệt cả ngày trời cứ than « Nhức quá, nhức quá « Má nó thấy không thuyên giảm nên chở đi nhà thương, ra đó, người ta bảo chở đến trễ quá, nọc độc trong người nó khá nhiều vì bị ong chích rất nhiều chỗ, nằm nhà thương một tuần nó hết bị nhức, nhưng phải đành mang tật và gương mặt nó bây giờ bị méo qua một bên. Bác sĩ nói, nếu đem đến trễ một ngày nữa có lẽ nó khó sống. Sau khi nó bị ong đánh má nó nổi máu trong người định đập cho nó một trận, nhưng chuyện đã lỡ  dù có nóng bực như thế nào thì cũng vô ích, vì chuyện nầy bà đã biết trước rầy la, ngăn chận cả chục lần rồi mà nó và những thằng bạn nó không chịu nghe.

   Lúc thằng Bình bị xảy ra tai nạn, ông Trưởng ấp vẽ tấm bảng thật lớn cậm trước tổ ong hình sọ người và hai đốt xương tréo nhau y như nơi đây là vùng cấm địa không bằng và trước cổng chùa ngày nào đã từng nghe tiếng trẻ vang dội, cười đùa nay nó bỗng dưng vắng lặng, như người ta thường nói « Lạnh tanh như chùa bà Đanh » .

 

THỦY ĐIỀN

 

23-6-2016

123-Đêm Khuya Một Bóng

 

   Ba giờ sáng, ngoài trời sương bắt đầu trùm phủ, lạnh. Long mở cửa sau Restaurant đi bộ về nhà, đoạn đường khoảng hai cây số, phải qua bốn con đường nhỏ nằm dọc theo hai dãy phố trải dài, vừa đi, vừa lầm bầm, phải hồi nảy hắn bảo cầm bộ đồ nầy năm chục Euro có lẽ bây giờ mình trần truồng đi ngoài lộ là cái chắc.

 

   Long và Dũng là hai thằng theo cha mẹ đi đăng ký xuất ngoại hợp pháp hồi năm 1978, được chính phủ Đức nhận theo diện nhân đạo và sang Đức năm 1979, lúc ấy cả hai khoảng mười tuổi. Sau khi học hết năm lớp mười, lẽ ra phải học tiếp lên để lấy Tú tài và vào Đại học hoặc chuyển sang học nghề ba năm, đó là phương thức học ở Đức. Nhưng ngược lại hai anh chàng nầy không làm thế mà đều nhẩy vào nhà hàng Tàu làm việc. Hai thằng làm hai nhà hàng khác nhau cách đó hai cây số. Long thì làm nghề phụ bếp còn Dũng thì chạy bồi. Công việc thì không nặng nề lắm, nhưng có điều mất rất nhiều thời gian cho một ngày, riêng những thứ khác như chỗ ở, ăn uống cả hai chẳng phải mất đồng nào có chủ lo cả, mỗi tháng lương và tiền bo đều còn y. Cứ thế mà chúng kéo dài hơn chục năm nay. Ngoài giờ làm việc chúng chỉ biết điện thoại nhau, hẹn điểm đánh bạc hoặc đi đến những Casino mà thôi.

 

    Qua nhiều lần đánh bạc cả hai đều có lúc thắng, lúc thua, nhưng mỗi lần thắng Long thường hay có những thái độ làm cho địch thủ không mấy gì hài lòng lắm, mỗi lần một tí Dũng câm thù Long vô kể, chuyện thắng thua trong canh bạc là chuyện bình thường, nhưng đàng nầy còn bị chọc quê là điều làm cho Dũng tức giận hơn.

   Nhân dịp Giáng Sinh nhân viên nhà hàng được nghỉ trọn ngày hai mươi bốn, chúng rủ nhau bốn thằng gầy sòng, trận sát phạt gần ba tiếng đồng hồ, sắp sửa một giờ sáng thì hai ông tướng kia sạch túi ra về, chỉ còn lại giữa Long và Dũng, để trả thù mối hận lâu nay, Dũng bảo.

-Thôi còn tao với mầy, lỡ chơi thì chơi cho đến bến, sẵn dịp hôm nay mình nghỉ, về bây giờ cũng muộn rồi, sáng về luôn cũng được.

-Ý mầy muốn gì ?

-Tao và mầy binh xập xám.

-Chơi thì chơi, tao đâu có ngán mậy.

-Ok

   Vậy ta bắt đầu, Dũng nói.

-Ai thắng sẽ được chia bài tiếp.

-Ừ.

   Cuộc đấu đá cứ thắng rồi thua, cứ thua rồi thắng, dùng dằng gần một tiếng đồng hồ không ai thắng bại. Dũng nói tiếp.

-Thôi ta chuyển sang sạc bài cào ba lá cho lẹ, trời sắp sáng rồi, còn về chẳng lẽ ở đây mãi sau.

-Sạc thì sạc.

Bước sang bài cào ba lá, Long rơi vào tình cảnh bi đác, bài đen như mực, hể Dũng bảy nút thì Long sáu nút, hể Dũng năm nút thì Long chỉ ba hoặc hai nút mà thôi, cứ thế kéo dài- kéo dài, Long thua sạch cả tiền mặt. Lẽ ra khi thua sạch tiền mặt thì tự động đứng dậy, phủi đít đi về, nhưng Dũng tỏ ra mình là người cao thượng.

-Tao cho mầy cơ hội gở

-Bằng cách nào ?

-Thì mầy có cái gì cầm tao, tao đưa tiền mầy chơi tiếp, thế thôi.

-Tao còn sợ dây chuyền.

-Bao nhiêu ?

-Năm trăm Euro

-OK

   Vừa bỏ năm trăm ra, chia bài, Dũng lật ba lá lên bốn nút, còn Long nặn từ từ, hy vọng năm hoặc bảy thì thắng ngay. Ai ngời nặn cho đả đời bài chỉ có ba nút. Chàng xanh cả mặt mày, mồ hôi bắt đầu tuôn chảy, tay chân run rẩy, mất tinh thần, Long xem như đây là ván bài cuối chàng chuẩn bị đứng dậy ra về. Dũng nói tiếp.

-Khoan, đừng vội, mầy còn cơ hội gở nữa Long, nếu mầy muốn và đây là cơ hội cuối cùng.

-Tao đâu còn gì để cầm.

-Chiếc xe hơi của mầy.

  Long suy nghĩ vài ba phút, rồi trả lời.

-OK, bao nhiêu ?

-Hai ngàn rưởi Euro, vì xe của mầy cũng cũ rồi.

-Được, tao đưa giấy xe tao cho mầy đây.

-Và, chúng ta chỉ sạc một lần hai ngàn rưởi Euro luôn, khỏi lòng vòng.

   Cũng như lần trước, Dũng lật ba lá bài lên trước và chỉ có một nút mà thôi, Dũng làm tỉnh, nhưng trong dạ rất run. Có thể tình huống sẽ bị ngược lại. Nhưng may quá, không ngờ ! Con bài của Long hôm nay đã đen lại càng đen hơn khi nặn ba lá bài ra  chỉ có hai con Đầm và một lá mười rô (Bù trất) Dũng mừng quá và nhẩy lên khinh ngạo, thế là ta đã trả được mối thù rồi.

  Sau ván bài, Long đứng dậy không một lời từ giã, gương mặt hầm hừ mở cửa sau, bước ra, đóng cái rầm và âm thầm đi dọc theo đường phố giữa đêm khuya sương lạnh để trở về căn gác cách đó gần hai cây số.

 

Thủy Điền

03.7.2016

 

 

 

 

122-Bà Hai Tàu Hũ

 

   Gần một năm nay, chiều nào bà hai Tàu hũ cũng ra mé sông tựa cây dừa nhìn ra sông Tiền giang nơi bà từng đưa Taxi cho bao người ra tàu lớn để đi vượt biên, rồi chắc lưỡi và  thì thầm « Thật, mỗi người đều có số mạng « 

  

   Bà hai Tàu hũ là người sanh để và lớn lên ở Vĩnh Kim thuộc huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang ngày nay, chồng đi lính chết, chuyên sống bằng nghề bán tàu hũ dạo, nên người dân ở đây đặt cho bà cái tên là bà hai Tàu hũ. Năm 1980 đang ngồi bán tàu hũ tại nhà lồng chợ Vĩnh Kim tình cờ có hai người lạ mặt đến ăn Tàu hũ, nói ba điều, bốn chuyện xong, trả tiền rồi bỏ đi như những người khách quen thuộc khác. Vài hôm sau cũng khoảng ba giờ chiều họ quây lại và cũng ăn tàu hũ của bà, lần nầy họ hỏi xa hơn một tí, trả tiền, rồi đứng dậy đi mất biệt. Đúng một tuần sau họ trở lại nữa cũng ăn tàu hũ và ngồi lâu hơn, đồng thời đề cập ngay vấn đề là nhờ bà hoặc gia đình bà làm Taxi cho chuyến vượt biên của họ. Lúc đầu bà hai nghe nói, giật mình, sợ hãi, bối rối không dám nhận lời ngay và hứa sẽ trả lời vào dịp khác. Vì nhu cầu cấp bách họ dục dã bà phải trả lời trong vòng ba ngày còn không thì thôi và họ nhờ người khác. Bà nghe đến số tiền họ muốn trả cũng động lòng tham rồi dạ..dạ ba ngày nữa tới đây tôi sẽ trả lời.

  

   Về nhà bà bàn với hai cậu con trai của bà, chúng bảo má cứ nhận đi, mình chỉ làm một đêm mà nhận khối tiền còn hơn mua gánh bán bưng kiểu nầy hai ba năm chưa chắc được số tiền ấy. Bà hai nửa sợ, nửa tham cứ ừ ừ rồi lại thôi và cuối cùng đi đến nhận lời. Vì nhà bà ở cạnh bờ sông, mọi phương tiện thuyền bè bà đều có sẵn.

  

   Đúng ba ngày sau họ đến như đã hẹn và chuyển sang nơi khác trò chuyện. Họ nói rõ vấn đế và trả tiền cho bà hai trước, nếu có thiếu hay không hài lòng họ sẽ trả thêm.

  

   Nhiệm vụ của bà hai rất đơn giản, tổ chức tiệc, đón khách ở bến xe Vĩnh Kim, đưa về nhà cho ăn uống, lo chỗ ở tạm, khuya đưa khách ra tàu lớn đang chạy lòng vòng ngoài sông Tiền Giang cách nhà bà chừng vài ba răm mét. Sẵn dịp bà cũng xin họ cho hai đứa con trai mình đi cùng và họ nhận lời mà khỏi tốn một đồng nào, trong khi những người khách khác phải đóng mỗi đầu người là ba cây vàng răn rắc. Lúc đầu bà định đưa hai đứa con mình ra trước cho chắc ăn, nhưng sợ lỡ bể ổ thì con mình bị bắt trước, nên bà dìm lại và đưa khách ra trước, nếu tình hình êm ả thì con bà sẽ ra chuyến cuối cùng. Đêm ấy, bắt đầu từ 23.00 giờ đêm theo lệnh họ chỉ cho khởi hành- đến gần 2.00 sáng bà đưa tất cả là ba chuyến hơn hai chục người ra tàu lớn một cách an toàn và quây lại làm nốt chuyến thứ tư gồm ba người khách và hai con trai của bà là coi như hoàn tất công việc.

  

    Không may, lúc bà trở vào bờ chở chuyến chót thì ngoài kia thuyền trưởng phát hiện tàu Công an tuần tra sông đang chớp đèn pha phía trước, nên hoãn sợ, nhỗ neo bỏ chạy trước và không thể chờ chuyến Taxi cuối cùng.

  

    Bà hai trong nầy đâu có biết chuyện gì, cứ khăng khăng theo đường cũ, thì ra, chiếc tàu lớn đã nổ máy chạy thoát thân mất rồi, chờ gần một tiếng ngoài sông, gió lạnh, trời càng lúc càng sáng, bao chuyến tàu qua lại nhìn bà và đoàn người với cặp mắt đa nghi, tò mò nên bà ngại và quyết định quây vào bờ trở lại. Ba người khách còn lại rất thất vọng, nhưng không dám to tiếng và sáng sớm đành vác túi xách về Sài-Gòn trong tức giận. Riêng hai đứa con trai bà đều đổ lỗi lên đầu mẹ. Và, bà chỉ còn biết cuối đầu mà khóc và thì thầm « Thật, mỗi người đều có số mạng cả « Tuy biết thế, nhưng cả năm trời nay, chiều nào bà cũng ra bờ sông, nhìn xa mà thầm tiếc một cơ hội trong cuộc đời.

 

THỦY ĐIỀN

17- 6 - 2016

 

 

 

 

121-Cây Trúc Xanh Miền Tây Nam Bộ

 


 

Thi Sỹ TRÚC THANH TÂM

 

Trị dân phải có nhân tâm

Giữ nước cũng cần nghĩa khí.

 

 

Để trân trọng và ngưỡng mộ Thi sỹ Trúc Thanh Tâm. Người đã có một chặng đường dài 60 năm cng hiến cho nền Văn Học Việt Nam nói chung ; Miền tây Nam bộ nói riêng.

   Với tư cách là một Chủ biên một tờ báo, đã từng cộng tác với Thi sỹ Trúc Thanh Tâm trong thời gian gần đây và là một Đọc giả nhiều năm trên mạng Internet. Đọc qua những bài thơ của Trúc Thanh Tâm tôi luôn luôn có những suy nghĩ riêng, mặc dù những suy nghĩ ấy có đối lập với một ai thì tôi không biết. Bởi, mỗi người đều có một ý nghĩ về một con người ở góc đkhác nhau.

-         Trúc Thanh Tâm là một con người chân thành, luôn tôn trọng tình bạn, sống thực, sòng phẳng, mạng dạng đấu tranh những bất công, chấp nhận những gì mình đã làm, trách nhiệm và nhìn thẳng vào sự thật. Và, đồng thời luôn coi trọng Tổ quốc, quê hương là đỉnh cao của cuộc sống như :

 

Anh đừng trách
Bởi tính tôi con người chân chất
Ăn thẳng nói ngay nên dễ mích lòng
Đất nước nghèo
Bởi có thù ngoài và luôn có giặc trong
Sao cứ chủ quan rồi lặng im phi lý
Chuyện chống ngoại xâm đến nay còn lý thú
Giờ nhìn mặt nhau và tự thấy thấm đòn.



Anh có nghe
Lòng dân đang thổn thức
Vì quê hương luôn trăn trở, tự hào
Lao động nghèo, trí thức thật được bao nhiêu
Rốt cuộc họ bị bào mòn suy nghĩ
Xã hội ta, còn hoài vị kỷ
Chưa thoát ra những bảo thủ, giả vờ
Cây cuộc đời trong ruột bị héo khô
Những hoa trái cứ thờ ơ vay mượn.


TRÚC THANH TÂM

 

-         Là một con người từng trải, đã đi dọc suốt chiều dài của đất nước, ngắm nhìn, nghe ngóng từng hơi thở của lòng người. Phân tích, nhận định từng khía cạnh thực, giả một cách khách quan giữa xã hội xưa và nay. Bằng chứng cho ta thấy qua bài thơ :

 

                                              Đời cho ta vay nhiều lắm

Tình yêu, danh lợi, khổ đau

Kiếp nầy, ta xin mắc nợ

Vốn, lời trả ở kiếp sau!

 

Mẹ, cha nuôi ta khôn lớn

Cắm sào mới biết sông sâu

Ta làm thơ tặng người lạ

Bao giờ tặng mẹ cha đâu!

 

 

Cám ơn đời còn sự thật

Cám ơn những con thiêu thân

Chúng ta đang điên hay tỉnh

Nói, làm trái với lương tâm!

 

                                                TRÚC THANH TÂM

 

-         Thi sỹ Trúc Thanh Tâm luôn ca ngợi quê hương Việt Nam bằng nhiều hình thức và màu sắc như đánh thức mọi người đâu là Nguồn cội, đâu là Quê cha đất tổ. Trúc Thanh Tâm cũng nêu lên tất cả những phong cảnh thiên nhiên, những di tích lịch sử mà ông cha ta đã bao đời gầy dựng là một kho tàng qgiá. Và, chúng ta là những thế hệ con cháu, đi sau cần cũng như phải làm gì cho càng ngày càng được tốt đẹp hơn.

 

Liên Trì chuông mãi đong đưa
Ta thăm Mũi Né, cát xưa xửa hồn
Poshanư, mắt huyền sương
Nhớ mùi bánh Rế, tình thương tình chờ!

 

TRÚC THANH TÂM

 

-         Trúc Thanh Tâm cũng luôn da diết với cuộc sống hiện tại và mai sau. Với tâm hồn Thi sỹ ước mong của Trúc Thanh Tâm là làm sao mọi người luôn luôn được no ấm và con cháu chúng ta được đi đến trường một cách hồn nhiên.

 

 

Em những sáng đưa con vào trường học
Đời con là đời anh của xa xưa
Nên cần học nhiều điều lễ nghĩa
Dù chung quanh cám dỗ, lọc lừa



Khi xã hội ngày càng thêm phức tạp
Không thể con mình dốt tiếng quê hương
Hiểu thấu đáo cội nguồn và tranh đấu
Khi đủ lớn khôn rời ghế nhà trường

 

TRÚC THANH TÂM

 

-         Trúc thanh tâm cũng không ngần ngại phản ảnh lại những thói hư, tật xấu, tiêu cực có chiều hướng làm băng hoại xã hội.

-          

   Đã từ lâu, những người tiêu dùng mà nhất là những bà nội trợ, thường kêu ca rất nhiều về cái cân, mà chủ yếu là sự sai lệch của nó. Sự sai lệch rất phổ biến, từ những quầy hàng tư nhân đến cả quốc doanh, hợp tác xã. 

 

TRÚC THANH TÂM

 

  Những ý nghĩ cùa một con người như Trúc Thanh Tâm thật ít ỏi trên cõi đời nầy. Trúc Thanh Tâm thật xứng danh với « Cây Trúc Xanh Miền Tây Nam Bộ « 

   Qua chặng đường 60 năm nhìn lại, qua những thành quả đạt được, qua những bài thơ ca ngợi tình yêu (Quê hương đất nước, nhân loại, gia đình, lứa đôi) Là những bài học khá bổ ích cho thế hệ mai sau.

   Với tình bạn thơ, văn, với lòng trân trọng tôi xin chúc mừng, chia vui cùng Thi sỹ Trúc Thanh Tâm và gia đình. Luôn chúc Thi sỹ được nhiều sức khỏe, đồng thời có thêm nhiều Tác phẩm mới, hay phục vụ cho Đọc giả trong và ngoài nước.

    Trân trọng

 

Thủy Điền

CHLB Đức

Ngày 15, tháng 6, năm 2016

 

 

 

120-Hai Lần Chết

 

    Giữa đêm khuya, bổng dưng nghe tiếng la ơi ới bên phòng mẹ. Quang mở cửa phòng chạy vào xem mẹ mình có chuyện gì mà nghe khủng khiếp thế. Quang hỏi ?

-Có gì mà mẹ la to thế ?

-Không có gì đâu con, về phòng ngủ đi, mẹ nằm mộng vậy mà.

 

    Quang lấy tay xoa lên vầng trán mẹ và lấy khăn lau cho bà vì vầng trán sau cơn mộng chảy ướt đầm đìa. Chàng hỏi ? Mà chuyện gì vừa xảy ra, mẹ kể cho con nghe nào, xem có giúp mẹ được gì không. Sao con thấy có vẻ khủng khiếp thế. Mẹ đã nói khuya rồi, con hãy về ngủ đi, mai mẹ sẽ kể hết cho con nghe.

-Dạ, thôi được, con về phòng đây.

 

    Về bên phòng Quang không sao ngủ được, cứ sợ mẹ mình đang bị ám ảnh việc gì rồi xảy ra những cơn mộng khác, ảnh hưởng đến tinh thần. Chàng cứ trăn trở cho đến sáng.

   Sáng dậy, hai mẹ con ngồi bên ly trà, vừa nhâm nhi, vừa kể cho Quang nghe hết cơn mộng đêm qua. Bà nói :

 

    Đêm qua mẹ thấy bà nội con về báo mộng. Rằng, cha con chưa chết Quang à, cha con còn sống và ở tận mút xa, bà bảo mẹ con mình hãy chuẩn bị mà đi đón cha về, mẹ mừng quá và ôm bà chầm chập và một lúc sau mẹ gặp lại cha con ngay một bến đò, mẹ nhào tới ôm cha, cha vang rộng vòng tay đón mẹ rồi đứng khóc sướt mướt như đứa trẻ lên năm. Khi con sang phòng mẹ mở cửa là lúc cha con biến mất và mẹ tỉnh dậy, nhưng mệt mỏi vô cùng.

  

    Cha Quang là một Sĩ quan trong QLVNCH cũ bị mất tích vào đầu xuân năm 1965 tại Bà Rịa- Vũng Tàu trong một đêm bị tấn công bất ngờ, Kể từ ngày đó mẹ Quang hay đến đơn vị hỏi xem có tin tức gì về ông ta không ? Thì đơn vị bảo rằng cha Quang đã chết. Dù biết vậy, nhưng mẹ Quang vẫn cứ nuôi hy vọng, bà luôn nghe ngóng đi xem bói hết ông thầy nầy, đến bà thầy nọ, thậm chí tìm đến những nơi rất xa. Ai ai cũng bảo là cha Quang đã chết lâu rồi, hãy về lập bàn thờ mà cúng vái. Nghe lời thầy bói cũng như những lời đơn vị báo nên về nhà bà lập bàn thờ, thờ ông.

  

    Cuối năm 1972, tự dưng giữa đêm khuya bà nằm mộng thấy bà mẹ chồng về mách. Rằng, chồng mình chưa chết, sáng thức dậy bà nửa tin, nửa ngờ vực vì chuyện nầy đã xảy ra ngần tám năm nay chứ đâu phải mới đây đâu. Rồi ngày tháng vì bận bịu công việc bà bỏ qua và quên dần đi.

  

    Thật chuyện đời cái gì cũng có thể xảy ra cả, câu chuyện khó tin, nhưng có thật. Ngày 18, tháng 3, năm 1973, giữa trưa nắng oi bức bà nhận được giấy báo của cơ quan quân đội báo về. Rằng, chồng bà đã được trao trả tù binh (*) và hiện đang ở tại trại an dưỡng Biên Hòa. Giấy báo ghi rõ tên họ và đơn vị phục vụ trước đây và gia đình hãy nhanh đến liên lạc với cơ quan hữu trách để làm thủ tục lãnh người thân về.

  

   Cầm tờ giấy báo trong tay, bà như chết đi, sống lại rung rẩy cà người, lính quýnh chẳng phải biết toan tính thế nào. Bao người xung quanh thấy vậy nên động viên, chúc mừng và tìm mọi cách giúp đỡ bà trong cơn khủng hoảng nầy.

  

   Sau ngày đó mọi người mướn xe đi Biên Hòa theo địa chỉ đã ghi rõ trong thư. Quả thật, khi đến nơi bà liền nhận ra ông ngay. Sự hội ngộ sau tám năm xa cách, chỉ biết ôm nhau, dâng tràn nước mắt mà chẳng nói thành lời. Nhưng ông giờ già quá và gầy yếu hơn xưa rất nhiều, thậm chí hai chân bị liệt và phải ngồi xa lăn. Bao nhiêu người thân đi theo cùng, mừng quá chỉ biết khóc, cứ khóc, không dừng nỗi những dòng lệ xúc động.

 

    Khi gặp nhau xong, người ta chưa cho về nhà ngay, mà phải ở lại ba tuần nữa để khám sức khỏe và nghỉ an dưỡng cho thật bình phục mới được xuất trại.

  

    Đúng ba tuần sau như quy định, bà và gia đình cùng nhau lên đón ông về, khi đến thì thấy ông tươi tỉnh hơn trước nhiều , ai ai cũng mừng ra mặt. Về đến nhà gặp lại vợ con, người thân ông vui hẳn ra, thí điều muốn đứng dậy khỏi xe lăn mà đi dăm bước để nhìn lại cảnh cũ sau bao ngày xa cách. Cơn vui chưa tàn, nỗi buồn chưa vơi, ngày hội tụ chưa  hoàn toàn, không rõ vì mừng quá xúc động hay sức khỏe không tốt, ông trở bệnh lại và qua đời sau đúng một tháng trở lại quê nhà, gặp lại vợ con và người thân thuộc.

   Khi đám tang ông xong. Lẽ ra, bà phải buồn nhiều, nhưng ngược lại bà vẫn bình thản. Bà con họ hàng ai cũng lấy làm nuối tiếc. Nếu có ai hỏi ? Bà bảo bà đã thỏa nguyện lắm rồi, khi bà và các con đã được gần và nhìn ông lần cuối.

   Cái bàn thờ kia, sau tám năm vừa mới được dọn xuống và bây giờ lại bắt đầu dọn lên ngay chỗ cũ.

 

(*) Ngày trao trả tù binh tại Lộc Ninh 13, tháng 3, năm 1973

 

THỦY ĐIỀN

Ngày 07, tháng 6, năm 2016

 

 

 

119-Người Ăn Mày Tốt Bụng

 

   Trời tháng năm Thành phố Barcelona thuộc Tây Ban Nha bắt đầu oi bức. Buổi sáng hay có những cơn mưa nhỏ rồi tắt, sau đó nóng bừng lên, hầm hừ không chịu nổi cộng lớp người đông, chật tạo nên bầu không khí khó thở vô cùng. Giữa trưa trời đứng bóng nhà tôi bảo.

-Anh ơi, đói bụng quá, thôi mình tìm quán nào ăn tạm một miếng rồi đi tiếp.

-Ừ, thôi mình vào quán Snack Bar nầy ăn bánh mì thịt hay Pizza vừa nhanh, vừa tiện khỏi chờ đợi lâu.

-OK, thôi ta vào.

 

 Tiếng Tây Ban Nha thì không biết, nhìn mấy cái hình quảng cáo, chỉ chỏ và nói vài tiếng anh bập bẹ, cô bán hàng nửa hiểu, nửa không và đưa cho cái Karte bảo lại cái bàn hai người ngồi, cô ta sẽ lại hỏi ăn gì ngay. Nghe lời cô lại ngồi chờ, ngỡ cô lại liền. Ai ngờ ! Chờ hơn mười lăm phút chẳng thấy con ma nào đá động đến mình, không biết cô quên hay vì lý do nào đó mà đành bỏ bọn tôi đói ngoeo. Quê quá, hai vợ chồng đứng dậy đi ra, nhìn cô, mà chẳng thấy cô có thái độ gì cả.

 

  Ra khỏi quán đi thêm một đỗi khoảng một trăm mét, ra đường cái, chật nứt người, nơi lên xuống của bến xe điện ngầm, nhà tôi bảo.

-Mình vào ăn thử nhà hàng bán đồ biển xem sao, mang tiếng đi Tây Ban Nha mà không thưởng thức  được món đồ biển nào hết, thì thật là tệ.

-Vào thì vào.

 

 Nhìn trên quầy bán, thấy họ trưng bày các kiểu, vừa đói bụng, vừa thèm nên vội gọi món nầy, món nọ định ăn cho đả miệng rồi đi tiếp. Trời ơi ! Đĩa quảng cáo thì để ba bốn con tôm, cua , mực, cá lòng tong chiên, mình tưởng là như vậy, nên đặt hàng. Đến khi họ mang ra mỗi thứ có một con và để lên bàn cái ạch rồi đi chỗ khác ngay (Có nghĩa là ăn đi, chẳng một lời chúc dịu ngọt) Thú thật bao nhiêu đó không đủ nhét kẻ răng cho một người đang đói bụng chớ đừng nói cả hai và hỏi Tại sao ít thế ? Bác bồi trả lời gọn nhẹ, nếu y như đĩa quảng cáo bạn phải trả gấp ba lần. Bác bồi vừa nói xong tôi chợt nghĩ ra mình bị một lần nữa rồi. Thôi, lỡ đẳt hàng thì phải ăn và không thèm gọi thêm nữa.

 

 Ăn xong ra hàng ghế công viên trải dài định ngồi cho khỏe bụng rồi đi chơi tiếp, hết ghế nên phải đành ngồi gần người Ăn mày. Trong ông rất dơ dáy, râu ria dài tới bụng giữa trưa nắng mặc năm, bảỷ cái áo, nhìn ông mà mình thấy nực theo. Ông ta ngồi ăn cơm, buổi cơm của ông rất đơn giản, cơm màu tím như khoai mỡ ở xứ mình trộn mấy con tép con đựng trong bọc mũ, chẳng muỗng nĩa gì cả, cứ thọc tay vào, bóc ra là ăn ngay và ăn một cách rất ngon miệng. Tôi vừa nhìn lén, vừa móc điếu thuốc ra hút,  không may cái bật lửa của tôi hết ga, giữa công viên trải dài người ngồi thật là đông đúc, còn hai bên vệ đường toàn là nhà hàng, quán ăn chẳng thấy ở đâu bán bật lửa cả nên đành ngậm điếu thuốc cho đỡ ghiền, ông Ăn mày bên kia cũng vừa ăn, vừa nhìn lén lại tôi. Ông hiểu ra ngay anh chàng nầy thiếu lửa và dừng buổi ăn lại, đứng dậy sang đến chỗ tôi, lịch sự bật ngọn lửa cho tôi mồi điếu thuốc rồi cười duyên một cái và trở về chốn cũ ăn tiếp.

 

 Một lát sau, vừa ăn xong cứ ngồi nhìn tôi chăm chăm, chờ tôi hút hết điếu thuốc sẽ hút điếu khác và sang cho lần lửa thứ hai. Chờ hoài thấy tôi không hút nữa, nên đứng dậy sang chỗ tôi bỏ cái bật lửa ga lên ghế tôi ngồi, chẳng nói lời nào và vác cái túi xách đi nơi khác. Tôi hiểu ý ông ta là ở đây mua bật lửa rất khó và biết tôi sẽ hút nữa mà không có lửa, nên ông ta tặng tôi một cách khéo léo như thế. Thấy vậy, tôi bảo nhà tôi ngồi đợi và chạy theo ông ta nhét năm đồng gọi là có qua, có lại.

 

 Vừa đi dạo, vừa hút điếu thuốc, cầm cái bật lửa của người Ăn mày tôi thầm nghĩ, nếu không có nó mình nhịn một buổi về Hotel hút cũng chẳng sao. Nhưng một điều tại sao người Ăn mày rách nát thế kia lại tốt bụng trong lúc mình thiếu thốn và cần đến nó. Còn cách đây chừng vài chục phút những người giàu sang, lành mảnh từng là chủ quán mà lại đối xử với một người khách hàng từ phương xa đến một cách tệ bạc như vậy. Thật đời hai mặt như đồng tiền chì một bên là hình ông Ngô Đình Diệm, một bên là hình bó lúa không khác.

 

Thủy Điền

Ngày 05, tháng 6, năm 2016

 

 

 

118-Xóm Lục Bình

 

   Mỗi ngày có dịp đi ngang qua Đầm Lục bình, cũng đều nghe tiếng oi ói, người nầy, mắng người kia. Bởi, giành giật mấy cọng Lục bình to, nhỏ. Trông, rát tai và xấu hổ vô cùng.

  

   Giữa đoạn sông Hậu, phía tay phải có con sông rẽ khá lớn, chiều ngang gần năm chục mét nối liền giữa Sóc Trăng đến ngã ba Đại Ngãi khoảng ba chục cây số. Đoạn cuối của con sông nầy có hai cái Đầm rất lớn như hai cái lỗ tai. Mỗi khi nước lớn, những đám Lục bình nhỏ, to từ thượng nguồn kéo về và chạm phải dòng nước lợ của biển Đại Ngãi tràn vào, những đám Lục bình ấy bị tạc sang hai phía Đầm rồi lâu ngày trở thành một rừng Lục bình hoang vĩ đại.

 

   Trước ngày giải phóng, chẳng ai thèm động đậy đến nó và xem như một Đầm hoang. Sau ngày giải phóng khoảng hai mươi năm về trước cũng vậy. Nhưng kể từ năm 2000 bắt đầu có phong trào « Thủ công nghệ » Như đan giõ, làm nón, và những phần bao của chậu hoa v.v.. bằng thân Lục bình phơi khô để xuất khẩu. Công việc nầy đã giúp biết bao người không có công ăn việc làm, nghèo khó, trở lại cuộc sống bình thường và khấm khá hơn. Vì, không phải bỏ vốn, chỉ bơi xuồng nhặt của thiên nhiên về phơi khô, bán ra tiền, rất là đơn giản. Bước đầu ít ai làm, nhưng mãi đến năm 2003 người ta bắt đầu ùng ùng sắm xuồng đi kinh doanh, lớp người tự vớt ngoài sông, lớp người thu mua tại chỗ với giá rẻ và về bỏ mối lại cho Công ty. Người ta thường nói « Núi ăn thét cũng mòn » Và, số Lục bình gần nơi những người hành nghề nầy cũng cạn dần và dường như hết sạch. Vì nhu cầu sản xuất quá lớn nên họ phải thân chinh, lặn lội đi vùng khác. Và, cuối cùng có vài ba hộ phát hiện ra Đầm Lục bình ở cuối dòng sông cạnh bờ biển Đại Ngãi.

 

   Lúc đầu có vài ba hộ, ăn nên, làm ra ngày nào cũng vớt đầy ghe và bán được rất nhiều tiền, mọi chuyện đều êm ấm. Rồi dần hồi lời ra, tiếng vào thiên hạ ùng ùng kéo nhau đến. Nghe đâu họ từ huyện Rạch sõi tỉnh Rạch giá kéo về. Và, từ đó họ bắt đầu phân vùng, cấm cột và làm những cái chòi nhỏ để ở và canh chừng người vớt lén. Chỉ đúng một năm thôi, không biết ở đâu ? Họ kéo đến quá trời, quá đất. Ngoài người Rạch Sõi còn có cả dân tứ xứ nữa. Kể từ đó họ cất những nhà sàng trên Đầm để ở luôn, hể bụi Lục bình nào về đến là họ vớt ngay. Chính từ chỗ ấy mà sanh ra sự giành giật, mắng xé với nhau thật là thô bạo. Mỗi khi có ai đi ngang trên đường, đứng nhìn vào lúc chiều xuống, nước dâng, Lục bình từ xa kéo về, nơi đây xôn xao như một cái chợ không hơn, không kém và trộn lẫn những tiếng chưởi thề thật là khủng khiếp, như ta thường gặp hàng ngày ngoài xã hội.

 

   Cuộc sống êm ả không chịu, tiếng tai dần lan đến Chính quyền qua những vụ xô xác lẫn nhau. Từ Đầm Lục bình hoang vắng, tự dưng trở thành khu Kinh tế trọng điểm, nhà nước bắt đăng ký tất cả, đóng thuế má theo số lượng vớt được, ai chịu, thì họ mới cho hành nghề, còn không thì bị đuổi về quê tức khắc.

 

  Qua thời gian thử thách, có những người không kham nổi, vì thấy không có lời, đành bỏ về quê trở lại, còn những người có tiền thì bỏ ra thầu từ khu vực. Ngỡ đâu của trời, không vốn, công ăn việc làm được ổn định, khấm khá, giàu to. Không ngờ ! Đến giữa 2010 Công ty xuất nhập khẩu bị dẹp tiệm, bởi, hàng xuất khẩu không còn đối tác chiếu cố nữa, nên những nhà thầu nơi đây cũng lụi dần theo và các chủ thầu phải đành tháo gỡ những vật vụng cần thiết về quê một cách trình tự.

 

   Đầm Lục bình ngày xưa hoang vắng, sau hơn mười năm ì đùng như cái chợ, đã chính thức được trả lại sự hoang vắng bình thường.

   Và, những đám Lục bình mới cứ nối tiếp nhau, chất chồng, mọc thành đống tiếp tục như xưa, xanh tươi, vui cười trong nắng mới.

 

Thủy Điền

Ngày 03, tháng 5, năm 2016

 

 

  

117-Tháng Ba Bà Già Đi Biển

 

Đây là câu chuyện có thật của anh Lê Văn Đức ở Hoà Lan kể trong tiệc nhậu ngày 15, tháng 4, năm 2016 về gia đình anh, vì thấy tôi viết văn, làm thơ nên anh cho phép tôi viết lại câu chuyện nầy, nếu có dịp đăng lên báo mạng cho bà con đọc chơi.

 

 

   Trên đường đi chợ về, bỗng dưng cô Nga làm việc trong ban Bưu điện xã gọi.

-Bác hai vô đây, nhận thư của anh Dương ở Hoà Lan gởi về nè.

-Ừ, nó gởi về hồi nào vậy bây ?

Dạ, cũng cả tuần rồi, mà không thấy bác đi ngang, nên không có đưa cho bác được. Thú thật ngày ấy khi có thư ngoại quốc gởi về, người phát thư gặp thì mới trao lại, ngoài ra chẳng ai ở không mà mang đến tận nhà cho mình. Sự việc nầy có hai mục đích rõ rệt.

1-      Là khi trao thư tận tay, không ít hay nhiều người phát thư cũng có ly Cà-phê sáng.

2-      Là xã không có nhân viên đi phát thư.

-Cám ơn cháu và móc túi thưởng cho cô ta ba đồng.

  

   Về đến nhà, bỏ giỏ đệm đồ ăn xuống, xé thư ra, ngồi đọc. Trời đất ơi! Mầy điên rồi hả Dương ? Chỉ nằm chiêm bao thôi, mà mầy bắt tao ra tận ngoài bắc lấy cốt ba mầy về. Con điên thật rồi con ơi, từ Vĩnh Long ra đó, con tưởng như mẹ đi chợ Long Hồ mua cá, mua rau, rồi còn giấy tờ đủ thứ nữa, tiền nông, gạo nước dọc đường, hơn nữa biết ổng ở đâu mà tìm. Tay chóng lưng, đứng dậy, buồn bã, đem bức thư để sau lưng bức hình ông Nội trên bàn thờ.

  

   Sau giải phóng một năm, kể từ ngày ông Lang, ba Dương đi học cải tạo ngoài bắc, Dương vừa lập gia đình và chín anh em đều sống với mẹ tại huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long . Long Hồ là quê của bà, còn trước ngày giải phóng thì ở quận nhất Sài- gòn. Và, từ đó gia đình Dương bắt đầu lâm vào cảnh nghèo nàn, vất vả, thốn thiếu mọi bề, bởi, không có ruộng đất canh tác, thất nghiệp dài dài như bao gia đình khác. Vì nghèo quá Dương tính nước cùng, là đi vượt biên. Nếu may thì sống ngon lành, còn không may thì chết, còn hơn ở nhà kiểu nầy cũng chết và chết lần, chết mòn. Nhưng muốn đi vượt biên là phải có tiền, đàng nầy Dương chẳng có một xu nào cả (Câu hỏi ? Được đặc ra liệu phải làm thế nào) Cũng may, ba vợ Dương cho Dương một chiếc xuồng chạy bằng máy đuôi tôm. Dương định dùng nó để đi vượt biên, về nhà Dương rủ chín anh em đi cùng, nhưng tất cả đều từ chối và cho rằng, đi kiểu nầy khi ra khỏi biển chừng năm trăm mét là toi mạng ngay. Tuy mọi người nói đúng, nhưng Dương nhất quyết một lòng ra đi và cuối cùng cũng rủ ren thêm được mười người bạn khác cộng vợ chồng Dương và đứa con nhỏ năm tháng, tất cả là mười ba người. Sỡ dỉ Dương rủ được số người nầy là gì Dương nói dối với họ là xuồng của Dương đi chỉ là Taxi, sẽ đưa ra gặp tàu lớn đậu ngoài khơi, nên họ mới dám đi, còn nói thật như anh em trong nhà lúc trước thì cũng chẳng có con ma nào can đảm theo cùng.

  

   Năm ấy tháng ba, trời yên, biển lặng, người đi biển thường gọi « Tháng ba bà già đi biển « Hàm ý nói thời tiết rất tốt. Giữa khuya, Dương cho khởi hành, đến mười giờ sáng hôm sau thì phát hiện được một giàn khoan dầu xa xa đang có lửa bốc lên. Dương mừng quá và cả số người trong chiếc xuồng cũng mừng, hò theo, mặt nước biển lúc bấy giờ rất êm ả và phẳng lặng, như ta đang đi trên sông không hơn, không kém. Ngỡ chừng một giờ nữa là sẽ đến đó nhờ họ cứu giúp. Nhưng không! Thấy thế mà đến ba giờ chiều mới đến nơi, ai cũng bảo, sao mà xa thật. Khi đến nơi, họ cứu giúp, cho ăn uống rất tử tế rồi chuyển sang chiếc tàu lớn mà họ dùng để ra vào đất liền, nghỉ một ngày. Hên quá, khi vừa lên tàu lớn, ba tiếng sau, thì bão ập đến, nhưng đối với một tàu lớn thì không sao, phải chi còn đang đi dưới xuồng một đoạn nữa. Có lẽ, tất cả đã dâng cho cá mập hết rồi. Sau một ngày nghỉ dưởng, họ chở mọi người thẳng vào trại tỵ nạn Malaysia và cho nhập trại.

  

   Ở trại được một năm rưởi, gia đình Dương được chính phủ Hòa Lan đón nhận trên tinh thần nhân đạo và đưa sang Hoà Lan sống cho đến ngày nay. Khi sang Hoà Lan họ cho học tiếng người một năm và Dương xin vào được hãng chế tạo Lò sưởi ấm. Thời gian làm việc được một năm, Bỗng dưng một đêm, Dương nằm chiêm bao thấy ba mình về báo mộng. Rằng « Ba đã phù hộ cho vợ chồng con đi vượt biên đến nơi, đến chốn và ba báo cho con rõ, ba đã ở tù tại trại Hoàng Liên Sơn- Yên Bái, trại K7- Z21, nhưng đã chết lâu rồi, con hãy nói lại với mẹ con ra đó lấy xác ba về, ba nằm nơi xứ lạ quê người cô đơn lắm » Rồi Dương giật mình thức giấc, mồ hôi ướt đẩm trên vầng trán. Đêm ấy, Dương không ngủ được nữa và kể lại cho vợ mình nghe tất cả. Ngỡ bà cùng chung ý nghĩ. Ai ngờ ! Bà bảo, ông vớ vẩn nằm chiêm bao rồi nói lung tung.

  

   Vì có bản tính duy tâm, nên mấy ngày trời, vừa đi làm, vừa suy nghĩ. Dương quyết định viết bức thư gởi về mẹ mình, kể rõ hết đêm chiêm bao hôm ấy và muốn bà mọi cách phải ra tận ngoài bắc xem sao, dù bao nhiêu tiền Dương cũng chịu hết. Thư từ qua lại hai ba lần, mất gần mấy tháng trời, cuối cùng mẹ Dương chìu lòng Dương. Dương gởi về cho bà đường dây đen năm ngàn Đô-la, hồi năm 1989 số tiền nầy lớn lắm, đủ trang trải cho công việc lo lót và đi đường. Tiền về, bà bắc đầu xin giấy phép đi thăm chồng từ ấp- xã- huyện- tỉnh và cuối cùng phải đến chi nhánh Bộ Nội vụ tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Nơi đây họ xem xét giấy tờ xong và xác nhận : Chồng bà là Đại tá Lê văn Lang đang học tại Hoàng Liên Sơn-Yên Bái trại K7- Z21, sống hay chết thì họ không nói. Bà mừng quá và về nói lại các con là Bộ Nội Vụ nói đúng y như thằng Dương viết thư về. Khi nhận giấy xong, bà lập tức ra bắc ngay. Khi đến nơi bà phải mất tám ngày, nào tàu hỏa, nào xe hơi, nào mướn người dẫn dắt. Bà kể « Hồi ấy người miền bắc rất ác cảm với người miền nam, hơn nữa nghe bà là vợ một Sĩ quan cấp tá ra thăm chồng, lại càng ghét hơn » Do đó việc quan hệ, hỏi thăm đường xá rất khó, hỏi ai ? Họ đều bảo là không biết, chỉ bỏ tiền ra mướn họ chỉ đường, thì may ra. Nói thì nói vậy, nhưng cũng còn người tốt, mặc dù phải bỏ tiền ra mướn họ và cuối cùng họ đưa bà đến trại K7-Z21. Đến nơi, văn phòng trại bảo, ông Lang đã chết vì bệnh rồi, chết ngày 24, tháng 6, năm 1978 và được anh em tù chôn dưới chân đồi, cách trại năm trăm mét. Hồi đầu khi nghe ông chết bà bật khóc, nhưng rồi cố giữ bình tĩnh và mướn những người dân sống gần đó, lấy cốt ông lên, làm vệ sinh và gói gọn mang về Vĩnh Long chôn cất.

  

   Sau gần một tháng đi và về, mang được hài cốt chồng về tận quê nhà, mặc dù chồng đã chết, nhưng bà rất toại nguyện và thầm nghĩ, chuyện gì trên đời nầy đều cũng có thể xảy ra. Và, những cơn mộng cũng có thể biến thành sự thật.

 

Thủy Điền

 

Ngày 20, tháng 4, năm 2016

 

116-Chỉ Còn Tình Bạn

 

 Trên chuyến bay từ Việt Nam trở về Hòa Lan gần mười lăm tiếng đồng hồ. Ông Đức cứ mặt hầm hầm, chẳng nói một lời. Dường như đang bực mình và bất đồng một điều gì đó. Bà hỏi ?

-Sao? Kỳ nầy về, rồi qua, thái độ ông lạ thế.

-Bà để cho tôi yên. Một lát sau ông Đức bảo. Tôi nói để bà biết, là kể từ bây giờ, tôi không nói là tôi từ tất cả người trong nhà hay không bao giờ về Việt nam nữa. Nhưng những người ấy đã làm tôi chán ngấy rồi và Việt nam không còn thích hợp với tôi nữa. Bà lặng thinh, mắt lim dim ngủ.

-Tùy ông.

 

    Kể từ năm 2008 trở lại đây, các con đã trưởng thành và vợ chồng ông Đức cũng bắt đầu già đi, nên cứ mỗi xuân về là ông xin phép hãng nghỉ một tháng, để hai chợ chồng về quê thăm quê nhà và luôn tiện ăn tết. Trước khi về Việt Nam ông nghĩ mấy đứa em mình bây giờ đứa nào cũng khá cả, vì trước đây ông và bà đều có gởi tiền về giúp một người một ít, gọi là làm vốn, nên khi về ông cũng chẳng mang nhiều thứ hàng hóa như bao người khác. Và, đúng vậy, Khi ông vừa về tới Phi trường Tân Sơn Nhất thì các em của ông ra đón đầy đủ. Thậm chí bọn chúng còn có xe riêng bảy chỗ, khỏi cần thuê xe tiếp về Vĩnh Long. Trên đường về nhà ngoài một trăm cây số, anh em vui vẻ, kể nhiều mẩu chuyện vui thật là hào hứng. Lịch trình về một tháng, thí điều ông muốn gia hạn thêm vài tuần nữa để tận hưởng hết những tình nghĩa gia đình.

  

   Nhưng không ngờ ! Sau vài ngày bên nhau, anh em tổng cộng mười đứa, đều lập gia đình và cũng có vài người đã làm sui gia và lên chức ông bà. Tất cả chúng đều có ý nghĩ như nhau (Giống y như được đào tạo chung một trường lớp) không hơn, không kém là bằng cấp « Moi tiền » Chúng moi bằng nhiều cách khác nhau : Thằng giàu thì định mở thêm cơ sở, thằng trung trung thì định sửa lại nhà, thằng kha khá định sắm chiếc xe hơi, thằng kém thì định cất lại ngôi nhà, con thì muốn mua thêm miếng đất. Ôi đủ kiểu. Khi nghe mọi người trình bày xong, ông cười và nói.

-Các em đã nói về nỗi khó của các em hết chưa ?

-Dạ, chỉ có bấy nhiêu thôi anh. Ông hỏi tiếp ?

-Chú A ở Sài gòn một năm về thăm mộ ba má mấy lần ?

Dạ 13 năm nay gì lu bu công việc nên em về chỉ có một lần.

-Mộ ba má tranh, sậy lên tới đầu, sao chẳng thấy ai làm sạch sẽ vậy.

-Dạ, phải chờ tết hoặc thanh minh mới làm được anh.

-Nhà thờ ba má xập lên , xệ xuống sau vẫn để y.

-Chuyện nầy của chú Út.

-Chú Út nghèo, anh giàu thì bỏ luôn sao ?

 

  Sau những câu hỏi vặn đầu, bà con bắt đầu lui xa dần. Ông nói thêm.

-Các em có thường xem Tivi mùa đông ở Hoà Lan, Châu âu như thế nào không ?

-Dạ có.

-Nếu có xem, nhớ xem cho hết Phim, có khi gặp anh đang sáng sớm phải cạo tuyết, rồi ngậm ổ bánh mì chạy vào hãng đứng tám tiếng đồng hồ , ngày nào cũng như ngày nấy. Còn các em ở quê nhà sung sướng quá. Sáng ra Cà-phê, Phở, Hủ tiếu, đi xe hơi, chiều nhậu. Thế mà còn móc tuí anh nữa làm gì.

 

   Một tuần sau chúng rủ nhau tổ chức đi quán nhậu. Ông hỏi ?

-ở nhà có quán ăn gần 100 chỗ ngồi, muốn gì có nấy. Tại sao phải đi nơi khác cho phí.

-Không, chỗ nầy đặc biệt lắm anh ạ.

-Thôi đi thì đi, cuối cùng tiệc rượu gần chục người, no say ông lãnh hết và vài ngày sau nghe được là nếu đãi ở nhà thì ngày hôm đó thằng em mình bị mất một khoảng tiền rất lớn là hơn ba triệu đồng. Khi nghe xong ông lắc đầu và muốn quây về Hoà lan lập tức.

 

   Buồn quá ông đi lang thang ngoài đường, vô tình gặp thằng bạn nghèo năm cũ, đang chạy Xích lô, bảo lên xe, hắn chở về nhà, bảo vợ bắt con gà làm thịt, mua nửa lít rượu đế, hai thằng nhâm nhê một trận, tàn tiệc xong, mạnh ai nấy về nhà, mà không nghe một tiếng « Tiền » dăng dẳng bên tai.

 

   Tuần cuối cùng, trước khi về Hòa Lan, ông lại gặp thằng bạn khác, khá hơn đang làm quảng lý một Công ty nhỏ, khi thấy ông, bỏ hết công việc cho người khác, kéo về nhà làm năm gà, bảy vịt linh đình đãi bạn. Sau đó lấy xe công ty chở hai vợ chồng ông đi Vũng tàu hứng mát trong những ngày chót mà chưa hề mở miệng nói một tiếng tiền. Từ A đến Z, người bạn cũ đều lo tất cả và chỉ xin ông một điều là khi nào có về Việt Nam thăm quê thì nhớ cho ông ta hay để đi rước, chớ đừng âm thầm như lần nầy thì buồn quá.

  

   Khi ra về ông nói với bà. Thật tôi không hiểu nổi trên cõi đời nầy. Tại sao người dưng lại đối xử với ta như thế và anh em trong nhà thì ngược lại. Và, tôi nói cho bà biết rằng bên tôi hay bên bà cũng thế, tôi không từ ai ; cũng chẳng nói là không về Việt Nam nữa. Vì hiện tại những ám ảnh ấy đã ăn sâu vào lòng tôi rồi.

 

   Và, còn một ngày nữa là hết ngày nghỉ cũng như phải trở lại Hòa Lan, ông tạt sang qua thằng bạn nghèo năm cũ từ giả và móc hai trăm Euro cho cháu ăn bánh, rồi ra về. Dọc đường miệng cứ lầm bầm « Chỉ còn tình bạn » Tình nhà đã bị đồng tiền cuốn hút mất từ lâu rồi. Tất cả họ chỉ còn là cái xác mà thôi.

 

Thủy Điền

Ngày 19, tháng 4, năm 2016

Thuy-Dien-Thivanviet.Jimdo.com

 

 

115-Chết Vì Nước

 

    Trên đường bơi về nhà, ông bà Quánh cứ cãi nhau lên tục, thí điều mấy con cá đang lội dưới sông, phải lặn đi nơi khác, vì không chịu nổi sự mắng nhiếc, cằn nhằn của bà Quánh. Đoạn đường từ Chợ Cai lậy về ngã ba Bình phú khoảng bảy cây số đường sông, bà đã mấy lần đòi nhẩy xuống dòng sông tự tử. Nhưng vì thấy mình có lỗi nên ông đành ôm bà mà năn nỉ. Thế mà, bà vẫn khóc sướt mướt như đứa trẻ vừa bị ăn đòn.

 

    Khoảng gần năm năm nay, cây trái nhà vườn ế ẩm, mất giá, Dừa chỉ năm trăm đồng một quả, mà chẳng ai thèm đến mua, thử hỏi làm sao mà sống, khi gia đình bảy tám miệng ăn. Nên ông đành nghĩ ra cách phá vườn, lập trang trại nuôi heo nhỏ. Và, ông nuôi được gần ba chục con heo. Mấy năm đầu công việc rất suông sẻ, trôi chảy, tháng nào ông bà cũng bán được năm ba con heo ngoài một tạ, thâu về gần mười lăm triệu đồng, bỏ vốn, số lời còn lại gia đình ông sống rất thoải mái. Vì thức ăn ông có sẵn như gạo lúa, rau muống cả công đất, chỉ mua thêm một ít thực phẩm hổn hợp pha trộn và thuốc tiêm ngừa mà thôi. Ông lợi thế hơn những trang trại trại khác nhiều, nghĩa là khỏi phải mua nhiều.

 

   Gần đây ông hay giao du mấy quán Cà-phê đầu ngõ và ngày nào cũng thường hay nghe người ta đồn đãi, lúc đầu ông bỏ ngoài tai và cho đây là điều tội lỗi. Nhưng cứ hiền lành, tốt bụng, nhân đức quá, thì sẽ thua thiệt người ta. Nên ông dần dà để đầu và bị tiêm nhiểm. Người ta bảo rằng, trước khi bán heo, họ thường bơm nước vào trong bao tử cho heo được nặng ký và bán được thêm tiền. Phải nói thời điểm nầy giá thịt heo thật đắc, mỗi ký ngoài hai trăm ngàn đồng. Nghe loáng thoáng rồi để bụng cộng một ít lòng tham, về nhà, trước khi bán heo ông bắt chước làm theo, hồi đầu ông làm thử vài con, trước khi bán, cột chân, cột cẳng bơm vào bụng năm lít nước, sau đó mang đi bán, con heo đem cân nặng thêm được năm ký lô. Khi bán xong, về nhà chờ xem có ai phản hồi gì không. cuối cùng mọi chuyện đều êm đẹp. Ông thấy như vậy là ổn rồi, đúng như lời đồn đại của thiên hạ và còn nói. Tại sao mình ngu quá, bao lâu nay không chịu làm theo người ta? Lần bán sau cũng thế, ông bắt trớn làm thêm vài con nữa và kết quả đều như ý muốn. Cứ thế và cứ thế, ông tha hồ ăn gian bọn lái buôn gần một năm trời, mà chúng không hề hay biết và số lãi tăng lên so với mức bình thường khá cao.

 

   Năm 2012 bà con không ai bảo ai, mọi người xung quanh chăn nuôi nhỏ, mỗi hộ chừng năm ba con cũng âm thầm làm theo, vì càng lúc, càng nhiều quá, nên bọn lái buôn mất lời và tìm ra nguyên nhân, rồi biết được và báo với chính quyền. Chính quyền vào cuộc, nhưng mọi chuyện đã qua, không có bằng chứng, nên huề cả làng và chỉ tội nghiệp cho những người làm sau chót, chưa kiếm được gì, mà bị mắc nạn. Và, từ đó báo chí cũng thính tai, nhẩy vào cuộc phanh phui, khai thác tin tức, thâu thập chuyện nầy, chuyện nọ lên báo, cảnh báo nhân dân làm rúng động cả Thị xã và tin loang đi khắp mọi nơi một thời gian khá lâu. Cảnh ăn gian, ăn lận bắt đầu bị dẹp tắt. Nhưng rồi chỉ một thời gian sau, khi tình hình lắng dịu, tính nào, tật nấy, trò gian lận ấy lần lần sống lại « Ngựa quen đường cũ ».

  

   Mùa Tết năm 2014 tình hình heo hút nặng. Bỡi, những cơn dịch vừa qua, giá cả tăng rất cao hơn nữa vào dịp tết, số lượng thịt cần rất nhiều. Thừa cơ hội, ông làm một mẻ to hơn mười con. Trước khi mang đến lái, ông chẳng cho ăn chi hết và bơm vào bao tử mỗi con mười lít nước đầy. Như vậy chuyến nầy ông sẽ lòi ra được ít nhất là một con nữa, tha hồ về ăn tết linh đình và số tiền bán mười mấy con kia vẫn còn y. Hồi đầu vì quá đói, chúng uống vào mười lít chẳng thấy ra sao. Nhưng khi vận chuyển gần bảy cây số đến nơi để bán, nằm trên xuồng, trời nắng chúng phát ách, thở không được, bốn chân bị cột chặt, không chịu nổi và tử ẹo từ từ. Khi gần đến nơi giao hàng, ông bà đâu có nghĩ chúng chết. Ai ngờ ! Chúng đã chết trên đường đi mà không hay, ngỡ chúng no quá, mệt và nằm im ngủ. Nhìn mười mấy con heo chết còn nóng hổi, bà Quánh cuống lên, muốn chết theo, vì gần phần nửa số tài sản của bà xem như bỏ sông, bỏ biển. Sợ thiên hạ phát hiện hai vợ chồng, đùm túm, tức tốc quây trở về nhà.

 

   Trên đoạn đường trở về, bà khóc nức nở như đứa bé lên năm và mắng ông không lời nào tả nổi và không còn chỗ nào để chứa. Biết thân phận mình, ông chỉ biết ôm bà năn nỉ và bày cách về nhà làm thịt và bán lẻ. Bà bảo, một con thì còn nói dối với người ta được ,còn đàng nầy cả mười mấy con bán, lừa ai , chính quyền sẽ vào cuộc ngay lập tức. Lý do : Thực phẩm không an toàn. Bà vẫn khóc và nói tiếp.

  

   Chúng chết dọc đường, còn ta đang chết tại nhà đấy ông à.

 

 

Thủy Điền

Ngày 12, tháng 4, năm 2016

Thuy-Dien-Thivanviet.Jimdo.com

 

114- Mất Dấu

 

   Vừa bước vào nhà, mặt ông Phụng đang hầm hầm, tay vừa rót ly nước, miệng vừa bảo.

-Chờ chiều nay thằng Hoàng về, bắt nó chở quay lại chỗ ông Bác sĩ lần nữa thử xem sao.

Bà Phụng từ nhà bếp chạy lên.

Bộ có chuyện gì sao, nguy kịch rồi hả ông? Mà ông Bác sĩ bảo thế nào, ông bình tĩnh nói cho tôi nghe coi và tại sao chiều nay phải bắt thằng Hoàng đến đó lần nữa ?

-Không có gì đâu.

-Tôi tin chắc là có, ông lại giấu tôi rồi.

-Tôi bảo không là không, cứ hỏi mãi.

-Tùy ông, nói ra còn biết đường mà lựng, còn giấu giếm, lỡ, có mệnh hệ gì thì ráng mà chịu, đừng đỗ thừa, trách móc vợ con không biết lo. Mà ông có đói chưa, để tôi dọn cơm ?

-Khỏi, tôi no lắm rồi.

  

    Năm 1992 Hoàng bảo lãnh ông bà Phụng sang Đức với diện đoàn tụ gia đình. Trước khi sang Đức, ông đã mang trong người căn bệnh đường cả mấy năm rồi, cứ lèn xèn mà không chịu hết. Vừa mới sang Đức độ một tháng là Hoàng lo hết mọi thứ giấy tờ, để ông có thể đến Bác sĩ chữa trị tiếp. Hồi đầu Hoàng chở ông đến Bác sĩ một lần bằng xe hơi, chỉ dẫn đường đi, nước bước thật rõ ràng để đến Văn phòng Bác sĩ, kế đến Hoàng tập cho ông đi xe điện vài ba lần, như thế nào cho đến nơi và ngược lại. Vì công việc hàng ngày Hoàng còn phải đi làm, nên không đi cùng ông khám bệnh thường xuyên được. Thấy con bận bịu trong công việc, nên ông đành đi và tập dần một mình. Tuy tuổi già, nhưng ông cố gắng nghĩ ra cách làm sao cho dễ nhớ đường, như làm dấu tại một điểm cố định nào đó, để khi đến cái dấu ấy, qua một trạm xe điện nữa thì xuống là chính xác.

 

   Mặc dầu qua Đức nhà nước cho ông bà đi học chín tháng tiếng Đức bắt buộc, nhưng cô giáo nói lỗ tai nầy, một lát sau, vội vàng ra lỗ tai khác ngay. Kết quả sau chín tháng học tập ông chẳng thu thập được bao nhiêu. Công việc tuổi già, bệnh tật của ông không ngoài chuyện là cứ đúng một tuần (thứ hai) là ông lần mò theo cái dấu mà đi khám bệnh. Thời gian gần một năm tất cả đều suông sẻ, trôi chảy. Hoàng nghĩ, cha mình đi như thế là hay lắm rồi, nên chẳng cần phải quan tâm về việc đi đứng của ông nữa, mà lâu lâu chỉ hỏi thăm chừng về sức khỏe mà thôi.

  

    Một hôm như thường lệ, ông đi khám bệnh, ngồi trên xe điện, mắt cứ chăm chú cái dấu hàng ngày, để xe qua thêm một trạm nữa rồi xuống. Chờ hoài, chờ mãi chẳng thấy chiếc vải đỏ treo tòn ten đâu. Có lẽ, gió đã làm bay mất rồi hay là chưa tới, nên không thấy. Nửa sợ sợ, nửa lo lo và cứ ngồi miết trên xe, chiếc xe điện đã trượt qua chỗ ông Bác sĩ gần mười cây số.      

  

    Cũng may, vừa đến bến cuối cùng ông gặp một người Việt Nam tử tế, thấy ông già, họ tận tình giúp đỡ và bảo. Ông đã đi lạc rồi. Đồng thời họ cũng vui vẻ hướng dẫn, đưa ông ra xe  khác để ông đi ngược về nhà.

 

   Trong chuyện éo le nầy là gì, mấy ngày trước đó Đội Vệ sinh Thành phố có lệnh dọn dẹp  khu vực nầy, nên đã vô tình gở tấm vải đỏ của ông xuống và cho vào sọt rác mất rồi nên ông phải đành mất dấu.

 

    Ngày hôm ấy làm ông không đến Bác sĩ được, phải đành ra về trong nỗi buồn vô hạn. Ông nhất quyết chờ đến năm giờ chiều Thằng Hoàng về và bắt nó phải chở đến chỗ cũ để gắn lại tấm vải đỏ khác làm dấu, còn nếu không, tình trạng trượt bến sẽ xảy ra dài dài và cơn bệnh sẽ tăng dần thêm.

 

    Ở nhà bà Phụng cứ nghĩ, hôm nay ông về trong cơn buồn bực là gì, có lẽ Bác sĩ đã nói ông điều gì đó, ông biết, nhưng không hiểu hết, nên ông thất vọng và chờ thằng Hoàng về chở đến đó để hỏi cho ra chuyện. Nhưng không ngờ, khi ông nói ra chuyện mất dấu cái tấm vải màu đỏ mà không đi khám bệnh được, bà nhẹ nhõm trong lòng.

 

Thủy Điền

Ngày 08, tháng 4, năm 2016

Thuy-Dien-Thivanviet.Jimdo.com

 

 

 

 

113- Ngày Hấp Hôn

 

Sau khi ăn sáng xong, ông Bửu sơn xách cặp táp ra xe đi làm. Bà Ánh Ngọc vừa dọn dẹp, vừa lầm bầm. Không biết lý do gì, mà gần một năm nay cái lão nầy tự dưng đổi tính. Thật lạ kỳ, phải chi có lý do thì không nói. Đàng nầy chẳng có lý do nào cả, lão vẫn sống bình thường, lúc nào cũng vợ vợ, con con. Nhưng chuyện gối chăn Lão luôn luôn tìm cách tránh né. Thế nghĩa là sao ?

   Trước năm 1975, sau khi tốt nghiệp trường Kinh tế, Bửu Sơn thừa hưởng ngay gia tài của cha mẹ nhường lại đó là một hãng sắt lớn tại Sài thành, lúc ấy anh ta mới vừa 25 tuổi, là một trong những nhà kinh doanh trẻ nhất thời bây giờ. Tuy nhỏ tuổi, nhưng rất quyết đoán và rành rẽ trong công việc. Bởi, ảnh hưởng và hấp thụ được cái nề nếp sống của gia đình và cộng trình độ học vấn sẵn có. Ngày ngày cứ miệt mài công việc, hãng xưởng càng lúc, càng phát triển nhanh. Hãng sắt Bửu Đại tên của cha anh rất nổi tiếng và giàu có hạng, các giới thầu xây dựng cả nước ai ai cũng đều biết đến hai chữ Bửu Đại.

   Năm 33 tuổi, Bửu Sơn quen rồi đi đến kết hôn với Ánh Ngọc và là bà vợ duy nhất của anh ta đến ngày nay. Sau ba năm chung sống, hai người đã sanh được hai chàng trai rất khá khỉnh đó là Bửu Khánh và Bửu Quang.

   Năm 1975, khi đất nước hoàn toàn giải phóng, hãng sắt Bửu Đại bị đóng cửa một thời gian ngắn và sau đó thuộc quyền sở hữu của chánh quyền Cách mạng. Từ đó gia đình Bửu Sơn coi như trắng tay.

   Năm 1978 Bửu Sơn và gia đình đi đăng ký hợp pháp và sang tận Mỹ, hiện định cư tại Taxas. Thời gian qua Mỹ vừa đi học, vừa đi làm Bửu Sơn nghĩ ra được một phương án làm ăn đó là mua bán ghế Salon và hàng Mộc. Với vốn người kinh doanh, dù đi đâu hay lĩnh vực nào họ cũng đều xây sở và tạo dựng cho mình một cơ nghiệp rất dễ dàng hơn người bình thường. Chỉ mấy chốc, anh ta ăn nên làm ra và mua được một căn nhà rất lớn. Gia đình sống rất hạnh phúc. Và, đúng mười năm sau đó hai cậu con trai lần lượt lập gia đình và ra ở riêng. Ngôi nhà rộng lớn chỉ còn lại hai vợ chồng, Ánh Ngọc thì chẳng phải làm gì cả, chỉ ở nhà, với công việc nội trợ, còn công việc hãng xưởng từ A- Z chỉ một mình Bửu Sơn chăm nôm cũng tạm đủ. 

   Cuộc sống đang êm ả, bỗng dưng, kể từ năm 2004 Bửu Sơn bắt đầu lạnh nhạt với vợ con về việc chăn gối, còn riêng những việc khác thì anh ta rất bình thường. Thậm chí sau giờ làm việc về nhà, tối đến hắn tìm một chỗ riêng cho mình đễ ngủ, mỗi khi vợ hắn xề đến, dạ chuyện ái ân thì hắn lại lờ đi và tránh xa. Nhiều lần Ánh Ngọc vô cùng thất vọng, chỉ biết khóc và chẳng dám cự, cãi lại.

  Một hôm nàng kể cho một người bạn nghe về câu chuyện gia đình mình và người bạn ấy chỉ nàng hãy sang tận Canada, nơi đó có một nhà tư vấn về gia đình rất hay, nàng có thể tìm đến đó một lần thử xem sao. May ra họ có giúp được điều gì.

  Nghe lời bà bạn, nàng chờ Bửu Sơn đi làm về, ăn cơm chiều xong, nàng bày tỏ cùng Bửu sơn và bị Bửu Sơn quát cho một trận tơi bời. Dù bị phản công, nhưng nàng nhất quyết phải đến đó một lần, dẫu có tốn kém bao nhiêu nàng đành chấp nhận. Bửu Sơn bảo.

-          Nếu em có thích, thì cứ đi một mình, còn anh nhất quyết không đi đâu hết.

  Nói, thì nói vậy, nàng vẫn mua hai vé máy bay sẵn. Sáng sớm ăn sáng xong, nàng để vé máy bay trên bàn ăn và bảo.

-          Anh có đi cùng em sang bên ấy hay không đi thì tùy anh, còn em, sáng ngày mai là phải đi ngay. Bửu Sơn hỏi ?

-           Rồi em định ở đâu. Nàng bảo.

-           Em đã mướn sẵn một căn nhà rồi. qua hệ thống Internet. Bửu Sơn hỏi tiếp ?

-          Và tiền đâu có, mà chi trả lắm thế. Nàng trả lời .

-           Số tiến ấy em đã dành dụm từ lâu, mục đích để bảo đảm cái hạnh phúc gia đình.

   Đúng sáng hôm sau, như dự định, nàng gọi chiếc Taxi đưa nàng ra Phi trường và sang Canada. Trong lúc đi, nàng ngỡ Bửu Sơn sẽ không đi theo và nàng phải một mình bày tỏ với nhà tư vấn. Nhưng không ngờ ! Ngày hôm sau Bửu Sơn cũng có mặt ở Canada, nhưng không ở cùng nàng, mà ở riêng một Hotel gần đó. Hai người chỉ hẹn nhau đến nhà tư vấn bắng điện thoại di động.

   Đến nơi, nhà tư vấn hỏi vòng vo năm ba chuyện, lẽ ra, hai người phải trả lời, đàng nầy không lo trả lời, mà lại cãi nhau như hai đứa trẻ. Qua nhiều lần như thế, bực quá, nàng bỏ đi vào những quán bar nhậu một trận rồi về, Bửu Sơn liên lạc mãi không được và cuối cùng dọn chung sang ở với nàng. Nàng rất mừng khi Bửu Sơn sang ở chung, đây là cơ hội để hai vợ chồng được gần gủi nhau. Nhưng không ngờ ! Bửu Sơn vẫn y như lúc ở nhà không hơn không kém. Câu chuyện vẫn cứ tiếp tục như thế, mỗi ngày, hai người đều phải đến nhà tư vấn nghe giải thích , chỉ dẫn, hàn gắn lại với nhau. Về nhà, nàng luôn làm theo những lời chỉ dẫn ấy, nhưng cuối cùng cũng chẳng thành công. Cuộc nhờ vả tư vấn đúng một tuần, nàng phải trả gần 1500 Đôla và đành phải ra về trong tuyệt vọng.

   Về đến nhà, cuộc ấu đả tình ái vẫn kéo dài mấy tháng trời, đôi lúc nàng muốn làm đơn xin ly dị, nhưng nghĩ còn con, còn cháu sợ chúng cười nên phải đành nhường bước, cam chịu. Trong sự chịu đựng vượt bực, nàng không còn chịu nỗi nữa và bắt đầu lê la đến các phòng trà giải khuây, đi sớm, về muộn, bất cần đời. Trước cảnh tình như thế, Bửu Sơn bắt đầu ghen và sợ vì vợ mình không còn bình thường như trước nữa. Bửu Sơn bắt đầu hạ giỏng năn nĩ.

  Một ngày êm trời, đẹp nắng. Chàng chở nàng đến một vùng biển, nghỉ mát và đành thú thật, kể từ hơn năm nay, bỗng dưng chàng dường như bị bất lực, không còn húng thú trong chuyện tình ái nữa. Khi nghe chàng nói xong, nàng mới chợt hiểu ra và thông cảm, nhưng ít nhất nàng muốn mỗi đêm nàng được nằm bên cạnh bên chồng, để nghe được những hơi thở đã từng nghe ba chục năm về trước. Đặc biệt càng lúc, càng già nàng không muốn sống trong cảnh lạnh nhạt, cô đơn. Những lời nàng thốt ra, làm Bửu Sơn thấy ân hận, thương hại vợ mình vô cùng và để chuộc lại nhũng tội lỗi ấy, chàng nghĩ ra cách tổ chức một buổi hấp hôn đình đám, tràn đầy ý nghĩa. Hầu cho Ánh Ngọc được vui lên và tin tưởng hơn. Buổi hấp hôn hôm ấy còn to lớn hơn ngày cưới cách đây ba mươi năm tại Sài gòn. Quy tụ rất đông đủ , nào con, nào cháu, nào bạn bè ,thân thuộc khắp nơi kéo về thật vô cùng long trọng

  Trong lúc nhẩy đầm mừng tiệc, Bửu Sơn nói.

- Em thật là một người đàn bà sâu sắc và là một vị đấng tin đã cứu rỗi đời anh.

 

 

Thủy Điền

Ngày 05, tháng 4, năm 2016

Thuy-Dien-Thivanviet.Jimdo.com

 

 

112- Hãy Trả Em Về Với Dòng Sông

 

 Sáng sớm đúng 8 giờ, vừa ngồi vào bàn làm việc. Tiếng điện thoại reng, Peter nhấc lên.

-Hallo

-Với giọng mếu máo, thưa ba, con Lena đây.

-Có gì nói cho ba nghe, tại sao khóc Lena, ở nhà xảy ra chuyện gì phải không ?

-Vâng, ba mau thu xếp công việc về ngay đi. Mẹ vừa bị tai nạn giao thông vào lúc 2giờ khuya nầy, nặng lắm. Bây giờ đang nằm nhà thương, con chưa vào được, sau khi gọi điện thoại cho ba xong, con và Jacki sẽ đi Taxi vào xem mẹ như thế nào.

-Ai cho các con hay vậy ?

-Dạ, Cảnh sát ba ạ.

-Được, ba sẽ sắp xếp và về nội trong ngày nay, các con khỏi đón ba, ba sẽ dùng Taxi về thẳng nhà mình, sau đó sẽ tính sao, chào con nhé.

-Chào ba.

 

   Ba năm nay Peter vừa nhận được chức Giám đốc một hãng chế tạo vỏ xe hơi tại tại San Francisco (CA) nên thường ít về nhà, ngoại trừ nghỉ phép và mùa Giáng sinh mà thôi. Thời gian nầy chàng đành để vợ và con ở lại Honolulu. Với những ngày tháng xa chồng Malena thường hay đến Vũ trường vào những ngày cuối tuần để khỏa khuây, qua nhiều lần giao du, nàng làm quen được Henrry và hai người đã tổ chức nhiều cuộc du lịch vụng trộm. Bởi, Henrry cũng có vợ và cô con gái tám tuổi.

 

   Một đêm mùa hè, Henrry mướn một chiếc xe, định đưa Malena đến một vùng biển cách Hanolulu 150 km nghỉ cuối tuần. Trên đường đi vì đêm tối Henrry đã đụng phải vào đích một xe tải, phần đầu chiếc xe của Henrry tan nát, nhờ có Airbag nên Henrry bị thương nhẹ, còn Malena cũng bị thương, nhưng rất nặng (Bất tỉnh) cả hai được chở vào nhà thương gần đó. Cảnh sát đến ăn kết và tìm thấy số điện thoại nhà của Malena nên vội vàng báo cho người thân biết.

  

   Giữa đêm, nghe Cảnh sát báo tin mẹ bị tai nạn, Lena và cô em gái choáng váng, tại sao có chuyện như thế ? Và, sao mẹ đi mà chẳng nói lời nào. Hai đứa cứ ngỡ, mẹ hay đi nhảy đầm vào cuối tuần và đến khuya là về ngay. Ai ngờ, thật không nói nổi. Vì trời quá tối, nên Lena chờ đến sáng sẽ cho ba hay rồi đến sau.

  

   Sau vài giờ nằm nhà thương, Bác sỹ thấy Henrry không có gì, nên cho xuất viện, về đến nhà Henrry nói dối với vợ là đi nhậu cùng người bạn, xảy ra tai nạn và chỉ bị thương sơ sơ mà thôi. Bà vợ tưởng thật, rồi bỏ qua vì hiện tại Henrry chẳng thấy có dấu hiệu nào gọi là bị thương cả và kể từ đó Henrry phế mặc, chẳng quan tâm đến Malena nữa, chàng xem như là chuyện qua đường và giấu nhẹm luôn.

  

  Chuyến máy bay từ San Francisco về Hanolulu, Peter đi Taxi về nhà, tắm rửa xong, thì hai cô con gái cũng lại về. Cả ba cha con cùng quây lại nhà thương một lần nữa, Peter bước vào ôm Manela chầm chập, khóc ngất. Riêng Manela chỉ còn thở, nhưng chẳng biết gì cả.

  

  Gần một tuần nằn nhà thương, Bác Sỹ lắc đầu và bảo Peter rằng, Manela sẽ không bao giờ tỉnh lại, vì bộ não của nàng bị rối loạn, dẫn đến hệ thần kinh không còn hoạt động nữa. Nàng bây giờ như là một người đã chết, nhưng còn thở mà thôi. Biết tình trạng vợ mình như thế Peter chỉ biết khóc hết ngày nầy, qua ngày nọ và các con cũng thế.

   Trong buổi ăn chiều, Peter hỏi các con ?

-Những lúc ba đi làm, mẹ ở nhà thường hay giao du với ai vậy ?

-Dạ, mẹ giao du vài ba người, nhưng người hay đến đón mẹ vào cuối tuần nhiều nhất là Henrry.

  

   Đến đây Peter không hỏi nữa, chàng nhận ra ngay, Henrry là người cùng làm việc chung một hãng với chàng trước đây, nhưng dưới cấp.

   Trên đường từ nhà thương thăm Manela về, Peter ghé lại nhà Henrry định hỏi ra chuyện, nhưng rất tiếc Henrry đã đi công tác xa, chỉ còn lại bà vợ là Linn và con nhỏ ở nhà. Peter định nói rõ hết câu chuyện, nhưng thấy không tiện, nên hẹn Linn vào ngày tới đến một quán gần đó để tậm sự.

  

   Lời qua, tiếng lại, khi nghe Peter kể, Linn chỉ ngồi khóc và chẳng nói được lời nào. Sau ngày đó, ngày nào Linn cũng vào thăm Manela, mỗi khi bước vào cửa phòng nhìn Manela là nàng bật khóc ngay, khóc đến nổi Peter phải dìu nàng ra khỏi phòng, tránh Bác sỹ rầy la.

  Khi Henrry công tác trở về, Linn dùng những lời từ tốn,  nhẹ nhàng nói chuyện với Henrry và Henrry thừa nhận. Khi Henrry thừa nhận xong ; nàng cũng viết sẵn tờ đơn xin ly dị và bắt Hennry ký vào. Hồi đầu chàng không chịu, nhưng nàng bắt buộc. Nếu ký hay không ký nàng cũng dọn đi ngay ngày hôm sau.

 

   Hai tháng nằm nhà thương, sức khỏe Manela càng lúc , càng kiệt huệ và nàng đã trút hơi thở cuối cùng. Khi nàng chết, Peter còn nhớ  lời nói của Manela khi những ngày đầu mới lấy nhau, chàng hay mướn chiếc thuyền nhỏ, đưa nàng trên những dòng sông, nàng hay bảo, khi nào em chết, anh hãy đem thiêu và rải xác em xuống những dòng sông nầy. Để thỏa nguyện ước muốn, khi Manela chết chàng và các con đem thiêu và cũng mướn chiếc thuyền, vừa bơi vừa rải xác mẹ theo từng sóng nước. Vừa rải, các con vừ khóc, chàng cũng khóc và nói « Tại ba, mà mẹ con mới chết và gia đình ta mới ra nông nỗi nầy » Các con hãy thứ lỗi cho ba.

 

Thủy Điền

Ngày 03, tháng 4, năm 2016

Thuy-Dien-Thivanviet.Jimdo.com

 

111- Khi Hoàng Hậu Quá Vui

 

  Cả làng đồn đại lẫn nhau, hôm nay thằng Ngạch lại về. Người nầy hỏi người kia ? Thật sao. Nghe nói bấy lâu nay nó được nhà vua mời vào cung làm trò vui cho Hoàng hậu kia mà. Đúng vậy. Có lẽ, nó được bà cho về thăm nhà ít hôm, rồi vào lại Hoàng cung.

  

   Từ xa mọi người nhìn thấy hai quân sĩ triều đình vai nặng, võng thằng Ngạch về nhà, đều vỗ tay hoan hô và bảo. Thằng Ngạch bây giờ là một vì quan chớ không ít. Mỗi khi về nhà được lính hầu võng thật là oai vệ. Ai ngờ ! Chiếc võng càng đến gần nhà, thiên hạ bu lại thì thấy thằng Ngạch đầu một nơi, mình một nơi. Mọi người tá hỏa, la lên. Sao lại ra cớ sự nầy ? Hai quân hầu bỏ cái võng xuống đất một cái « Ịt « và đi một nước về Hoàng cung, chẳng trả lời, trả vốn gì cả. Vì bổn phận của hai anh ta đến đây là hết.

 

   Mùa xuân năm ấy, tình cờ vua đi ngang qua cái làng nhỏ. Thấy một cậu thanh niên đang kể chuyện cho một lũ trẻ tí hon nghe, không biết chàng kể thế nào mà lũ trẻ khoái chí, vỗ tay và bảo kể tiếp. Vua dừng ngựa lại, nhìn một hồi và bảo.

-          Nầy chàng kia lại ta bảo.

-          Dạ, Vua cho gọi con.

-          Mi tên chi ?

-          Dạ, Ngạch

-          Mi về chuẩn bị, mai có người đến đón vào cung.

-          Dạ, thưa vua, làm gì ?

-          Ta bảo vào là vào, không phải lôi thôi.

-          Dạ, con tuân lệnh.

-          Tốt. Rồi cho ngựa đi tiếp.

 

   Nhà vua thường hay đi kinh lý nơi nầy, nơi nọ hơn nữa trong cung có rất nhiều thứ phi. Nên Hoàng hậu thường hay lâm vào cảnh cô đơn, buồn tủi. Bà luôn cần ai đem đến cho bà những nụ cười, dù ít hay nhiều để an ủi, khoả khuây. Biết Hoàng hậu đang cần những thứ ấy, nên nhà vua cho đem Ngạch về để giải khuây cho Hoàng hậu. Với bản tính bẩm sinh, khi vừa bước vào cung, Ngạch chỉ mở miệng chào bà, là bà bỗng dưng cười ầm lên và nói rằng « Mi được đấy « Và từ đó ngày nào Ngạch cũng kể chuyện và làm trò hề cho bà vui.

  

   Một hôm không biết vì hứng thú Ngạch kể một câu chuyện rất đặc sắc, khiến bà cười đến nghẹn và ngất xỉu, quân hầu phải đến cứu cấp cho bà năm lần, bảy lượt, mới bình tĩnh trở lại. Khi tỉnh dậy, bà còn tức giận và ra lệnh cho quân sĩ đem Ngạch đi chặt đầu. Vua đi kinh lý về hỏi bà tại sao làm như thế ? Bà bảo hết vui rồi, ta đang cần một người mới, vì cứ để tên Ngạch nầy ở đây càng lâu, có ngày ta sẽ đứng tim chết mất. Vua nghe xong và cũng ưng lòng, thôi ta sẽ tìm cho Hoàng hậu một người mới. Khi chém đầu Ngạch xong, bà cho hai quân sỹ võng Ngạch về trả lại cho gia đình và bảo rằng.

    May mà chỉ có thằng Ngạch chết thôi, nếu ta chết, thì cả dòng họ thằng Ngạch nầy phải đi chầu Âm phủ.

 

    Sau khi thằng Ngạch chết, cả làng không ai dám hé miệng kể một câu chuyện vui nào với nhau, họ sợ, lỡ vua nghe được, mời vào cung là chết mất.

 

Thủy Điền

Ngày 23, tháng 3, năm 2016

www.thivanviet.wordpress.com

E.Mail. tran.vanmau@yahoo.de

 

110- Gà Đẻ Trứng Vàng

 

   Cứ mỗi sáng sớm khoảng 6 giờ là mấy bà bán Xôi, Bắp, bánh Mì thịt gần bến xe cũng đều thấy bà hai Hanh trên chiếc xe Lam bước xuống. Thiên hạ xì xầm, cái bà nầy buôn bán chi không thấy mà ngày nào cũng xách một túi đệm đồ ăn về. Ai cũng tự hỏi ? Chẳng lẽ bà đi mua hàng ở tỉnh về, bộ xứ Tân hiệp nầy không có cái gì để bà mua sao ? Nên thỉnh thoảng thắc mắc ?

-          Bà Hai, đi đâu về vậy bà, mua gì mà kình rìn thế ?

-          Bà nói dối với mọi người, hôm qua xuống thăm con gái, ngủ lại đó, nên sáng mới về, sẵn mua luôn ít hàng vậy mà.

-          Thăm gì mà ngày nào cũng thăm, bà siêng thật.

-          Con nó bệnh, đành bỏ về được sao, rồi từ giã, đi một nước về nhà, đóng cửa rào lại, biệt tích cả ngày trong nhà.

 

   Năm 1975, sau khi rã ngũ, ông hai Hanh về quê. Ba ông cho ba công đất, ông lấy một công vừa cất nhà, vừa làm cái sân, trồng hoa, kiểng. Còn lại hai công, ông lên luống trồng hoa màu phụ để sinh sống. Làm mãi đến năm 1978, ba năm dài đăng đẳng, ông thấy không khá, chỉ toàn lổ lã, nên ông chuyển sang trồng Nhãn, rồi quả Thanh long và rất nhiều thứ trái cây khác. Nhưng rồi kết quả vẫn không như ý muốn. Có lẽ, hồi ấy kém phân bón hay thổ nhưỡng nhà ông không phù hợp với những loại cây ăn quả nầy. Sau cơn ấy, ông đi giao du nhiều nơi và nghĩ ra cách nuôi gà sản xuất nhỏ. đến cuối năm 1995 ông quyết định công việc mới và quây sang bàn với bà là không trồng trọt nữa, mà chuyển sang lĩnh vực chăn nuôi. Bà hỏi ?

-          Ông định nuôi heo à ?

-          Không có, vốn đâu mà nuôi, hơn nữa cực nhọc lắm.

-          Mà ông định nuôi thứ gì ?

-          Gà.

-          Thôi đi ông ơi, thiên hạ nuôi bao nhiêu, chết toi hết bao nhiêu, trước mắt mà ông không sợ sao.

-          Biết vậy, nhưng tôi có cách, tôi hứa với bà là sẽ thành công. Nhưng phải chịu đựng và chờ đến ba, bốn tháng sau mới có kết quả được.

-          Tôi nói trước, ông nên bỏ ý định nầy đi, nguy hiểm lắm, không chừng mắc nợ nữa là khác. Ông coi nghiên cứu cách trồng trọt lại, làm tiếp. Còn tôi xem cái gì mua bán thêm sống qua ngày là được rồi.

-          Không, tôi nhất định rồi, khỏi bàn tới, bàn lui gì hết.

-          Tùy ông, muốn làm gì thì làm, nhưng khi thất bại đừng lôi tôi vào cuộc là được.

-          Ừ.

 

   Sau khi tính toán xong, ông dự định bỏ ra 90 ngày ròng rã, mỗi ngày ông đóng một cái chuồng nhỏ cở kích cho 5 con gà lớn. khi cái chuồng hoàn chĩnh, ông thả ngay 5 con gà con vào và chăm sóc kỷ lưởng. Đặc biệt cái chuồng phải thật kín, không cho gió luồn vào chỉ có một cái cửa sổ nhỏ thoáng khí và khi về đêm được đóng lại. Cứ thế, ngày thứ hai…thứ ba…thứ tư cho đến ngày thứ 90 là đúng ba tháng, khu trang trại của ông được hoàn tất. Ông không làm nhà như những trang trại khác, nên mỗi khi người lạ đứng bên ngoài nhìn thấy như là một cái hộp không hơn, không kém. Lúc nào mưa thì ông buông tấm mũ to phủ lấp cả 90 mươi cái hộc chứa gà và khi nắng được mở ra. Thời gian ba tháng, chu kỳ phát triển của con gà đã đến hồi bán được là khoảng 1kg800 đến 2kg, ông bắt đầu cho xuất chuồng thứ nhất, dọn dẹp, vệ sinh và thả ngay vào buổi chiều hôm đó 5 con gà con khác, bước qua ngày thứ hai và những ngày kế tiếp cũng trình tự như vậy. Nói chung, công việc của ông cũng không mấy vất vả hơn trồng trọt, phải dầm mưa , dãi nắng. Hàng ngày, 4 giờ sáng thức dậy, ông lấy 5 con gà ra cho bà mang đi tỉnh bán, kế đến cho gà ăn, uống, làm sạch sẽ chuồng trại, sửa chữa nơi nào bị hư hỏng còn không thì thôi, rồi nghỉ và chờ chiều thả gà con khác vào, thế là hết việc. Nhiệm vụ của bà cũng thế, chẳng có gì là to tát lắm, mỗi sáng mang 5 con gà xuống tỉnh bán và thâu từ 450.000 đến nửa triệu đồng rồi về và ngày ấy chỉ lo quây quần việc nội trợ mà thôi. Tính ra hàng tháng ông thâu về non , già 15.000.000 đồng, trừ các khoảng chi như: Thức ăn, thuốc tiêm dịch, ông bà còn lại một số lãi rất to.

 

    Những người xung quanh rất tò mò, tuy biết ông đang nuôi gà để bán, nhưng chẳng biết ông nuôi bằng cách nào, bao nhiêu gà, bán bao nhiêu tiền và vào thời điểm nào. Mọi việc dường như ông đều giấu kín. Ngoài ra, người ta chỉ phát hiện vào những buổi sáng sớm khi nhìn thấy bà ngoài bến xe, nhưng chẳng biết bà làm gì và đi đâu.

 

    Không ngờ ! Sau năm năm hoạt động âm thầm, « Đùng » mội cái, « Gà đẻ trứng vàng » trong căn nhà lụp xụp kia, đã bỏ ra một khối tiền mua miếng đất gần bên, mở một nông trại tầm cỡ và mướn gần chục công nhân vào làm việc với danh hiệu « Trang trại nuôi gà Hai Hanh « Trang trại nầy rất nổi tiếng về mặt chất lượng và hiện vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

 

Thủy Điền

Ngày 21, tháng 3, năm 2016

www.thivanviet.wordpress.com

E.Mail. tran.vanmau@yahoo.de

 

 

109- Lọ Dầu Con Ó

 

    Sáng thứ hai đầu tuần, trước khi vào làm việc, giữa Ban lãnh đạo Nông trường và Công nhân viên đều phải họp thường lệ một tiếng như : Tổng kết, kế hoạch mới, kiểm điểm, khen thưởng và phụ thêm một vài vấn đề linh tinh nếu có. Sau phần phát biểu của Đồng chí Tư Vân (Trung úy) Giám đốc Nông trường, kế đến là Đồng chí hai Tài (Thiếu úy) Trưởng ban chăn nuôi. Trong bài phát biểu của Thiếu úy hai Tài, ông có phần đề nghị rất là hấp dẫn « Thay mặt ban chăn nuôi, tôi đề nghị Ban lãnh đạo Nông trường khen thưởng hai cán bộ kỹ thuật có thành tích xuất sắc trong công tác của tuần qua « Đó là Đỗ văn Tiết và Nguyễn thanh Trắc. Bà con cả trong hội trường nghe xong, ai ai cũng nhìn hai anh chàng rồi đồng loạt vỗ tay khen ngợi. Tiết và Trắc ngồi đỏ mặt.

  

   Nông trường Bộ tư lệnh quân khu 9 được thành lập hồi đầu năm 1976. Được đặt phía sau cùng căn cứ Đồng tâm (Bộ tư lệnh Sư đoàn 7 cũ) thuộc xã Bình đức, thành phố Mỹ tho, tỉnh Tiền giang ngày nay. Nông trường nầy mục đích sản xuất, nhằm phục vụ cho Bộ tư lệnh quân khu 9 tại Cần thơ như : Chăn nuôi, trồng trọt và tạo một vườn thuốc Đông y. Thành phần ban đầu chỉ có vài ba Sĩ quan bộ đội chỉ huy, còn thành phần lao động chính là một trung đội Nghĩa vụ quân sự. Lúc nầy chưa có một công nhân nào.

  

   Năm đầu hoạt động, bộ đội chỉ nhiệm vụ phát hoang, làm cỏ, đào ao, lên luống, cất trang trại. Chủ yếu là làm thành hình một nông trại hẳn hoi, khi xong, tất cả số bộ đội ấy chuyển đi nơi khác. Và, chỉ còn lại Ban lãnh đạo mà thôi.

  

   Một hôm Tư Vân thủ trưởng nông trường và một vài Sĩ quan theo cùng trên chiếc xe Jeep xuống Mỹ tho công tác và có ghé lại quán Hủ tiếu người chị của Tiết ở đường ông bà Nguyễn trung Long để ăn sáng. Tiết đang làm anh bồi bàn, lời qua, tiếng lại. Tư Vân hỏi ?

-Trước đây cháu làm gì ?

-Dạ, cháu đi học.

-Cháu học ngành gì ?

-Dạ cháu học Nông Lâm súc.

-Nông lâm súc, chú chưa nghe qua.

-Dạ, trường Nông nghiệp đó chú.

-Sau không học nữa, mà ở nhà bồi bàn, chuyện nầy để các chị, em làm ?

-Tiết cười cười và trả lời tiếp. Giải thể rồi, lấy đâu mà học nữa chú.

-Bây giờ có muốn làm việc ngành nông nghiệp tiếp không ?

-Dạ muốn chứ, nhưng ai mướn mà làm.

-Tôi mướn đây.

-Chú là Bộ đội, chú đùa cháu hoài.

-Thật đấy, chú làm việc trong nông trường, nông trường chú đang rất cần những người như cháu và nếu được, cháu giới thiệu thêm cho chú hai chục người càng tốt. Cháu suy nghĩ đi, hai ngày nữa chú trở lại, cháu trả lời cho chú nhá, làm hay là không làm cũng được. Cháu hứa với chú đi.

-Dạ.

  

   Khi ăn xong, khách ra về. Tiết nghĩ mấy ông Bộ đội nầy nói vui qua loa thôi, Tiết không để ý đến và cứ mãi lo công việc bồi bàn hàng ngày của mình.

  

   Giữ đúng lời hứa, hai ngày sau Tư Vân và một người cận vệ đến, cũng ăn Hủ tiếu và sau đó hỏi Tiết có làm hay không ? Phải trả lời dứt khoát trong ngày hôm nay. Tiết đồng ý và hứa giúp tìm một số người nữa và hai ngày tới sẽ lên Đồng tâm gặp Tư Vân. Vì Đồng tâm là khu quân sự, ra vào rất khó. Tư Vân cũng hứa, sẽ cho người ra cổng đón vào. Sau khi Tiết nhận lời, Tư Vân ra về rất vui vẻ và hẹn, hai ngày nữa sẽ đón Tiết và các bạn tại cổng Đồng tâm.

  

   Chiều hôm ấy, Tiết lấy xe đạp chạy khắp nơi tìm kiếm bạn bè, trong đó có tôi. Thú thật hồi ấy tìm một việc làm đâu có dễ, muốn đi làm nhà nước, ít nhất phải con gia đình cách mạng hay Đảng viên hoặc quen biết lớn lắm mới vào được. Mặc dầu chưa biết công việc ấy ra sao. Cuối cùng Tiết gom được mười lăm người bạn cũ và hẹn sáng mốt tại nhà Tiết rồi cùng nhau lên Đồng tâm.

  

   Khi đến Đồng tâm, làm thủ tục xong, họ phân chúng tôi làm ba đội : Chăn nuôi, trồng trọt, vườn thuốc Đông y. Tôi học canh nông nên họ phân đội trồng trọt, còn Tiết học mục súc họ phân đội chăn nuôi, còn các bạn khác tùy theo ngành nghề học, họ phân vào các đội rất rõ ràng, cho phù hợp công việc.

  

   Một hôm đội chăn nuôi của Tiết gặp rắc rối, chuyện là một con heo khoảng 80 ký sắp bán hay làm thịt, bỗng dưng nằm ngã ra như chết, không ăn, không uống, nhưng còn thở. Đồng chí hai Tài (Trưởng ban) cáu lên, bắt buộc Tiết và Trắc phải xử lý, vì hai anh chàng nầy mang tiếng là cán bộ kỹ thuật. Ông hâm dọa, nếu không xử lý được sẽ bị kỷ luật và có thể mất việc vì không làm tròn bổn phận một cán bộ. Tiết và Trắc đang phụ trách gần 50 con heo. Thưa thật, hồi ấy lấy cái gì mà xử lý, thuốc men thì không có. Cả con người còn thiếu lên, hụt xuống, huống chi con vật. Trước tình huống nầy Tiết và Trắc bó tay, chỉ biết chờ khi con heo chết, phải đành bị kỷ luật và có thể nhận giấy Quyết định ra về mà thôi. Một lát sau, Tiết suy nghĩ và tình nghi. Con heo nầy bị cảm gió, chứ không ngộ độc, bệnh hoạn gì cả. Bởi, chuồng trại quá trống trải, hơn nữa gần sông rạch nên dễ bị cảm, trúng gió. Tiết cho rằng nó cũng giống người ta thôi. Sẵn trong người Tiết lúc nào cũng có mang theo chai dầu xanh hiệu con Ó, phòng khi giá lạnh. Tiết bàn với Trắc, hay là mình thử bôi dầu, rồi cạo gió như con người, rồi cho nó vào chỗ kín nằm, thử xem sao, may ra nó hết cảm và mạnh trở lại, ai biết được. Thử nào ? Hai chàng nhất trí, rồi đi tìm hai cái muỗng và trút nửa lọ dầu vào thân thể con heo, rồi cùng nhau cạo gió, giống như đổ nước sôi cạo lông, làm thịt. Đây là ván bài cuối cùng »Mầy chết tao về, mầy sống tao ở lại« Hai chàng cứ cạo tới tấp, da con heo đỏ bầm và có trạng thái cục cựa, Tiết và Trắc kéo vào căn phòng kín lấy hai bao bố tời cũ đấp lại, rồi bỏ ra về. Tới đâu thì tới, mệt quá rồi.

  

   Sáng hôm sau đi làm, hai chàng không dám đi ngang qua văn phòng hai Tài, mà đi vòng ngõ khác để đến trang trại, vừa đến thì con heo mất tiêu, bao bố tời thì còn đó, nó mạnh khỏe lại và đi về hướng nó ở gần mé sông, hai chàng đi tìm, thì bỗng nghe tiếng ột ẹt, hai chàng mừng quá, thế là nó sống rồi.

  

   Thường khoảng 8 giờ 15 hai Tài mang cái túi da đựng hồ sơ từ văn phòng đi xuống trang trại để kiểm tra. Hai Tài thấy hai chàng đang lui cui bên con heo, và hỏi ?

-Sao, hai chú xử lý con heo thế nào rồi ?

-Dạ thưa chú hai, tụi cháu xử lý nó từ chiều ngày hôm qua, xong rồi, giờ chỉ còn cho nó đi đi, lại lại để kiểm tra lần cuối và cho vào chuồng, vì sợ lây những con heo khác.

-Hai Tài thấy con heo còn sống, vội khen, hai chú giỏi lắm, cán bộ kỹ thuật là phải thế chớ, tôi nghĩ hôm qua nó chết rồi, mấy chú cứu được nó, mấy chú giỏi thật.

-Dạ cũng thường thôi chú hai, chúng cháu hôm qua nhìn sơ, thấy chẳng có gì, tại chú hai quá quan tâm thế thôi

-Thôi các chú nghiên cứu tiếp những con khác nhé, đừng để xảy ra như ngày hôm qua.

-Dạ.

  

   Trên đường về văn phòng, hai Tài cứ khen Tiết và Trắc đáo để. Chính ông đã thấy nó sắp chết rõ ràng, mà sao hai anh chàng nầy làm sống lại. Quả thật là hay, vừa ngồi xuống bàn ông viết ngay tờ trình lên Thủ trưởng đề nghị khen thưởng Tiết và Trắc và chuẩn bị thứ hai tới sẽ trình bày vấn đề nầy trước buổi họp để mọi người học hỏi, rút kinh nghiệm. Và, đúng vậy sáng thứ hai Tiết và Trắc nhận được giấy khen của Tư Vân. Sau trận nầy Ban lãnh đạo nông trường tự dưng tin tưởng 15 anh em chúng tôi vô cùng. Bởi trước đó, họ mướn anh em chúng tôi thì mướn, nhưng họ luôn luôn ngờ vực.Và, may mắn hơn là nhờ lọ dầu xanh hiệu con Ó, mà tôi tồn tại nơi đây được một năm, trước khi về học ngành Thủy lợi. Còn các bạn tôi thì làm lâu dài hơn, có người làm đến khi nông trường giải tán.

 

Thủy Điền

Ngày 17, tháng 3, năm 2016

www.thivanviet.Wordpress.com

E.Mail. tran.vanmau@yahoo.de

 

 

 

 

 

108- Bác Trưởng Thôn

 

  Leo xuống xe, bước vào cổng làng, khoảng đường chỉ còn 200 mét nữa là đến nhà cô em gái. Nơi đây ngày xưa là nhà của mẹ tôi và tôi cũng được sinh ra trên mảnh đất nầy. Vừa định quẹo trái vào nhà thì gặp ngay ông Trưởng thôn. Ông hỏi ?

-          Điền, mới về hả mậy ?

-          Dạ, thưa mới về. Ông Trưởng thôn khỏe chứ ?

-          Khỏe, còn mầy ?

-          Dạ, cũng khỏe .

-          Gia đình bên ấy đều tốt cả ?

-          Dạ, thưa Trưởng thôn tất cả đều tốt.

-          Điền nầy, nhớ chút qua tao trình giấy nhé, tao phải đi, vì còn bận ít việc ở cuối thôn.

-          Dạ, tôi sẽ qua ngay.

-          Thế thì tốt, mình sẽ gặp lại.

 

   Thú thật thì tôi và Trưởng thôn là bạn thuở thời, vừa tình làng xóm, vừa tình bạn học trò. Khi lớn lên một chút, tôi đi tỉnh học, còn ông ta học tại quê nhà. Và, khi thật sự trưởng thành thì coi như mỗi người, mỗi hướng. Ông theo cha ông lên Sài-Gòn làm hỏa xa, riêng tôi đi học nghề rồi đi vượt biên luôn. Thời gian gần hai mươi năm không gặp mặt. Năm 2000 tôi có về quê lần đầu và lúc ấy có gặp lại ông với cương vị Trưởng thôn, hồi ấy ông ta cũng bắt tôi trình giấy, thủ tục như bao người khác. Vì mới về lần đầu nên tôi sợ lắm, ông bắt làm gì tôi cũng làm theo và không dám hỏi điều gì khác. Mặc dầu tôi với ông là bạn. Năm 2010, tức mười năm sau tôi trở về quê lần nữa, tôi ngỡ ông lên chức và đi nơi khác làm việc. Nhưng không ngờ vừa bước vào làng, chưa kịp hỏi ? Thì ông đã tự xưng mình là Trưởng thôn và cũng bắt tôi làm y trang như lần về kỳ trước. Như đã hứa, chiều lại tôi sang nhà ông để trình giấy tạm trú, bước vào nhà, ông và bà xả niềm nỡ đón tiếp tôi. Ngồi vui vẻ, hỏi thăm, nói qua , nói lại làm mấy cái thủ tục tạm trú. Thấy ông cỡi mỡ, nên tôi hỏi ?

-          Thưa trưởng thôn, xin Trưởng thôn cho biết bây giờ tôi phải gọi ngoài Trưởng thôn với cái tình ngày xưa bằng danh từ nào cho phải phép. Ông ngồi lặng thinh một hồi và nói.

-          Ôi ! Cái gì cũng được . Mầy bày vẽ quá.

-          Thưa không, ngày xưa bọn mình còn nhỏ là khác, bây giờ Trưởng cả một thôn là khác.

-          Thôi mầy cứ gọi Trưởng thôn thế là xong. Tôi hiểu ý ông cũng muốn phân cách một phần nào đó. Và, hỏi tiếp ?

-          Lần trước, cách đây mười năm tôi về, ông là Trưởng thôn mà sau mười năm cũng chẳng có gì đổi khác cả. Ông cười cười rồi bảo.

-          Thì vậy đó, thắc mắc làm cái gì, còn làm Trưởng thôn là may, còn không tao cũng giống như những người đàn ông trong thôn nầy thôi. Mà có lẽ cuộc đời tao chỉ nhận một mức lương cố định.

-          Sao thảm vậy Trưởng thôn ?

-          Tao đã nói với mầy là vậy đó, nếu mười năm sau mầy về lần nữa, mầy còn thấy tao làm Trưởng thôn tức là tao có phước lắm rồi. Mầy thấy tao không ngon hơn Chủ tịch, Thủ tướng sao ? Mấy ổng bây giờ, có ông nào được làm lâu hơn tao đâu, giỏi lắm là hai nhiệm kỳ hoặc ba nhiệm kỳ là cùng. Còn tao đường vận mệnh Chính trị suốt cả một đời.

 

    Tôi ngồi vừa uống trà, vừa nghe ông nói, nửa buồn cười, nửa thấy cũng đúng. Thật đúng là luận điệu của một nhà Chính trị Trưởng thôn.

   Khi ra về, tôi thầm nghĩ ông bạn ngày xưa của tôi không cần tiền lương cao, thấp. Không cần một chức vụ cao quý trong xã hội, mà chỉ cần một công việc đến suốt đời, dầu chức vụ ấy chỉ là một Trưởng thôn.

  

Thủy Điền

Ngày 14, tháng 3, năm 2016

www.thivanviet.Wordpress.com

E.Mail. tran.vanmau@yahoo.de

 

107- Miếng Đất Hất Cái Tình

 

    Sau ngày giải phóng một năm. Cô năm Nga trở lại quê nhà sau bao ngày xa cách, tuy nói về thăm nhà, nhưng nhà đâu nữa mà thăm. Nơi ấy bây giờ chỉ còn lại một mảnh vườn và nhiều cây ăn trái xanh um màu lá. Vì những năm 65-66 giặc giã đã thiêu đốt trụi căn nhà ấy và gia đình cô phải tản cư đi nơi khác để mưu sinh. Tình cờ cô gặp ba Thủy vợ sáu Oanh đang làm cỏ mấy gốc Đu đủ trên mảnh đất nhà cô ngày xưa. Cô hỏi ?

-          Vợ thằng Oanh bây khỏe hả, mấy đứa cháu chắc lớn cả, có đứa nào vợ con gì chưa ?

-          Dạ, chị Năm mới về, em khỏe chị, các cháu lớn cả, nhưng em chưa làm Sui với ai hết.

 

    Chỉ câu trả lời ngắn gọn, rồi bỏ về, đóng cửa chặt và biến mất trong ngày hôm ấy và cũng chẳng một lời mời chị năm sang dùng nước ; Thăm hỏi cha mẹ mình giờ ra sao. Cô Năm chưng hửng và tự hỏi ? Cái con nầy đổi tính nhanh thế, rồi đành sang nhà người quen cạnh đó uống ly trà. Bà hàng xóm nói.

-          Vợ thằng Oanh thấy bây về, sợ đòi đất lại, nên lánh mặt vậy thôi.

-          Cô Năm bùi ngùi và ra về với nỗi buồn vô kể.

  

    Cô Năm là người sanh đẻ tại xã Bà Ụt, thuộc huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền giang ngày nay. Nơi đây là quê ngoại của cô. Năm 1966 cũng chính chốn nầy từng hứng chịu rất nhiều đạn bơm, nên gia đình cô phải di tản cùng những gia đình khác xuống tận cồn Rồng, Mỹ Tho để sinh sống tạm. Ở đây cô làm nghề quạt vôi, còn cha mẹ cô thì bán vôi dạo bằng ghe. Được năm năm định trở về quê Cai lậy lại, nhưng giặc giã càng lúc càng nhiều, hơn nữa nhà cửa thì không còn, cha cô đành quây ngược, trở về Sóc trăng quê ông, để sống bằng nghề làm ruộng. Hồi đầu thì mướn, nhưng sau nhờ luật « Người cày có ruộng « nên cha cô được làm chủ ba mẩu đất, canh tác cho đến ngày nay.

  

    Sáu Oanh là em bạn Dì ruột với cô Năm và cũng là em Út trong gia đình. Cha sáu Oanh chết trong những năm kháng chiến, sau khi mẹ sáu Oanh vừa sanh con xong và cũng mất ngay ngày hôm đó. Vì là Dì ruột, nên mẹ cô Năm phải mang cháu mình về nuôi thế em, trong hoàn cảnh khó khăn và từ đó sáu Oanh là em út trong nhà. Khi sáu Oanh lớn lên, bà đi cưới vợ cho sáu Oanh là cô ba Thủy và ba Thủy chính thức là con dâu Út của cha mẹ cô cho đến ngày nay. Trước khi lấy vợ, sáu Oanh đã từng tham gia cách mạng và là một cán bộ cao cấp của huyện Cai lậy. Năm 72 sáu Oanh trên đường đi công tác qua xã Bình Phước, bị phục kích và hy sinh tại đó, chức vụ cuối cùng là Huyện đội trưởng huyện đội Cai Lậy. Sau ngày giải phóng, với chánh sách đãi ngộ cho những gia đình Liệt sỹ, ba Thủy vợ sáu Oanh được nhà nước cấp cho hai mẩu vườn ở Xã Bà Ụt, đồng thời cũng được cấp giấy hưởng luôn phần đất của cha mẹ cô Năm, vì gia đình nầy đã tự động bỏ xứ đi rất lâu cộng sáu Oanh là con út trong gia đình. Ngoài ra, ba Thủy còn hưởng thêm phần đất đai của cha mẹ ruột cô đã chia từ trước nữa. Tất cả diện tích đất nầy, ba Thủy trồng toàn những thứ trái cây đắc giá, nhiều nhất là Đu đủ, hàng năm thâu nhập lợi tức rất cao.

  

   Cô Năm về quê với mục đích là thăm lại cái quá khứ xa xưa, thăm ba Thủy và các cháu, chớ nào có ý định gì đâu. Bởi, một khi đã bỏ xứ ra đi, hơn nữa bây giờ ở Sóc trăng cô có cả ba mẩu đất thênh thang, đang canh tác và cha mẹ cô chỉ còn mỗi mình cô. Nên cô đâu cần về lại Cai Lậy để chia năm, xẻ bảy với em mình.

 

   Còn ba Thủy thì ngược lại, không nghĩ thế, chỉ nghĩ chị mình về để đòi lại, chia chát phần tài sản của cha mẹ ngày trước, nên khi gặp cô Năm về thăm đành lạnh lùng biến mất. Và, kể từ đó cho đến nay, cô Năm thề, cô không còn dòng họ với ai ở đây và cô cũng không bao giờ trở lại đất Bà Ụt nữa, vì « Miếng đất đã hất cái tình » mất rồi.

 

Thủy Điền

Ngày 13, tháng 3, năm 2016

 

 

 

106- Bên Quán Cà-Phê

 

   Qua bao lần về thăm quê, nếu có đi thăm bà con hay đi chơi xa thì thôi, còn không đi đâu, thì sáng nào cũng cùng mấy ông bạn ngồi lê la, đàm đạo gần cả buỗi trời ngoài quán Cà-Phê cô Cúc đầu ngõ.

 

 

   Thường mấy ông bạn hay nói, nhờ có mầy là Việt kiều nên được ngồi lâu như thế nầy. Tôi hỏi tại sao ?

-          Vì cô ta nể bụng, chứ uống có một ly Cà-Phê mà đày người ta châm năm, bảy bình nước trà, người ta mắng cho mà nghe. Tôi bảo.

-          Thì mình trả tiền nước trà là xong, ai dám mắng mình, vô lý.

-          Trời ! Trời, Mầy tưởng tụi tao giàu lắm hả Điền, tiền Cà-Phê thỉnh thoảng còn ghi lên, ghi xuống, bây giờ trả thêm tiền nước trà nữa, chắc ở đây rửa ly cho cô Cúc trừ quá. Vừa nói xong, mọi người áp cười và cô chủ quán gương mặt cũng đỏ bừng.

  

    Trong cái bực bội, cũng có cái may, là những ngày ghé qua uống Cà-Phê, tôi hay nói chuyện nầy, chuyện nọ, tiếu lâm, nên có rất nhiều khách mới. Thậm chí có những người xưa nay không biết uống Cà-Phê cũng vào gọi tạm ly trà đá, đá chanh rồi ngồi nghe chuyện, nên quán cô cũng đông lên dần. Không biết ? Sau ba mươi ngày tôi đi, quán cô có còn được vậy hay không ?

 

     Mỗi buỗi sáng uống Cà-Phê, dường như tôi đều nhận được những câu hỏi và những mẩu chuyện khác nhau. Nhưng đặc biệt câu chuyện «  Sướng và khổ «  thường được người ta lập đi, lập lại nhiều lần. Có lần thằng Hùng bạn tôi hỏi ?

-          Đi ngoại quốc ở sướng thật, làm Việt kiều lại càng sướng hơn. Tôi trả lời.

-          Sao Hùng dám khẳng định như vậy.

-          Còn cái gì nữa mà khẳng định hay không khẳng định.

-          Sao hồi đó Hùng không đi ?

-          Tao không có điều kiện.

-          Tôi cũng như Hùng thôi, mẹ tôi phải bán đất, bán vườn, gom góp cho tôi đi, bây giờ bà còn chỉ cái nhà, còn Hùng thì còn tất cả, chẳng mất thứ gì. Tóm lại, hai ta bằng nhau, chẳng ai sướng hơn ai cả. Đúng không ? Hơn nữa bây giờ là chín giờ sáng mà Hùng còn ngồi đây, ngày nào cũng thế và Hùng có thể ngồi tiếp tới mười hai giờ trưa hoặc đến chiều cũng được. Sau giờ đó, về nhà Hùng cũng có cơm ăn và ngủ thẳng giấc. Riêng bọn tôi ngoài ấy không được đâu Hùng, sáng là bảy giờ hoặc bảy giờ ba mươi là phải có mặt tại hãng để làm việc đàng hoàng, và một ngày tám tiếng răng rắc cho đến sáu mươi bảy tuổi, mới chính thức được nghỉ hưu. Riêng Hùng và các bạn ở đây bằng tuổi tôi, mà đã nghỉ trước đây năm , sáu năm rồi. Và, một điều để cho Hùng hiểu thêm, khi sang ngoại quốc tôi không dễ dàng leo lên máy bay, bay nửa ngày qua bên đó đâu. Tôi phải chui nhủi, lén lút mới ra được biển khơi- được tàu vớt- bỏ lên đảo lây lất mấy tháng trời, tưởng chừng như thất vọng. Hồi ấy họ bắt buộc vào rừng sống với người thiểu số Nam Dương cũng phải đành.

 

     Một ông bạn khác lại bảo, mấy ông Sĩ quan đi diện HO sướng thật, trước ở Việt nam làm Sĩ quan, giờ sang Mỹ, cuộc đời mấy ổng số là Vua. Tôi cười, đừng nói vậy, người ta nghe được người ta buồn.

-          Buồn sao được mà buồn, mấy ổng là Vua chớ còn gì.

-          Sao không nói, họ sang được Mỹ là cả một vấn đề và khổ sở của họ. Họ được sang Mỹ là họ cũng đã trả giá mười mấy năm trời cải tạo của họ rồi đó, họ sang Mỹ, họ lớn tuổi cả rồi, họ chẳng làm gì được hết, họ ngồi nhà, bạn biết nỗi khổ tâm của kẻ ngồi nhà, nhìn ra ngoài trời toàn là Tuyết trắng và chờ đến một ngày nào đó, có thể họ phải vào viện Dưỡng lão nữa là khác, vì con cái họ phải đi làm, không người chăm sóc. Không như quê nhà còn được cháu A, cháu B giúp việc nầy, việc khác đâu.

  Qua những câu chuyện trên và còn nữa, tôi không ngờ họ hiểu một cách cạn cợt như thế, họ chỉ nhìn một cách đơn giản bên ngoài mà tự hoạ một vấn đề, mà mình vừa uống Cà- Phê vừa phải giải thích mỏi miệng, phải ai cũng nghe hết đâu, có kẻ thức thời, có kẻ không. Chính từ  những sự suy nghĩ tầm thường ấy, mà biết bao gia đình vì nhớ thương quê nhà, cha mẹ, anh em, làng xóm khi trở ra đều thất vọng với những người thân của mình. Thật là đáng tiếc.

 

Thủy Điền

Ngày 08, tháng 3, năm 2016

 

 

105- Bắt Tay, Đừng Nên Bắt Chuyện

 

    Xưa nay người Phương tây khi gặp nhau, thường hay bắt tay. Riêng người Á đông mình thì ngược lại, mỗi khi gặp nhau đâu đó, thường hay bắt chuyện. Bắt tay là lối chào hỏi xã giao ngắn gọn, rồi đi. Còn bắt chuyện thì hơi dài dòng hơn, cũng thăm hỏi sức khỏe chung chung, chuyện gia cảnh, làm ăn và dần dà vui miệng, rồi đi xa thêm bước nữa.

 

    Ông sáu Chỉnh hành nghề lái xe Lam tuyến đường Tân Hiệp- Mỹ tho, gần chục năm nay, ông quen biết rất nhiều người và nhất là khu vực bến xe.

  

    Một hôm, xe ông đến tài, nhưng không biết lý do gì, mà cả giờ đồng hồ không có một người khách đến đi, thường khi tới tài, khoảng mười lăm, hai chục phút thì xe ông cũng như những xe khác, mười chỗ ngồi chật nứt. Thậm chí, khách đến sau phải chờ đợi đến chuyến khác. Trong lúc chờ khách, vừa hút thuốc, vừa cầm cây chổi nhỏ quét sàn xe cho sạch sẽ, vô tình ông nhìn thấy vợ thằng năm Gà tòn ten với người đàn ông khác. Chuyện nầy ông cũng đã nghe gần cả năm nay rồi, nhưng đâu có thấy tận mặt, bắt tận tay, chỉ nghe đồn đại, loáng thoáng mà thôi. Mà cả thằng năm Gà cũng thế, nghe người ta nói, rồi về ghen bóng , ghen gió, vì không nắm rỏ sự việc, hay bắt quả tang. Nên bị vợ phản công mấy lần. Sở dĩ thằng năm Gà làm thế, là gì nó quá thương vợ và muốn cản ngăn, phòng hờ, tránh hậu họa.

  

    Sau giờ làm việc về nhà, trong buổi cơm chiều, ông sáu tâm sự hết sự việc nhìn thấy kể cho bà vợ nghe và bảo rằng, bà không được nói với ai điều nầy. Lỡ, vợ thằng năm Gà nghe được là nó sang mắng hai vợ chồng mình, có môn mà độn thổ luôn. Vừa ăn cơm, vừa nghe câu chuyện ông kể, bà ừ, ừ. Tôi không có nói đi, nói lại đâu, ông khỏi lo. Nghe bà nói vậy ông rất an tâm, rồi ông bồi thêm vài lời, nói thì nói vậy, kệ, chuyện nhà ai nấy lo, đèn nhà ai nấy rạng.

  

    Sáng hôm sau đi chợ, bà Sáu gặp bà hai Nhành bạn thân, thăm hỏi ba điều, bốn chuyện bà vui miệng kể hết câu chuyện hôm qua cho bà bạn nghe và cũng bảo, chị đừng nói với ai. Bà bạn hứa sẽ không lập lại chuyện nầy. Thế thì bà sáu Chỉnh rất yên tâm và ra về.

  

    Mấy ngày sau, ông hai Nhành kể cho ba Hoạch, ba Hoạch là một người bạn nhậu, thân thiết nghe tất cả câu chuyện. Ba Hoạch cẩn thận, hỏi hai Nhành ?

-          Hỏi thật anh Hai ? Anh nghe tin nầy từ đâu vậy.

-          Tôi nghe vợ tôi kể, chắc chắn là có thật đó chú.

-          Anh hỏi kỷ lại đi, chuyện không đúng, thiên hạ nghe được kẹt lắm đó anh Hai.

-          Thì tôi bảo với chú, là chỉ nghe nói lại thôi, chuyện nầy nghe xong, chú đừng nói với ai là được, ai biết, mà mắng mình.

-          Ờ, thì xưa nay, anh thấy tôi có nói ra, nói vào gì đâu.

-          Bởi tôi tin chú, nên tôi mới kể, người khác khại miệng, cho tiền, tôi cũng chẳng thèm nói.

 

    Trong ngày đám cưới thằng Lân con ông Bửu Khiêm, có mặt đông đủ bà con trong xóm. Vợ ba Hoạch khiều, khiều vai bà sáu Chỉnh nói nhỏ.

-          Chị Sáu, chị ra đây, nghe em kể chuyện nầy cho chị nghe, động trời lắm.

-          Mà chuyện gì, bà làm quan trọng vậy bà Hoạch.

-          Chuyện vợ thằng năm Gà ngoại tình, chớ ai vô đây. Bà Sáu chỉnh biết ngay là bể chuyện, nên giả đò không biết, hỏi tiếp ? Rồi sao nữa.

-          Ăn ở với người khác lâu lắm rồi, thằng năm Gà bị cậm sừng, mà nó không biết.

-          Chuyện ghê gớm vậy sao ?

-          Em biết lâu rồi, mà tại em không thèm nói thôi, em thấy chị là người kín miệng, nên em mới kể.

-          Cám ơn thím, nghe để tai, tôi chẳng thêm bớt gì đâu. Thôi ta vào ngồi mâm, để mọi người chờ, không nên.

 

    Ăn tiệc cưới về, bà kể cho ông nghe. Ông sáu nầy, hôm nay đi ăn cưới, vợ ba Hoạch kể cho tôi nghe rất rành rẽ chuyện vợ thằng năm Gà ngoại tình với người khác. Vậy là hôm rồi ông kể cho tôi nghe, là hoàn toàn sự thật đó ông. Không lầm đâu.

  

    Ông Sáu vừa nghe bà kể, nửa tin, nửa ngờ vực. Chẳng lẽ ? Mà bà có kể chuyện nầy cho ai nghe không ? Bà chối.

-          Tôi hứa với ông, là tôi chẳng nói ai, tôi là vợ ông, ông không tin tôi à ?

-          Không phải không tin, nhưng tôi sợ bà vui miệng với một ai thì chết mất. Thôi bỏ qua chuyện nầy đi, chuyện của người ta, đừng thèm quan tâm cho mệt. Có hay không kệ họ, chẳng liên quan gì đến mình.

 

    Một tháng sau, vợ thằng năm Gà nghe được, nó mắng cho bà Ba Hoạch một trận, bà ba Hoạch đổ thừa bà hai Nhành, bà hai Nhành đổ thừa bà sáu Chỉnh. Cuối cùng cả xóm bị vợ thằng năm Gà mắng tan nát như tương bầm.

 

    Kết cuộc hỏi ra, vợ thằng năm Gà đâu có ngoại tình với ai đâu, nó chỉ quan hệ vui vẻ với đối tác trong việc làm ăn hàng ngày, lúc thì đi chung, lúc thì thân mật, lúc cười giỡn, lúc đi ăn quán chung, chứ có gì đâu mà thiên hạ nhỏ, to, mổ xẻ ra làm trăm mảnh. Công bằng mà nói, nếu nó ngoại tình thật, nó bỏ nhà đi theo người khác lâu rồi, đừng nói chuyện nó mỗi ngày về sống chung với thằng năm Gà cho mất công.

  

    Sau cơn ấy, ông Sáu nói với bà Sáu, từ rày trở lên, tôi khuyên bà khi gặp người quen dọc đường hay ở đâu cũng thế, nên bắt chướt người Tây bắt tay, chớ đừng nên bắt chuyện. Dễ bị mắng lắm bà ơi.

 

 Thủy Điền

Ngày 26, tháng 02, năm 2016

  

 

 

104- Trớ Trêu

 

    Nghe tiếng mở cửa, Vạn từ lầu ba chạy xuống thấy mẹ và người đàn ông lạ bước vào nhà. Vạn hỏi ?

-          Sao hôm nay mẹ về sớm thế, mọi khi năm, sáu giờ chiều mẹ mới về kia mà. Chào Bác.

-          Chào cháu.

-          Còn ông khách nầy là ai đấy mẹ ?

-          Ờ….ờ…..ờ người làm chung Cơ quan, ghé thăm mẹ đó mà.

-          Mời anh Chinh ngồi nghỉ, uống chi ?

-          Cô cho tôi ly nước Suối cũng được.

 

    Bà Sự kéo Vạn vào nhà bếp và hỏi ?

-          Còn con, sao hôm nay bộ bỏ học sao mà cũng về sớm thế, con về hồi nào ?

-          Dạ, con về lúc mười giờ cơ.

-          Còn lý do ?

-          Hôm nay Thầy con bệnh, ông Hiệu trưởng chỉ dạy thế được hai tiết, rồi cho tất cả về hết, ngày mai đi học lại.

  

    Mời anh Chinh uống nước, anh Chinh nầy, hôm nay không tiện, mong anh thông cảm, khi khác ta sẽ gặp nhau nhé.

   Không sao ! Em cứ an tâm lo việc nhà, ta sẽ gặp nhau vào dịp khác, rồi cáo biệt ra về. Nghe tiếng cổng đóng lại, Vạn chạy xuống lần nữa.

-          Khách về rồi hả mẹ ?

-          Mầy đi lên lầu đi, để mẹ ngồi yên một chút được không ?

-          Dạ.

  

    Bà Sự ngồi trầm ngâm, buồn bã, khó xử, không biết thằng Vạn sẽ nghĩ thế nào khi có người đàn ông lạ cùng đi với mình về căn nhà nầy, trong lúc Cơ quan còn đang làm việc. Nó năm nay mười lăm tuổi chớ ít ỏi gì. Bà xoa xoa vầng trán, rồi ngã lên chiếc ghế Sa-lon ngủ hồi nào mà không hay.

  

   Vạn ngồi trong phòng, đóng cửa chặt lại, tắt máy Vi tính vừa đang chơi, chàng nhận ra người đàn ông cách đây một tuần, có cùng mẹ mình đến đón mình tại cổng trường. Nhưng ông ấy vừa đến, rồi vội vã đi ngay.

  

   Tiếng gõ cửa.

-          Vạn ơi Vạn, ăn cơm, mẹ nấu xong rồi, xuống ăn mau.

-          Dạ, con xuống ngay. Vừa ăn cơm, vừa nói qua, hỏi lại. Bỗng dưng Vạn hỏi ? Ông Bác hồi trưa có thường hay đến nhà mình chơi không mẹ .

-          Chỉ mới lần đầu.

-          Tuần trước con thấy ông ta đi cùng mẹ đến trường đón con.

-          Sao con nói thế ?

-          Giống hệt ông ta, chắc có lẽ con nhầm một ai, xin lỗi mẹ.

 

    Khi nghe Vạn kể hồi tuần trước, bà Sự choáng váng, nghẹn và ăn cơm hết ngon, bà nói.

-          Vạn, con ăn tiếp đi, mẹ thôi.

-          Sao mẹ ăn ít thế ?

-          Hôm nay trở trời hay thế nào, mẹ cảm thấy yếu trong người, ăn mất ngon. Mẹ đi nghỉ một lát.

-          Mẹ cần thuốc không ? Để con đi lấy cho mẹ uống.

-          Khỏi, một chút mẹ sẽ tỉnh ngay, không sao đâu con, ăn xong mang xuống bếp, lát nữa mẹ rửa, con lên phòng học bài tiếp đi.

-          Dạ.

  

    Chuông điện thoại reo vang.

-          Hallo, anh đây, em và con có khỏe không ?

-          Dạ, anh hả, ở nhà khỏe cả, anh có khỏe không, bao giờ anh về ? Vạn ơi Vạn, ba con gọi điện về nè Vạn.

-          Nó làm gì thế ?

-          Dạ, chắc nó đang ngủ.

-          Thôi, kệ để nó ngủ đi, em cứ nói có ba gọi về thăm là được rồi. Vì nay mai anh cũng về rồi, thời gian học tập xong trước dự định.

-          Mừng quá, vậy bao giờ anh về ?

-          Đúng một tuần nữa, em và con ra Phi trường đón anh.

-          Dạ, anh báo cho em lần nữa nhé.

-          Ừ.

 

    Khi cú Điện thoại gọi về từ Paris, bà Sự lẽ ra phải mừng rỡ, vì ngày về của chồng đã đến gần, ngược lại bà dường như bị choáng váng và muốn thời gian dừng lại, nhưng sao nó càng qua nhanh quá, bà bắt đầu ngã bệnh, thân thể tiều tụy, chẳng làm ăn được vì cả, trông người cứ lo sợ hết chuyện nầy, đến chuyện khác. Cả đến thằng Vạn là người hủ hỉ hằng ngày với bà, mà bà cũng chẳng màng tâm đến.

 

    Trên chuyến xe từ Phi trường về nhà, ông nhìn bà trong sự xót thương, cứ nghĩ bà buồn, chờ đợi mà ra thế. Ông nói ?

-          Anh về rồi, mọi chuyện sẽ ổn thôi, buổi cơm gia đình sẽ ngon hơn, giấc ngủ sẽ dài hơn.

-          Cám ơn anh, rồi ngồi yên như bất động. Chẳng nói thêm lời nào, đến nổi chiếc xe dừng trước cửa nhà, mà bà cũng chẳng hay.

  

     Trong những ngày còn nghỉ phép, mẹ đi làm, chỉ còn mình ông và thằng Vạn ở nhà, hai cha con tâm sự với những ngày xa xứ. Vô tình thằng Vạn kể hết chuyện nầy, chuyện nọ, chuyện người đàn ông lạ đến nhà, làm cho ông băn khoăn cộng lời ra, tiếng vào của mấy mảnh tình chồm xóm. Sự nghi kỵ cứ dồn dập vào người. Nhiều lúc ông định hỏi bà cho ra lẽ, nhưng thôi. Vì hỏi ra là điều không ai muốn khi mình đã xa nhà gần hai năm trời nơi đất khách.

   

     Một hôm ông gặp người bạn thân cùng Cơ quan, vì thương bạn mà kể hết sự thật và cũng vô tình làm cho gia đình ông tan nát sau nầy.

    Về nhà, sau buổi cơm chiều, vì thương vợ, thương gia đình ông đành bật miệng, tưởng bà trả lời thế nào còn tha thứ, cứu giản. Ai ngờ ! Bà thú thật tất cả, rằng bà đã yêu người đàn ông khác và đang chờ ông về để nói ra sự thật. Khi nghe xong, ông không còn gì phải hỏi và chỉ biết ôm đầu bật khóc. Khóc cho số phận, khóc một sự việc không lường trước được.

    

     Ngày ra tòa ly dị và cũng là ngày bà cuốn gói theo người khác, chỉ còn lại ông và Thằng Vạn lẻ loi trong căn nhà rộng lớn, đầy đủ tiện nghi, thật là buồn tẻ và ảm đạm.

 

 

Xã hội ngày nay quá trớ trêu

Được « Bằng » mất « Vợ « Vỡ ra điều

Cả hai, ai muốn, thời cũng khó

Cách mặt, xa lòng « lỡ dở yêu « .

 

Thủy Điền

 

 

 

103- Chim Đại Bàng Gãy Cánh

 

   Giữa đêm, khi mọi người đang ngon giấc, thành phố còn đang ồn ào của đêm Giáng sinh 2010. Hắn bò lên cây cầu Dừa, gõ cửa sau nhà.

-          Mẹ ơi, mẹ ơi, mở cửa cho con vào, nhanh đi mẹ.

-          Trời đất ơi, sao con ra nông nỗi nầy hả Cường ?

-          Đừng hỏi nữa mẹ, đóng cửa lại đi, mọi chuyện sáng rồi hãy tính. Rồi hắn đóng cửa phòng chặt lại, làm cả nhà phải lo sợ, thấp thởm, thức sáng đêm và trông trời mau sáng, để xem việc gì đã xãy ra.

 

    Hắn rất hiền và là đứa con ngoan ngoản nhất nhà. Tuổi thanh xuân, hắn chưa hề bị cha mẹ, gia đình phiền trách và cả xóm giềng cũng thế.

 

    Năm hắn học lớp tám, vì hiền quá, nên hay thường bị bạn bè lấn ép, thậm chí còn bị chúng đập vô cớ cho mấy trận. Hắn tức giận vô cùng, lẽ ra hắn phải báo với cô giáo, nhà trường hay về nói lại với cha mẹ, để mọi việc cần phải được chấm dứt ngay. Đàng nầy hắn cứ chịu đựng, lặng câm. Và, lâu ngày vẫn cứ thế, hắn không chịu nổi nữa, nên suy nghĩ và tìm cách chóng đỡ.

 

    Một hôm tan học về, hắn bị ba thằng bao vây, hắn tựa mình vào góc tường và cầm sẵn cây thanh sắt, rồi đập cho mỗi thằng vài cây, chúng ôm đầu máu và rồi bỏ chạy. Chuyện chưa xong, ngày hôm sau chúng kéo đến năm thằng, nhất quyết thanh toán và xử đẹp hắn, ai ngờ ! Hắn cao cơ hơn, thủ sẵn con Dao trong cặp da, khi bị bao vây hắn nhào đến lụi đại vào một thằng rồi thoát thân. Khi thấy đỗ máu chúng cũng bỏ chạy lần hai. Cuộc đỗ máu động đến Nhà trường và Chính quyền, nên cuối cùng hắn bị kỷ luật và đành bị đuổi học. Sau cơn ấy cha mẹ hắn gởi hắn vào học trường tư. Ở đây hắn muốn đi học lại bình thường, không muốn gây gỗ, đụng chạm kẻ khác. Nhưng rồi, cái đám lưu manh kia ở đâu cũng có, lại xuất hiện, vớ vẩn trước mặt hắn, khiến hắn không kiềm chế được và ra tay. Kể từ đó hắn trở thành một kẻ thất học và giới Giang hồ nhí biết đến, rồi tìm cách kết nạp hắn vào Băng, Nhóm. Lúc đầu hắn không tham gia, nhưng cứ ở nhà lang thang, lời ra, tiếng vào, thị phi, dèm pha nên hắn quyết định gia nhập vào Băng, Nhóm khi tuổi đời vừa mười sáu tuổi. Băng, Nhóm nầy toàn nhí, hút sách, cướp giựt, đứng bến, đòi nợ, bảo kê. Tay anh chị Trưởng nhóm chỉ vừa bằng tuổi hắn. Bước đầu hắn được phân công bảo kê nhà hàng, quán Karaoke. Đây là một công việc rất khó và phải gan dạ, bản lĩnh vì hắn phải đối đầu với các phe nhóm khác để giành địa bàn. Tay Đại ca ngồi nhà, bắt hắn và một số đàn em phải mọi giá giữ trọn các cửa hàng con đường Nguyễn Huệ và Nguyễn Tri Phương, nếu không hoàn thành nhiệm vụ, hắn sẽ bị đàn anh xóa tên. Hắn khi nghe nói hai chữ xoá tên, tự ái, tức quá, ở nhà chẳng làm tích sự gì, mà còn bảo « Nếu không xong việc, sẽ bị xóa tên « 

 

   Đêm ấy, hắn đang thâu tiền bảo kê tại một nhà hàng, thì bị nhóm khác ập vào thanh toán, đám bạn đi cùng hắn bảo vệ phía trước nhà hàng sợ, bỏ chạy. Chỉ còn một mình hắn trong nhà hàng và hắn nhanh nhẹn nhẩy vào nhà bếp chớp hai con Dao to và chiến đấu tới cùng, cuối cùng hắn thoát thân và để lại những vết Dao dằn mặt ; những vết máu vẫy đầy. Khi công an đến những anh hùng chiến bại được đưa vào nhà thương và sau đó vào khám Đường ngồi nghỉ mát, gỡ lịch. Về đến nhà, hắn móc túi trao hết số tiền cho Đại ca, Đại ca nói, thế là giỏi và thọt tay lấy tiền. Đại ca chưa kịp lấy tiền, hắn đang cầm con Dao trên tay đầy máu và sẵn dịp cho Đại ca về chầu Âm phủ, bởi lời nói cách đó vài giờ « Nếu không xong chuyện, mầy sẽ bị xoá tên « .

  

   Sau khi Đại ca qua đời, đàn em phong hắn làm Sư phụ và xâm sau lưng hắn một con Đại Bàng thật bự để thể hiện là một đàn anh. Thân hình hắn ốm tong, ốm teo khoảng bốn mươi lăm ký và là con thứ tư trong gia đình, hắn đổi danh là mười mập. Từ ngày hắn lên làm Đại ca, lời hắn hét ra là cả đàn em đều xanh máu mặt, vì hắn nói, là hắn làm ngay, hắn không chần chừ và biết sợ sệt. Đều đặc biệt ở hắn, là làm Giang hồ là phải ra tay, làm Đại ca là phải đi trước và hành động trước, nên đàn em hắn rất phục hắn.

  

   Khuya Nöel 2010, cũng vì giành giựt Địa bàn, hai phe đã bày trận sát đấu, kéo dài khoảng mười lăm phút, vì thấy đàn em chịu không nổi sức ép của đối phương, hắn hy sinh xung phong định hạ gụt tay đầu đảng, nhưng không ngờ, hắn bị một nhát chém lén sau lưng đứt nửa con Đại Bàng. May nhờ Công an vừa đến kịp lúc, đối phương kéo nhau bỏ chạy, nên hắn thoát chết. Tuy, bị thương rất nặng, hắn cố gượng, điều khiển và ra lệnh cho đàn em tẩu thoát, riêng hắn một mình nhẩy xuống dòng sông Bảo Định giữa đêm khuya bơi về nhà. Khi vừa vào nhà xong, hắn đóng cửa chặt lại. Ai ai cũng nghĩ hắn đang ngủ. Và, cả nhà đêm ấy phải đành thức trắng đêm, chờ sáng dậy, xem hắn sẽ nói điều gì. Ai ngờ ! Sáng hôm sau người nhà gọi hắn mãi mà không thấy trả lời, bèn tung cửa vào, thì thấy hắn đang nằm đấp mền và chết tự lúc nào. Cả nhà đỡ hắn dậy, lo dọn dẹp, tắm rửa để tẩn liệm, thì chợt thấy trên lưng hắn xâm hình một con Đại Bàng to tướng bị chém đứt làm hai. Ba hắn nói.

   Không ngờ ! Thằng Cường là một « Tướng cướp ».

 

Thủy Điền

 

 

 

102- Chú Tiều Phánh

 

   Mọi người ở bến đò Long Mỹ, xưa nay đều gọi hai ông bà người Hoa bán thuốc bắc, cái tên « Tiều Phánh « . Đặc biệt, cũng chẳng ai biết nguồn gốc gia đình Tiều Phánh có mặt ở bến đò nầy bao lâu. Nghe nói đâu, đời ông Cố, ông Sơ họ từ bên Tàu sang và tấp vào làng Long Phú nầy sống cho đến nay. Những người xưa thì đã qua đời, chỉ còn trơ lại Tiều Phánh và mấy anh em sống gần đó chừng năm cây số.

  

   Tiều Phánh còn có biệt danh nữa là « Tiều tiện « Sở dĩ có cái tên nầy là vì gia đình hắn tỏ vẻ bề ngoài rất hà tiện, hắn chỉ có cái áo Kaki xanh da trời mặt hết năm nầy, qua tháng nọ. Vợ, con hắn lúc còn nhỏ cũng thế, cứ lèn xèn, nhìn chẳng ra gì. Gia đình hắn chuyên bán thuốc bắc, củ Cải muối, dưa Cải ngâm, nước Tương, Chao và vài thùng thiếc bánh con Sò, bánh In, bánh lỗ tai Heo Xí muội, quả Hạnh ướp đường. Tiệm thuốc thì ít ai tới, cửa hàng thì ế ẩm, thế mà không biết sao hắn nuôi nổi mười đứa con đi học ở Sài-Gòn; đứa nào cũng thành tài và ở tận trên đó, thỉnh thoảng, lâu lâu chúng nó thay đổi về quê thăm hắn.

 

    Hồi đầu bà con ở bến đò Long Mỹ, nghĩ vợ chồng hắn hà tiện, chắc chiu, ăn cực, ăn khổ nuôi con, nên người ta mới gáng cho hắn cái tên « Tiều tiện « Vợ hắn thường hay đi chợ vào lúc xế chiều, chủ yếu mua hàng ế, thừa, giá rẻ. Riêng hắn chưa bao giờ ra quán Cà- Phê hay quán Hủ tiếu ngoài bến đò, mà chỉ biết ngồi nhà uống Trà một mình. Ngoài đường ai gọi hắn là Tiều tiện, hắn chỉ cười và cho qua. Nhiều lúc ở bến đò thấy vợ chồng hắn nghèo, con đông nên hay thường ghé qua, mua giúp cửa hàng hắn một ít, để gọi là. Rồi chuyện đời, thời gian, ngày qua ngày, chuyện ai nấy làm, nhà ai nấy sống, người ta không còn quan tâm đến hắn nữa, chỉ khi gặp nhau, gật đầu, chào hỏi, hốt thuốc, mua hàng, bán hàng bình thường như bao cửa hàng khác.

 

   Nhưng không ngờ! Sau ngày hòa bình, tá hoả ra, hắn không phải là Tiều tiện nghèo nhất bến đò, mà hắn là Tiều Nậu, giàu có nhất làng, chớ đừng nói nhất bến đò cho mất công. Hắn là tay Thương gia giả nghèo cả hai chục năm nay. Hàng tháng hắn chở một lần hai ghe bầu vào bưng để bán như : Vải Ny-Lon, gạo, muối, đường, kem đánh răng, thuốc lá, rượu, đậu xanh hột, thuốc bắc, thuốc tây, thịt và dụng cụ y tế. Hắn thu về một số tiền rất lớn, mà chẳng phải trả một đồng tiền công nhân hay một đồng thuế má nào. Bởi thế, hắn mới nuôi nổi mười đứa con ăn sung, mặt sướng nơi chốn đô thị phồn hoa Sài-Gòn và chúng đã thành công, có công ăn việc làm vững chắc nơi đó. Chỉ riêng hai vợ chồng hắn chịu hy sinh cực khổ nơi quê nhà.

  

   Năm 1979 hắn đóng vàng cho cả mười đứa con hắn đi đăng ký hợp pháp và cả mười đứa đều lọt qua Tây Đức hết, khi qua Tây Đức xong, chúng làm đơn bảo lãnh vợ chồng hắn ngay và chỉ trong vòng một năm, tức tháng mười hai năm 1980, là hai vợ chồng hắn có hộ chiếu, Visa leo lên máy bay sang Đức với diện đoàn tụ gia đình. Chưa hết, sau khi học tiếng Đức chín tháng bắt buộc hoàng tất. Hắn không cần tìm việc làm hay lãnh tiền trợ cấp nào của Chính phủ như bao người khác, hắn lập tức liên lạc các công ty lớn bên Pháp như Tăng freres , Paristore tại Paris (Pháp) rồi cùng các con mở ngay hai Siêu thị thực phẩm Á đông thật lớn để kinh doanh và hai Siệu thị ấy vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

 

Thủy Điền

 

 

101-Tìm Lại Mùa Xuân

 

      Cứ mỗi độ vào khoảng mùng năm, tháng hai dương lịch là Hoa thường hay bảo chồng.

-Anh ơi, mình đánh xe ra tiệm thực phẩm Á đông mua ít hàng về ăn Tết Nguyên đán.

-Quang bảo, đi thì đi, nhưng nói mua hàng về ăn Tết thì không đúng.

 Hoa hỏi? Tại sao.

 -Quang trả lời, ăn Tết, người ta ăn vào đầu xuân, Mai vàng, nắng ấm, còn đàng nầy ngoài trời Tuyết trắng vây quanh, bốn bề giá lạnh, mà bảo là ăn Tết. Tết cái nổi gì.

 -Thì mình ăn Tết theo quê nhà, ở đây có gì thì ăn nấy, cũng vui vậy. Có còn hơn không. Chẳng lẽ Tết ngồi xem Tivi thì cũng phô quá.

    

     Kể từ ngày xa quê đến nay, đã gần ba mươi lăm năm, năm nào cũng như năm nào, Hoa và Quang cũng cố tìm mua cho được những thứ như: Bột nếp , Đậu xanh cà, Củ kiệu, Gừng v.v..

để về làm cái Tết cho ra vẻ.

    

     Hồi những năm đầu mới sang, muốn mua những thứ nầy phải đi thật xa. Tận những thành phố lớn mới có, thật là vất vả, hơn nữa ngày Tết Nguyên đán thường rơi vào thời khắc Tuyết phủ đầy sân, khí trời cóng lạnh, thời gian đi mua rất là nguy hiểm. Qua nhiều năm, dần… dần có nhiều người Việt sang định cư, có vài người kinh nghiệm, khôn ngoan, nghĩ ra cách đi mua hàng từ nơi khác đem về, rồi chở đến tận từng